dan-bai-phan-tich-bai-tho-trang-giang-huy-can

Dàn bài phân tích bài thơ “TRÀNG GIANG” (Huy Cận).

Dàn bài phân tích bài thơ “TRÀNG GIANG” (Huy Cận).

Dàn bài 1:

  • Mở bài:

– Huy Cận (1919-2005), là một trong những tác giả xuất sắc nhất của phong trào Thơ mới. Thơ Huy Cận hàm súc, giàu chất triết lí, chất suy tưởng. Huy Cận sáng tạo nhiều tác phẩm giá trị, trong đó bài thơ Tràng giang là thi phẩm tiêu biểu nhất.

– Bài thơ “Tràng giang” sáng tác tháng 9/1939, in trong tập “Lửa thiêng” (1940). Bài thơ thể hiện nỗi sầu, cô đơn của cái “tôi” cá nhân trước thiên nhiên, vũ trụ thấm đượm: tình đời, tình người, lòng yêu quê hương, đất nước thầm kín.

  • Thân bài:

1. Ý nghĩa nhan đề và lời đề từ.

a. Nhan đề “Tràng giang”:

+ Ban đầu có tên “Chiều bên sông” gắn với bút pháp tả thực, sau đổi thành “Tràng giang”.

+ “Tràng giang” là cách đọc chệch âm của “Trường Giangà tạo nên điệp âm “ang”. “Ang” là âm mở, gợi ra dòng sông không chỉ tràng giang mà còn đại giang. Tràng giang mang âm hưởng từ Hán – Việt gợi không khí cổ kính và đầy tính khái quát: không chỉ gợi sự mênh mông bát ngát của không gian mà còn gợi nỗi buồn mênh mang rợn ngợp. Nhan đề gợi sự mênh mông rộng lớn. Không gian mang tầm vóc vũ trụ, nỗi ám ảnh của không gian.

b. Lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”:

– Lời đề từ đã thâu tóm khá chính xác và tinh tế cả tình (bâng khuâng, thương nhớ) và cảnh (trời rộng, sông dài) của bài thơ, hé mở nội dung, cảm xúc chủ đạo, hé mở hoàn cảnh sáng tác.

– Lời đề từ mở ra một không gian lớn mang tầm vóc vũ trụ ám ảnh không gian: rộng, dài, cao, đồng thời gợi lên cảm xúc hoang mang giữa không gian, hoài niệm điều gì đó bị thời gian vùi lấp à nỗi sầu vũ trụ thế nhân.

2. Bức tranh thiên nhiên sông nước vắng lặng, tiêu đìu.

– Không gian: mênh mang, bao la, rộng lớn “trời rộng sông dài” .

– Cảnh vật: hiu quạnh, hoang vắng, đơn lẻ, hiu hắt buồn:

+ Hình ảnh mang đậm màu sắc cổ điển: sóng, con thuyền, cồn nhỏ đìu hiu, bến cô liêu…Mây đùn núi bạc, cánh chim nghiêng

→ Đây là những thi liệu quen thuộc trong thơ đường. Những hình ảnh ấy gợi lên một sự vắng vẻ, lặng lẽ, buồn.

+ Bức tranh “Tràng giang” vẫn gần gũi, thân thuộc với mỗi người Việt Nam bởi: “cành củi khô”, “tiếng làng xa vẫn chợ chiều”... Đó là những âm thanh, hình ảnh của cuộc sống con người của miền quê Việt Nam.

– Sự đối lập giữa bao la mênh mông của trời nước với vạn vật nhỏ nhoi tạo nên  cảm giác lạc lõng con người cảm thấy cô đơn, bơ vơ.

→ Bao trùm bài thơ là một giọng điệu buồn. Dường như nỗi buồn đã thấm sâu vào cảnh vật.

3. Tâm trạng nhân vật trữ tình (nỗi lòng của nhà thơ).

– Nhà thơ cảm thấy cô đơn nhỏ bé trước mênh mông sông nước đất trời, không một niềm hi vọng của sự gần gũi, thân mật: “Đâu tiếng làng xa vẫn chợ chiều”,“bến cô liêu”; “không cầu”; “không chuyến đò”…

→ Những hình ảnh ấy gợi lên sự cô đơn lẻ loi của con người trước vũ trụ bao la.

– Nhìn cảnh vật trôi trên dòng sông nhà thơ cảm thấy thấm thía sâu sắc hơn sự trôi nổi của kiếp người.

“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng”

– Nối buồn của thi nhân chính là nỗi buồn mang tính thời đại – thời đại thơ mới – thời đại con người mất nước, mất tự do, cuộc sống chỉ là hư ảo, mộng mị, sống không có lí tưởng, không tương lai hạnh phúc. Đây có thể coi là “nỗi buồn đẹp”. “Tràng giang đã dọn đường cho lòng yêu giang san đất nước” (Xuân Diệu).

– Nhà thơ mượn một số cách diễn đạt của thơ Đường mà vẫn giữ được nét riêng biệt của thơ mới và hồn thơ Huy Cận.

+ “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc” tạo ấn tượng về sự hùng vĩ của thiên nhiên. So sánh với câu thơ: “Mặt đất mây đùng cửa ải xa” (Đỗ Phủ)

+ “Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa” – thời gian đã biến chuyển, hoàng hôn buông xuống và cánh chim đơn lẻ trong buổi chiều tà dễ gợi nỗi buồn xa vắng – nỗi buồn nhớ quê hương: “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”

– So sánh với hai câu thơ của Thôi Hiệu: “Nhật mộ hương quan hà xứ thị / Yên ba giang thượng sử nhân sầu” ta thấy với Huy Cận không cần có khói sóng trên sông vẫn nhớ quê nhà da diết  → Tình cảm quê hương sâu nặng, thường trực, cháy bỏng.

→ Đứng trước cảnh sông nước bao la, những đợt sóng xa bờ tít tắp, thi nhân như đang soi mình xuống dòng sông, thấm thía một nỗi buồn bơ vơ, lặng lẽ thả hồn mình về với quê hương.

4. Nghệ thuật biểu hiện:

– Cảnh vật vừa mang nét cổ kính thường gặp trong thơ đường, vừa gần gũi thân thuộc đối với con người Việt Nam.

– Những hình ảnh mang nét đẹp cổ kính:

+ Nhan đề: 2 âm Hán – Việt.

+ Câu thơ: “Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai” gợi nhớ câu thơ Thôi Hiệu: “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”.

+ Phương thức biểu đạt của thơ Đường: Vô hạn thiên nhiên >< hữu hạn của con người. Cái nhất thời >< vĩnh hằng

+ Thế giới bài thơ là thế giới thân thuộc của đồng quê, của non sông đất nước Việt Nam.

  • Kết bài:

“Tràng giang” là sự kết hợp hài hòa giữa cổ điển và hiện đại. Hình ảnh thơ không gọt giũa, dụng công mà vẫn có sức gợi đến khôn cùng. Chất Đường thi của Thôi Hiệu thuở trước giờ đã trở thành chất lãng mạn ngày hôm nay của Huy Cận. Sự kết hợp tuyệt diệu giữa cảnh và tình, hai mà như một, không chỉ gợi lên cảnh sông nước đất Việt mà còn là nỗi niềm của người con trước giang san đất nước. Phía sau bức tranh thiên nhiên đẹp nhưng đượm buồn là bức tranh tâm trạng của Huy Cận, một tâm hồn mang nỗi “sầu vạn cổ”, giàu tính nhân văn.


Dàn bài 2:

  • Mở bài:

Huy Cận là một nhà thơ lớn của phong trào thơ Mới giai đoạn 1932 – 1945. Nếu như Xuân Diệu là cái tôi rạo rực, đắm say, vồ vập, cuống quýt trước thanh âm cuộc đời, “là nguồn sống dào dạt ở chốn nước non lặng lẽ này” (Hoài Thanh), thì Huy Cận đắm chìm trong “mộng”, trong cái mênh mông, vô biên của vũ trụ, của thời gian, đầy chất suy tư và triết lý. Thơ ông bao la, vắng vẻ như những bức tranh Tầu, trong đó trời, mây, sông, núi choán cả phần chính. Huy Cận chú ý đến linh hồn hơn là nét vẽ và màu sắc, nên tranh ông thanh đạm lặng lẽ lạ thường. Thơ ông lại súc tích, kết đọng như thơ cổ.

– Bài thơ “Tràng giang” in trong tập “Lửa thiêng” (1940) là một thi phẩm tiêu biểu cho hồn thơ Huy Cận trước năm 1945.

  • Thân bài:

1. Bức tranh sông nước mênh mông thấm đượm nỗi buồn (khổ thơ 1):

a. Hai câu thơ đầu:

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song”

– Nhịp thơ 3/4, cách ngắt nhịp quen thuộc của Đường thi.

– Từ “gợn” chỉ chuyển động lăn tăn nhẹ nhàng của những cơn sóng nhỏ trên mặt nước → sự đối lập giữa những con sóng nhỏ bé, lăn tăn với 1 dòng trường giang dài rộng mênh mông và đó cũng chính là sự cô đơn của con người trước không gian thiên nhiên vũ trụ rộng lớn.

+ Tiếp nhận thơ ca phương Đông qua việc học tập tứ thơ nổi tiếng của Lý Bạch:

“Cô phàm viễn ảnh bích không tận
Duy kiến Trường Giang thiên tuế lưu”

(Cánh buồm lẻ loi xa dần mất hút giữa khoảng không xanh biếc
Chỉ thấy dòng sông Trường Giang chảy vào cõi trời)

– Cụm từ “buồn điệp điệp” gợi cho ta 2 cách hiểu. Đó hoặc sóng điệp điệp gối lên nhau mòn mỏi không dứt. Đó cũng có thể là nỗi buồn vì nhìn dòng sông mà gợn sóng lòng. Sáng tạo độc đáo vì từ láy toàn phần “điệp điệp” thường chỉ để miểu tả hình ảnh núi sông thì nay Huy Cận lại dùng nó để miêu tả nỗi buồn. Nỗi buồn ấy tuy nhẹ nhàng nhưng triền miên theo thời gian, nó cứ trở đi trở lại, lan tỏa và không có điềm dừng.

+ Ý thơ khiến ta liên tưởng đến câu ca dao:

“Chiều chiều bước xuống ghe thuyền
Sông bao nhiêu sóng, dạ em buồn bấy nhiêu”

“thuyền xuôi mái”: buông xuôi, bỏ mặc mái chèo gợi cảm giác bình dị, hiền hòa.

“nước song song”: dù thuyền và nước luôn ở cạnh nhau nhưng lại chẳng thể gặp gỡ, dường như đó là sự xa cách, chia lìa, không giao cảm.

b. Hai câu thơ sau:

“Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.”

– Cách đối “thuyền về” >< “nước lại” hết sức thú vị. Thuyền thì trôi về phía trước, nước lại rẽ ngược về phía sau, con thuyền như mất hút vào cõi xa xăm giữa mênh mông sóng nước.

“Sầu trăm ngả”: nỗi buồn, nỗi sầu trải ra mọi phương, mọi hướng không một điểm tựa. Tràng giang đã hoang vắn đìu hìu thì nay lại buồn bã, hiu quạnh đến vô cùng.

“Củi một cành khô”: một thi liệu độc đáo, hoàn toàn mới mẻ và chưa bao giờ xuất hiện trong thơ ca cổ điển trước đó.

+ Nghệ thuật đảo ngữ như hướng tới sự ít ỏi, nhỏ bé, đơn côi, gầy guộc, thiếu sức sống.

+ Ẩn dụ cho lớp lớp người thời đại lúc bấy giờ, họ lạc loài, họ buồn bã về sự nhỏ bé, vô nghĩa giữa dòng đời làm ta liên tưởng đến câu thơ của Tố Hữu: “Bâng khuâng đứng giữa đôi dòng nước / Chọn một dòng hay để nước trôi”.

2. Nỗi buồn giờ đây đã thấm sâu vào từng cảnh vật (khổ thơ 2):

a. Hai câu thơ đầu:

“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”

– Từ láy “lơ thơ” gợi sự vắng vẻ, ít ỏi và thưa thớt. Lác đác trên dòng tràng giang mênh mông chỉ có vài cồn nhỏ nhưng vẫn là cái cảm giác thiếu sự sống xuất hiện từ đầu bài thơ đến giờ.

– Từ láy “đìu hiu” không chỉ nhằm miêu tả cái hiu nhẹ của gió mà còn gợi tả không gian ngọn gió đi qua – một không gian tiêu điều, tàn tạ, vắng buồn.

– Bàn về Tràng giang” Huy Cận từng tâm sự, ông mượn từ láy “đìu hiu” ấy trong “Chinh phụ ngâm” của Đoàn Thị Điểm đoạn mô tả cảnh chiến trường: “Non kì quạnh quẽ trăng treo / Bến phì gió thổi đìu hiu mấy gò”

“Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều” gợi nên cho ta nhiều cách hiểu. Nếu coi đây là câu phủ định, “đâu” được hiểu là không có, đâu có. Dường như giữa không gian hoang vắng, hiu quạnh, lạnh buồn, nhân vật trữ tình khao khát lắng nghe những âm thanh thân thiết, những tiếng vọng ấm áp của cuộc đời, nhưng đâu có tìm thấy… Còn nếu hiểu “đâu” là một danh từ chỉ vị trí, chỉ một không gian không xác định thì câu thơ đã vang vọng đâu đó âm thanh của tiếng “làng xa” khi “vãn chợ chiều”. Nghệ thuật lấy động tả tĩnh cũng chẳng giúp không gian thêm tươi vui, nhộn nhịp như “Lao xao chợ cá làng ngư phủ” mà chỉ càng ngày càng nhuốm phủ thêm nỗi buồn. Dù hiểu theo cách nào đi chăng nữa thì vẫn cho ta thấy sự bất lực của thi nhân tìm kiếm hơi thở của cuộc sống nhưng nó sao xa xôi, mơ hồ quá vậy!

b. Hai câu thơ sau:

“Nắng xuống, trời lên, sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu.”

– “nắng xuống” > < “trời lên”: sự chuyển động theo chiều dọc tạo không gian cao vời vợi, sâu thăm thẳm của cả đất trời, sông nước. Dường như khi nắng đổ xuống thì vòm trời như được nâng cao, cụm từ “sâu chót vót” không chỉ miêu tả độ cao mà còn gợi ra cả độ sâu hun hút của đáy vũ trụ, làm tăng thêm cảm giác rợn ngợp đến không cùng.

– “sông dài” > < “trời rộng”: dòng sông thì trải dài tít tắp, bầu trời thì mở rộng bao la, cả một vũ trụ thăm thẳm vô biên đang lặng lẽ vận động làm ta thấy sự hùng vĩ của cảnh vật nhưng rồi chính sự hùng vĩ ấy lại khiến ta cảm thấy vẻ hoang vắng, quạnh hiu của “bến cô liêu”. Bến bãi nhỏ bé đặt trong tương quan vũ trụ gợi đến cảm giác trống vắng cô đơn đến tội nghiệp và thi nhân đã thêm 1 tính từ “cô liêu” càng làm tăng sự trống vắng, trơ trọi.

– Những tính từ gợi cảm xúc như “sâu chót vót”, “bến cô liêu” là những sáng tạo nghệ thuật đặc biệt của Huy Cận kết hợp với các hình ảnh “nắng xuống”, “trời lên”, “sông dài”, “trời rộng”, “bến cô liêu”, đã vẽ nên một không gian vô cùng, vô tận của tràng giang ở mọi chiều kích. Nhà thơ đã khắc họa nên một bức tranh thiên nhiên mênh mông sóng nước nhưng sầu buồn trăm ngả. Từ không gian ấy, ta nhận ra sự ám ảnh về cái vô biên và sự trống trải tuyệt đối của cảnh vật và lòng người.

3. Cảnh bèo trôi, bờ xanh hoang vắng (khổ thơ 3).

“Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng
………………….
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.”

– Nếu như ở các tác phẩm của Nguyễn Du ta thường hay thấy những câu thơ gây ám ảnh về số phận lạc lõng, cô đơn, vô định của con người trên dòng đời vô tận như “Hoa trôi man mác biết là về đâu” thì ở khổ thơ này chúng ta lại bặt gặp hình ảnh “bèo dạt về đâu hàng nối hàng” – một câu thơ mang đậm tính triết lí và rất giàu chất “thơ”. Đó là những cánh bèo trôi nổi, phiêu dạt trên sông nước hay cũng chính là sự bơ vơ, trơ trọi của lòng người. Đứng trước không gian mênh mông, rợn ngợp như thế nhưng nỗi buồn lại cứ nối tiếp nỗi buồn, con người thì lại càng nhỏ bé và quả thực “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”…

– Lạc lõng, cô đơn, con người mong muốn tìm tới những hình ảnh gần gũi, thân quen với cuộc sống trước cái vô cùng của vuc trụ. Đó là một chuyến đò ngang qua lại để làm một chiếc cầu nối đôi bờ xa cách. Nhưng không, hiện thực lại là “mênh mông không một chuyến đò ngang”. Ước mơ ấy có phần nhỏ bé và quá đỗi bình dị.

– Phó từ phủ định “không” lặp đi, lặp lại gắn với những hình ảnh mong ước của tác giả khiến cho những mong ước ấy dẫu bình dị, bé nhỏ cũng trở nên vô vọng. Cảnh vật lại tiếp tục rơi vào hoang vắng, lạnh lẽo. Con người lại rơn ngợp, lẻ loi giữa “bờ xanh” – “bãi vàng”.

– Nghệ thuật đảo ngữ ở từ “lặng lẽ” đã làm nổi bật lên cái cảm giác trống vắng đến tột cùng của thi nhân. Trong thế tương phản của “Tràng giang”, cái nhỏ càng thêm nhỏ bé đáng thương, cái lớn càng thêm mênh mông, rợn ngợp. Bởi thế, bước vào “Tràng giang” con người như choáng ngợp trước một tạo vật vô cùng.

→ Lặng nhìn cảnh vật, nhà thơ lại nhìn về dòng sông, nhìn cảnh xung quanh mong mỏi có chút gì đó quen thuộc mang lại hơi ấm cho tâm hồn đang chìm vào giá lạnh, cô đơn. Nhưng thiên nhiên đã đáp trả sự khao khát ấy bằng những hình ảnh càng quạnh quẽ, đìu hiu và lòng người lại rợn lên những lẻ loi, trống vắng.

4. Tâm sự nhớ quê và nỗi niềm của nhà thơ (khổ thơ 4).

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”

– Hình ảnh thiên nhiên hùng vĩ với “mây cao” xếp thành nhiều tầng tạo nên liên tưởng về dãy “núi bạc” khổng lồ, với cánh chim nhỏ cô đơn, nhỏ bé và bóng chiều bao phủ. Sà xuống chum lên cảnh vật.

– Động từ “đùn” khiến mây như chuyển động, có nội lực từ bên trong, từng lớp mây cứ đùn ra mãi. Đây cũng là một nét thơ đầy chất hiện đại, bởi nó đã vận dụng sáng tạo từ thơ cổ điển quen thuộc. Bóng hoàng hôn dường như đã sa xuống quá nhanh khiên cho cánh chim phải nghiêng ngả.

– Từ láy toàn bộ “dợn dợn” ở hai câu thơ cuối là một sáng tạo độc đáo của Huy Cận. Từ láy này hô ứng cùng với cụm từ “vời con nước” cho thấy một nỗi niềm bâng khuâng, cô đơn của “lòng quê”.

– Phong cách thơ Huy Cận có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa những yếu tố cổ điển, nhất là cổ điển Đường thi với yếu tố thơ mới. Cụ thể là sự hòa hợp trong “mối sầu vạn kỉ” của Huy Cận cả mối sầu vũ trụ và thế nhân từng chan chứa trong thơ Đường với nỗi cô đơn của “cái tôi” cá thể thơ mới.

– Trong bài “Tràng giang”, Huy Cận đã kín đáo gửi lòng yêu nước vào nỗi buồn và niềm thiết tha trước tạo vật thiên nhiên. Đó là nỗi buồn sầu của một người dân thuộc địa trước giang sơn bị mất chủ quyền (nỗi buồn sông núi) đã hòa lẫn vào nỗi bơ vơ trước tạo vật vô biên, hoang vắng. Tác giả sống trên quê hương mà luôn thấy thiếu quê hương, luôn thấy bơ vơ ngay trên chính quê hương mình.

– Bài thơ như một chuỗi của sự trống vắng: “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” – một tín hiệu thông thường của sự đoàn tụ con người trong thời điểm hoàng hôn cũng không có. Trong bức tranh này dường như chỉ có sự ngự trị tuyệt đối của một thiên nhiên sơ cổ, lặng lẽ.

  • Kết bài:

Bài thơ mở ra bằng tiếng sóng trên sông nước, kết thúc bằng tiếng sóng trong tâm hồn con người. Cảnh vật vẫn đìu hiu và quạnh vắng. Con người bởi thế mà trở trăn với bao nỗi niềm. Đây là nét tâm trạng chừng của nhiều nhà Thơ mới lúc bấy giờ, một nỗi đau xót trước cảnh mất nước và lòng yêu nước, yêu quê hương vô bờ bến.

Phân tích bài thơ Tràng giang của Huy Cận

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang