chua-loi-lap-luan-trong-van-nghi-luan-sgk-ngu-van-12-tap-1

Chữa lỗi lập luận trong văn nghị luận – SGK Ngữ văn 12, tập 1

Chữa lỗi lập luận trong văn nghị luận

I – LỖI LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC NÊU LUẬN ĐIỂM

1. Tìm hiểu những đoạn văn sau và cho biết việc nêu luận điểm mắc tội gì.

a) Cảnh vật trong bài thơ Thu điếu cua Nguyễn Khuyến thật là vắng vẻ. Ngõ trúc quanh co, sóng nước gợn tí, lá vàng đưa vèo, chiếc thuyền bé tẻo teo… Cảnh vật dường như ngưng đọng, im lìm. Bởi gậy, nét bút của Nguyễn Khuyến đã tạo dựng thành công cảnh sắc im ắng ấy.

b) “Nam nhi bị liễu công danh trái,
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu.”

Người làm trai thời xưa luôn mang theo bên mình món nợ công danh, mang khao khát “vinh quy bái tổ”, chức cao vọng trọng” để làm rạng danh tổ tiên, để mở mày mở mặt với thiên hạ… Phạm Ngũ Lão cũng mang theo bên mình món nợ công danh, nhưng qua hai câu thơ của ông có thể thấy cách nhìn, hoài bão và khao khát của ông cao hơn, xa hơn hẳn kẻ tầm thường. Theo ông, người làm trai phải trả món nợ công danh để không hổ thẹn với những người đi trước mình, những người xung quanh mình và quan trọng hơn là không hổ thẹn nới chính bản thân mình.

c) Văn học dân gian ra đời từ thời xa xưa nhưng đến nay vẫn tiếp tục phát triển. Nhắc đến nó, người ta hình dung ngay ra một cuốn sách bách khoa về cuộc sống. Tiếp nhận văn học dân gian là tiếp nhận tri thức hữu ích từ cuộc sống. Không cần lí lẽ, hình ảnh quá trừu tượng mà chính là kinh nghiệm từ đời sống phong phú sinh động đã khiến văn học dân gian có sức hấp dẫn. Ví như câu tục ngữ: “Cơn đằng đông đùa trông vừa chạy – Cơn đằng nam vừa làm vừa chơi”. Câu tục ngữ đã đúc kết được kinh nghiệm từ thực tế: Cơn mưa từ đông kéo tới thì mưa rất nhanh. Trái lại, cơn mưa đằng nam kéo đến thì rất lâu mới có mưa. Câu tục ngữ này đã giúp ích rất nhiều cho bà con nông dân.

2. Hãy chữa lại những đoạn văn trên để nêu rõ luận điểm cần trình bày.

II – LỖI LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC NÊU LUẬN CỨ

1. Chỉ rõ các lỗi nêu luận cứ trong các đoạn văn sau:

a) “Nắng xuống, trời lên xanh bát ngát
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.”

Thường khi nắng chiều đã xuống thì bầu trời trở nên xanh mênh mông bát ngát, cảnh đẹp của quê hương cũng không lấp được nỗi mênh mông trống trải cô đơn trong lòng người.

b) Trong lịch sử chống ngoại xâm, chúng ta thấy dân tộc ta anh hùng hào kiệt thời nào cũng có. Hai Bà Trưng phất ngọn cờ hồng khôi nghĩa đánh tan Thái thứ Tô Định, buộc hắn phải trốn vào đám loạn quân chạy về nước. Đất nước sau hơn hai thế kỉ bị phong kiến nước ngoài đô hộ đã giành được thắng lợi hoàn toàn.

c) Lịch sử dân tộc ta đã ghi lại biết bao nhiêu trang sử hào hùng với những tên tuổi sáng chói muôn đời. Ngô Quyền đánh tan quân xâm lược Nam Hán. Nguyễn Huệ đánh tan quân xâm lược nhà Thanh. Lê Lợi đại phá quân Minh. Ải Chi lăng mãi là mồ chôn quân xâm lược. Đời Trần Hưng Đạo lãnh đạo nhân dân đánh đuổi quân Nguyên, giành lại nền độc lập cho đất nước. Cửa biển Bạch Đằng lập chiến công lừng lẫy non sông. Những tên tuổi đó mãi mãi sống cùng non sông đất nước.

2. Hãy sửa lỗi trong các đoạn văn trên.

III – LỖI VỀ CÁCH THỨC LẬP LUẬN

1. Xác định, phân tích các lỗi về cách thức tập luận trong các đoạn văn sau:

a) Từ xưa, vẻ đẹp và số phận người phụ nữ luôn là một đề tài chủ đạo trong thơ văn. Trong nền văn học trung đại Việt Nam, nhiều tác giả đã viết về đề tài này như Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Nguyễn Dữ, Đặng Trần Côn,… Nhưng người đã phản ánh một cách sâu sắc nhất bi kịch của người phụ nữ chính là Nguyễn Du.

b) Nam Cao viết nhiều về nông thôn. Lão Hạc ăn bả chó tự tử để tránh đói.

Anh cu Phúc chết lặng trong xó nhà ẩm ướt, trước những đôi mắt “dại đi vì đói” của hai đứa con. Bà cái đĩ chết vì một bữa no, tức là một kiểu chết vì quá đói. Lại có cảnh đám cưới, nhưng cưới để chạy đói.

c) Mùa thu là một đề tài gợi nhiều cảm hứng cho thi nhân. Chính vì thế, mùa thu đã là một thi đề quen thuộc trong thơ ca trung đại Việt Nam. Tinh tế và sâu lắng nhất phải kể đến cảnh thu với nỗi sầu muộn vô biên của Đỗ Phủ (Thu hứng). Còn trong thơ ca Việt Nam trung đại, Nguyễn Khuyến chính là nhà thơ của mùa thu làng quê với chùm thơ Thu vịnh, Thu điếu, Thu ẩm.

2. Hãy sửa lỗi trong các đoạn văn trên.

GHI NHỚ:
Khi viết văn nghị luận, nên chú ý tránh một số lỗi:
– Nêu luận điểm trùng lặp hoặc không rõ ràng, không phù hợp với bản chất của vấn đề cần giải quyết.
– Nêu luận cứ thiếu chính xác, thiếu chân thực, không đầy đủ, không liên quan mật thiết đến luận điểm cần trình bày, trùng lặp hoặc quá rườm rà.
– Lập luận mâu thuẫn, luận cứ không phù hợp với luận điểm. 

* Soạn bài:

Chữa lỗi lập luận trong văn nghị luận

I. Lỗi liên quan đến việc nêu luận điểm.

Câu 1 + 2: Tìm hiểu những đoạn văn trong SGK và cho biết việc nêu luận điểm mắc lỗi gì? Sau đó sửa lại.

a. Luận điểm của đoạn văn bị lặp ý: lặp từ ngữ ở câu 1, 3 và 4 đều nói về sự vắng vẻ của bài thơ Thu điếu thay vì chỉ cần nêu luận điểm ở câu đầu.

– Sửa: Cảnh vật… tẻo teo, cảnh vật dường như ngưng đọng lại. Phải là một người rất yêu quê hương đất nước, Bắc Bộ, tác giả mới có thể miêu tả cảm xúc chân thật đến thế.

b. Lặp ý ở câu (1) và (3) vì ở 2 câu này đều xoay quanh việc “món nợ công danh” của người làm trai.

– Sửa:…. kẻ tầm thường, theo ông, người làm trai phải tự thẹn với chính mình, phải luôn luôn cố gắng và cống hiến hết mình cho đất nước, cho tổ quốc.

c. Luận điểm nêu ra ở câu đầu không phù hợp với các ý ở những câu sau.

– Sửa: Văn học dân gian là thành quả đúc kết kinh nghiệm của cha ông ta từ xưa đến nay.

II. Lỗi sai luận cứ

Câu 1+2:

a. Xanh bát ngát –> sâu chót vót

– Sửa: Nắng xuống trời lên sâu chót vót

– Khi “nắng xuống, trời lên thì bầu trời, lòng sông mở ra vừa cao, vừa sâu đến vô tận”.

b. Luận cứ thiếu chính xác: “Đất nước sau hai thế kỉ…. thắng lợi hoàn toàn”.

– Luận cứ thiếu toàn diện vì chỉ nêu dẫn chứng về Hai Bà Trưng.

Cần bổ sung cho phù hợp luận điểm: “Dân tộc ta anh hùng hào kiệt thời nào cũng có”

c. Luận cứ thiếu tính hệ thống, logic. Luận cứ không phù hợp với luận điểm: “Ải Chi Lăng…. Cửa biển Bạch Đằng”.

– Các địa danh này không phải là “tên tuổi”.

III. Lỗi về cách thức lập luận

Câu 1:

a. Trình bày luận cứ thiếu logic, lộn xộn. Hệ thống luận cứ không đủ làm sáng tỏ cho luận điểm chính: “vẻ đẹp và số phận…”.

b. Lỗi về phương pháp lập luận: luận cứ không phù hợp với luận điểm.

Các luận cứ đều nói về cái đói và những nhân vật gắn với cái đói nhưng luận điểm nêu ra lại là: “Nam Cao viết về nông thôn”. Bởi vậy chỉ cần sửa lại luận điểm là: “Nam Cao viết nhiều về vấn đề miếng cơm manh áo”.

c. Luận điểm không rõ ràng: Phần gợi mở mơ hồ, không ăn nhập với phần sau. Luận cứ không phù hợp phạm vi đề tài: “nỗi sầu…. của Đỗ Phủ”

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang