dan-bai-phan-tich-bai-tho-voi-vang-cua-nha-tho-xuan-dieu

Dàn bài phân tích bài thơ “Vội vàng” của nhà thơ Xuân Diệu.

Dàn bài phân tích bài thơ “Vội vàng” của nhà thơ Xuân Diệu.

  • Mở bài:

Xuân Diệu (1916- 1985) là nhà thơ, nghệ sĩ lớn, nhà văn hóa lớn có sức sáng tạo mãnh liệt, bền bỉ và có sự nghiệp văn học phong phú. Cả cuộc đời ông gắn bó với nền văn học dân tộc. Với những sáng tạo xuất sắc, ông được xem là nhà thơ “mới nhất trong các nhà thơ mới” (Hoài Thanh), nhà thơ của mùa xuân, tình yêu và tuổi trẻ.

“Vội vàng” là một trong những tác phẩm tiêu biếu nhất của phong cách thơ Xuân Diệu. Bài thơ miêu tả bức tranh thiên nhiên mùa xuân. Qua đó, thể hiện “cái tôi” của lòng yêu đời yêu cuộc sống đến cuồng nhiệt của tác giả.

  • Thân bài:

1. Niềm yêu say đắm của thi nhân với cuộc sống tươi đẹp nơi trần thế.

“Tôi muốn tắt nắng đi,
Cho màu đừng nhạt mất;
(…)
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa;
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”. 

a. Ước muốn thiết tha của niềm yêu (4 câu thơ đầu):

“Tôi muốn tắt nắng đi,
Cho màu đừng nhạt mất;
Tôi muốn buộc gió lại,
Cho hương đừng bay đi”.

– Nhân vật trữ tình bộc lộ ước muốn táo bạo “tắt nắng”, “buộc gió” và mục đích kì lạ: giữ lại màu cho nắng, hương cho hoa.

“Tôi muốn”: Hành động mạnh mẽ, kì lạ đến ngông cuồng, muốn đoạt quyền tạo hóa, cưỡng lại quy luật tự nhiên, những vận động của đất trời.

– Câu thơ 5 chữ ngắn gọn nhưng giàu giá trị nghệ thuật: điệp từ “tôi muốn” kết hợp với cặp động từ “tắt” nắng “buộc” gió, cách ngắt nhịp 2/3 chắc nịch, qua ý thơ, ta cảm nhận được tình yêu đời tha thiết, một “cái tôi” cá nhân đầy khao khát, đồng thời cũng là tuyên ngôn hành động với thời gian.

b. Bức tranh cuộc sống tuyệt đẹp nơi trần thế.

– Cảnh được nhìn qua lăng kính của tình yêu mê đắm với cuộc sống nên rất sống động và gợi tình:

+ “Ong bướm” đang độ tuần tháng mật, tràn trào nhựa sống.

+ “Hoa của đồng nội xanh rì” – tính từ “xanh rì”: màu xanh mênh mông tràn đầy sức sống của cánh đồng hoa bất tận. Mặt đất trải đầy mùa xanh tươi gọi mời.

+ “Lá của cành tơ phơ phất”: gợi hình ảnh cành lá nõn nà, non tơ, mềm mại đua đưa trong gió.

+ “Khúc tình si”: Khúc nhạc say lòng của yến anh.

+ “Ánh sáng chớp hàng mi”: hình ảnh của bình minh, của ánh dương nhưng ánh sáng không phải tỏa ra từ mặt trời mà được tỏa ra sau cái chớp mắt của hàng mi thiếu nữ.

→ Cách lựa chọn hình ảnh tinh tế đã tạo nên một bức tranh thiên nhiên mùa xuân mà vạn vật đều căng đầy sức sống, giao hòa sung sướng. Cảnh vật quen thuộc của cuộc sống, nhưng qua con mắt yêu đời của nhà thơ đã biến thành chốn thiên đường trên mặt đất.

– Điệp từ “này đây” kết hợp với biện pháp liệt kê và biệt tài cảm nhận thiên nhiên bằng nhiều giác quan, tác giả đã dùng thơ vẽ lên một bức tranh mùa xuân đẹp, giàu hình ảnh, màu sắc, âm thanh. Ta cảm nhận được một tình yêu rạo rực, đắm say với cuộc đời.

“Thần Vui”: hình ảnh của cuộc sông tươi đẹp, nỗi bồn chồn của niềm yêu say đắm trong lòng nhà thơ

“Tháng giêng ngon như cặp môi gần”: cách so sánh táo bạo. Nhà thơ phát hiện ra vẻ đẹp kì diệu của thiên nhiên và thổi vào đó 1 tình yêu rạo rực, đắm say ngây ngất.

– Sự phong phú bất tận của thiên nhiên, đã bày ra một khu địa đàng ngay giữa trần gian – “một thiên đàng trần thế”.

→ Tác giả muốn ngự trị thiên nhiên, muốn tước đoạt quyền của tạo hóa để thiên nhiên và thời gian không thay đổi. Niềm say mê, yêu thiên nhiên tha thiết của tác giả. Bức tranh thiên nhiên được hiện lên rất hữu tình, xinh đẹp và có đôi lứa.

2. Nỗi băn khoăn về sự ngắn ngủi của kiếp người.

“Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,
(…)
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?
Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…” 

– Tâm trạng đầy mâu thuẫn nhưng thống nhất: “Sung sướng” nhưng rất “vội vàng”: Muốn sống gấp, sống nhanh, sống vội tranh thủ thời gian.

– Xuân Diệu lại cho rằng:

“Xuân đương tới – đương qua
Xuân còn non – sẽ già”.

→ Thời gian như một dòng chảy, thời gian trôi đi tuổi trẻ cũng sẽ mất. Thời gian tuyến tính → Xuân Diệu thể hiện cái nhìn biện chứng về vũ trụ, thời gian.

– Cái nhìn động:

+ Xuân Diệu cảm nhận sự mất mát ngay chính sinh mệnh mình.

“Xuân hết nghĩa là tôi cũng mất
… tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại”

– Mùa xuân, tuổi trẻ không tồn tại mãi, nó ngắn ngủi vô cùng, tuổi trẻ đẹp nhất của đời mỗi người. Xuân Diệu lấy tuổi trẻ làm thước đo thời gian. Thời gian mất nghĩa là tuổi trẻ cũng mất → Cảm nhận sâu sắc, thấm thía về sự troi chảy của thời gian và hữu hạn của tuổi trẻ.

+ Hai sự vật: “Cơn gió xinh … phải bay đi; Chim rộn ràng … reo thi” chỉ tàn phai, héo úa, chia phôi, tiễn biệt.

“Mau đi thôi”: Lời thúc giục gấp gáp, vội vàng, cuống quýt, hưởng thụ. Quan niệm mới, tích cực thấm đượm tinh thần nhân văn.

→ Sự trân trọng và ý thức về giá trị của sự sống, cuộc sống, biết quí đời mình (đây cũng là cơ sở sâu xa của thái độ sống vội vàng). Nhà thơ cảm nhận được thời gian trôi mau. Nhịp thơ của tác giả cũng hối hả, những câu thơ đầy mỹ miều về thiên nhiên. Xuân Diệu cảm nhận thiên nhiên một cách mất mát, lưu luyến tuổi trẻ, niềm say mê thiên nhiên đẹp đẽ.

3. Lời giục giã cuống quýt vội vàng để tận hưởng tuổi xuân của mình:

“Mau đi thôi! mùa chưa ngả chiều hôm,
Ta muốn ôm
(…)
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
– Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi! “

– Không thể “buộc gió”, không thể “tắt nắng”, cũng không cầm giữ được thời gian nên với nhà thơ, chỉ có cách duy nhất là chạy đua với thời gian: “Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm”. Sự bừng tỉnh đó báo hiệu cho sự khởi phát của một cao trào cảm xúc của đoạn thơ, nhịp thơ dồn đẩy biến hóa linh hoạt.

– Sự chuyển đổi cách xưng hô từ “tôi muốn” sang “ta muốn”, dường như tác giả muốn thoát khỏi cái tôi cá nhân chật chội để hướng tới cái ta rộng lớn. Điệp từ “ta muốn” kết hợp với động từ tăng tiến “ôm”, “riết”, “say”, “thâu”, “cắn” đã diễn tả cường độ nhanh và mạnh nồng độ cao của sự đam mê, tình cảm cuồng nhiệt của một trái tim yêu cuộc sống.

– Thi nhân muốn chiếm lĩnh tất cả vẻ đẹp của “sự sống bắt đầu mơn mởn”, “mây đưa và gió lượn”, “cánh bướm với tình yêu”, “cái hôn nhiều” “non nước và cây và cỏ rạng” để đạt được mục đích: “Cho chếch choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng / Cho no nê thanh sắc của thời tươi.”

– Phép điệp cấu trúc “Ta muốn ôm…” tạo âm hưởng dồn dập, đan cài. Các hình ảnh trở thành con sóng trong lòng tác giả. Khát vọng tận hưởng và tận hiến cho cuộc sống đây là quan niệm sống rất nhân văn và tích cực.

→ Giục giã thời gian để tận hưởng cuộc sống. Mãnh liệt khát vọng yêu thương. Tác giả cảm nhận thiên nhiên bằng tất cả các giác quan của mình. Đó là quan niệm sống rất người, mang ý nghĩa tích cực và có giá trị nhân văn sâu sắc.

4. Đặc sắc nghệ thuật.

– Bài thơ là sự kết hợp hài hòa giữa mạch cảm xúc và mạch triết luận với những sáng tạo độc đáo về hình ảnh và ngôn từ, giọng điệu sôi nổi, đắm say.

– Hình ảnh tươi mới, đầy sức sống như sự sống mơn mởn; mây đưa và gió lượn; cánh bướm với tình yêu, cái hôn nhiều; non, nước, cỏ cây; mùi thơm, ánh sáng, hương sắc: xuân nồng.

– Ngôn từ với những động từ mạnh và tăng tiến như ôm, riết, say, thâu, chếnh choáng, đã đầy, no nê, cắn.

– Nhịp điệu dồn dập, hối hả, sôi nổi và cuồng nhiệt được tạo nên bởi những câu thơ dài ngắn xen kẽ.

  • Kết bài: 

Bài thơ Vội vàng thể hiện niềm say mê, yêu thương cái đẹp của tác giả, đồng thời thể hiện sự hi vọng niềm tin yêu vào cuộc sống hiện tại. Sống vội vàng không có nghĩa là sống gấp, ích kỉ trong hưởng thụ. Vội vàng thể hiện một tâm hồn yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt. Biết quý trọng thời gian, biết quý trọng tuổi trẻ, biết sống cũng là để yêu; tình yêu lứa đôi, tình yêu tạo vật. Bài thơ Vội vàng cho thấy một cảm quan nghệ thuật rất đẹp, rất nhân văn, một giọng thơ sôi nổi, dâng trào và lôi cuốn, hấp dẫn thông qua cách dùng từ rất bạo, cách cấu trúc câu thơ, đoạn thơ rất tài hoa.


Tham khảo:

Phân tích bài thơ “Vội vàng” của nhà thơ Xuân Diệu.

  • Mở bài:

Xuân Diệu không phải là nhà thơ tiên phong trong phong Trào thơ mới nhưng ông là nhà thơ mới nhất trong các nhà Thơ mới. Với giọng thơ sôi nổi, đắm say, ông đã đem đến cho nền thơ ca đương thời một sức sống mới, một nguồn cảm xúc mới, thể hiện một quan niệm sống mpowis mẻ, cuồng nhiệt, cùng những cách tân nghệ thuật đầy sáng tạo. Bài thơ “Vội vàng” là thi phẩm thể hiện rõ nhất phong cách thơ ấy.

  • Mở bài:

1. Tình yêu cuộc sống tha thiết đắm say của nhà thơ Xuân Diệu (13 câu thơ đầu).

a. Khát vọng đoạt quyền tạo hóa (4 câu đầu).

“Tôi muốn tắt nắng đi,
Cho màu đừng nhạt mất;
Tôi muốn buộc gió lại,
Cho hương đừng bay đi.”

– Điệp cấu trúc: “Tôi muốn …cho” nhấn mạnh khao khát cháy bỏng.

+ “Tắt nắng”: để giữ màu cho cuộc sống, để gam màu cuộc sống không phai nhạt đi. “Buộc gió”: giữ hương cho đời, để hương thơm cuộc đời không bay mất.

Khao khát lưu giữ mãi vẻ đẹp cuộc sống như hiện tại, hoàn hảo, chắn đứng bước đi của thời gian để giữ lại khoảnh khắc như hiện tại. Thể hiện tình yêu cuộc sống tha thiết đắm say cuộc sống.

– Điệp từ “đừng”: lời cầu xin khẩn thiế, cầu xin tạo hóa dừng đi bản năng vô biên để cuộc sống nó luôn như vậy. Xuân Diệu giống như vị chỉ huy và cũng giống như một đứa trẻ.

b. Vẻ đẹp thiên nhiên của mùa xuân trần thế (9 câu thơ tiếp theo).

“Của ong bướm này đây tuần tháng mật,
Này đây hoa của đồng nội xanh rì,
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si,
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi.
Mỗi sáng sớm thần Vui hằng gõ cửa;
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa;
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.”

– Vẻ đẹp thiên nhiên của mùa xuân trần thế.

+ Cách điệp cấu trúc  “Của … này đây”, đảo vị trí: “Này đây của….” cùng hép liệt kê: Tác giả phơi bày ra những vẻ đẹp không tả xiết ở cõi trần gian, vẻ đẹp gần gũi, với tay ra có thể ôm trọn nó vào lòng mình hưởng thụ.

+ Nhà thơ căng mở các giác quan để quan sát vẻ đẹp trần thế liên hệ: “ Sống toàn tâm, toàn trí, sống toàn hồn/ Sống toàn thân và thức nhọn giác quan.”) vẻ đẹp toàn vẹn cả hương vị lẫn thanh sắc của cuộc đời.

+ Hình ảnh thơ mơ mởn, tràn trề sức sống: Vị ngọt của ong bướm tuần trăng mật; Có hương thơm màu sắc của vườn hoa đồng nội; Dáng hình uyển chuyển của lá trên cành cây; Âm thanh tình tứ của khúc tình xi; Ánh sáng của bình minh xuân – chớp hàng mi.

– Bữa tiệc thịnh soạn gõ cửa mang niềm vui đến mọi người, dâng tặng cho từng nhà

Quan điểm mới mẻ của Xuân Diệu, cuộc sống xung quanh đẹp lắm, Xuân Diệu không cần đi tìm vẻ đẹp ở đâu xa chỉ cần quan sát ở xung quanh mình.

– So sánh với các nhà thơ Phật giáo: “Cuộc đời của mỗi người sinh lão bệnh tử là điều không tránh khỏi” dẫn dắt ta đi tìm cuộc sống cực lạc ảnh hưởng đến những nhà thơ kính đời ở ẩn.

– Nếu Chế Lan Viên: “Tôi có chờ đâu, có đợi đâu” tìm nơi khác đáng sống hơn, chối bờ thực tại “Đêm thu buồn quá chị Hằng ơi” thì Xuân Diệu say mê với vẻ đẹp cuộc sống. Xuân Diệu không quay lưng với cuộc đời, cuộc đời hiện tại là cuộc đời đáng sống nhất. Đây là quan điểm rất mới mẻ, tiến bộ.

c. Vẻ đẹp thiên nhiên của mùa xuân tình yêu.

– Khu vườn mùa xuân đã biến thành khu vườn tình yêu, hạnh phúc.

+ Ong bướm vạn vật gắn kết trong tuần trăng mật yêu đương hạnh phúc.

+ Hoa trong đồng nội được khoe sắc khoe hương trên nền xanh rì.

+ Lá của cành tơ phơ phất uyển chuyển, mềm mại.

+ Yến anh này đây khúc tình si.

+ Xuất hiện gương mặt của người đẹp.

→ Thi nhân đã biến thành người tình nhân say đắm khu vườn tình yêu hạnh phúc.

– Xuân Diệu khái quát lại “Tháng giêng ngon như cặp môi”:

+ “Tháng giêng” là tháng đầu của mùa xuân, mùa xuân ở trong trạng thái căng tràn sức sống.

+ So sánh khập khiễng xa lạ, quan hệ từ ngang bằng “như” ( phép tương giáo – cảm quan tương ứng).

+ “Cặp môi hồng” là trạng thái căng mộng của tuổi trẻ. Cách so sánh hợp lí và gợi cảm.

+ “Ngon” là biện pháp chuyển đổi cảm giác à thiên nhiên là khái niệm vô hình trừu tượng bỗng trở nên hữu hình, cụ thể (vị giác) à cảm nhận vẻ đẹp của mùa xuân, hưởng thụ một cách rõ nét, trọn vẹn hơn.

+ Quan điểm thẩm mỹ mới mẻ tiến bộ, quan điểm thiên nhiên là chuẩn điểm của cái đẹp >< con người là chuẩn điểm của cái đẹp

– So với nền văn học thơ ca trước đây, thiên nhiên là chuẩn điểm của cái đẹp, làm nổi bật con người “ Vân xem trang trọng khác vời, mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười” thì trong thơ của Xuân Diệu con người là chuẩn điểm của cái đẹp, nổi bật vẻ đẹp của thiên nhiên, thiên nhiên đẹp như cặp môi gần “Lá liễu dài như một nét mi” là vẻ đẹp riêng lạ, đẹp, trọn trọn vẹn.

– Nếu như nhà thơ Huy Cận được xem là cặp bài trùng với Xuân Diệu, ông ám ảnh bước đi của không gian thì Xuân Diệu ám ảnh bước đi của thời gian, thời gian chảy trôi sẽ không cảm nhận được vẻ đẹp cuộc sống (Liên hệ: “Cái bay không động cái trôi/ Từ tôi phút trước sang tôi phút này”). Mong muốn sống từng giây, từng phút của cuộc sống.

– Cảm xúc suy tư của Xuân Diệu.

+ Dấu chấm giữa dòng thơ à đã ngắt đôi câu thơ, diễn tả hai cảm xúc của Xuân Diệu.

+ Sung sướng khi đang tận hưởng vẻ đẹp của cuộc sống.

+ Vội vàng là nhận thức sự chảy trôi của mùa xuân, tiếc nuối tuổi thanh Xuân. Đây bản lề khép mở. Dấu hai chấm thể hiện sự tiếc nuối mùa xuân ngay khi ở tháng giêng, căng mở giác quan để cảm nhận mùa xuân, thời gian không phải là tuần hoàn. Mùa xuân là ẩn dụ cho tuổi trẻ của con người àmùa xuân của con người trở nên hữu hạn, tuổi trẻ không thể quay trở lại, sống lại lần nữa.

2. Quan điểm mới mẻ về thời gian (17 câu thơ tiếp theo).

– Nhìn thời gian tuần hoàn, tâm thế ung dung. Tuần hoàn cảm xúc, thời gian tuyến tính, tâm thế không vội vàng.

“Xuân khứ bách khoa lạc,
Xuân đáo bách khoa lai”

Thỏa mãn nhận thức với trí thức đương thời, quan điểm thời gian tuyến tính “Không ai tắm hai lần trên một dòng sông, không ai sống hai lần trong một kỉ niệm”.

  • Hai câu đầu:

“Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già”.

– Nhịp ngắt 3/2/3: thể hiện bước đi của thời gian.

– Điệp cấu trúc: “ Xuân … nghĩa là” ( kiểu câu định nghĩa): nhấn mạnh quy luật bước đi tuyến tính của thời

– Cặp từ đối lập: “Đương tới” >< “đương qua”; “Còn non” >< “sẽ già”: Sự vận hành của thời gian trôi qua lạnh lùng vô thủy vô trung, diễn tả dòng thời gian tuyến tính.

Liên hệ:

“Tình yêu đến tình yêu đi,
Ai biết trong gặp gỡ đã có mầm li biệt”.

ám ảnh thời gian trôi qua.

  • 7 câu thơ tiếp:

“Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất;
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật.
Không cho dài thời trẻ của nhân gian,
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại!
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời”.

– Kiểu câu định nghĩa “nghĩa là” nhấn mạnh quy luật, dòng thời gian tác động tiêu cực đến đời người.

+ “Xuân hết” – “tôi mất”: mất đi phần đời của mình, cuộc đời của mình.

+ Dựng lên cặp đối lập: “Lượng trời chật” >< “lòng rộng”; “Xuân tuần hoàn” >< “tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại”; “Còn trời đất” >< “chẳng còn tôi mãi”;

→Trời đất thì cô hạn nhưng cuộc đời thì hữu hạn. Trời đất hẹp hòi không muốn dành tặng thế nên con người càng đau đớn, càng khao khát trường sinh bất tử.

– Diễn tả sự hữu hạn của đời người trong sự vô hạn của trời đất, diễn tả quy luật:

+ Lượng trời rất chật.

+ Lấy đi tuổi trẻ, tuổi xuân của mọi người (tuổi trẻ chẳng hai lần).

+ Lấy đi cả cuộc đời của mỗi người.

→ Thời gian tác động tiêu cực đến cuộc sống mỗi người. Điều đó khiến nhà thơ bâng khuâng, tiếc nuối cuộc đời đẹp qua không thể sống hết để tận hưởng, tình yêu đời, lòng ham sống đến cuồng nhiệt đắm say.

  • 8 câu thơ cuối:

“Mùi tháng năm đều rớm vị chi phôi,
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt…
Con gió xinh thì thào trong lá biếc,
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?
Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…
Mau đi thôi! mùa chưa ngả chiều hôm,”.

– Tác giả dùng biện pháp chuyển đổi cảm giác:

+ Tháng năm có mùi vị, cảm nhận bằng giác quan khứu giác, vị giác, có hình ảnh, cảm nhận bằng giác quan thị giác. Tác giả hữu hình hóa, khái niệm tháng năm vô hình trừu tượng trở thành hữu hình, có mùi vị đau xót của chia ly, hình dáng vết thương tâm hồn rớm máu à lạnh lùng phôi pha nhiều thứ.

+ Lí do: “Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt”: cảm nhận bằng giác quan thính giác.

+ Nhà tho nhận ra sự bào mòn của thời gian: Con gió xinh thì thào … phải bay đi?; Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,…”

– Cảm xúc: nhà thơ tự nuối tiếc phần đời trôi qua, sự hưởng thụ à nền tảng cho sự khao khát cháy bỏng.

3.  Giải pháp tận hưởng vẻ đẹp của cuộc đời (đoạn thơ cuối).

“Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,

Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều;
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chuếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
– Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”.

– Cuộc sống càng vận động hối hả thì nhà thơ càng đau đớn, tuổi trẻ phai đi không trở lại, Xuân Diệu đi tìm giải pháp để ngăn lại dòng chảy lạnh lùng thời gian để giữ hương, sắc cho cuộc đời. Nhà thơ khao khát cháy bỏng, cuồng nhiệt, giọng thơ dồn dập, náo nức, mê say.

– Thay đổi đại từ xưng hô: “Tôi” → “Ta”: không còn là mong muốn hưởng thụ ích kỷ mà mong muốn hòa vào cái ta dâng những gì đẹp nhất cho cuộc đời, hoà hợp với mong muốn của cộng đồng, mong muốn khả

– Sử dụng động từ mạnh à cấp độ tăng tiến dần “Ôm”, “riết”, “say”, “thâu”, “cắn”: Diễn tả Khao khát hưởng thụ tận hưởng bằng tất cả các giác quan, tăng cường sự sống để hưởng thụ vẻ đẹp của cuộc đời, cụ thể hóa giải pháp tích cực, căng mở giác quan để chiến thắng bước đi của thời gian ( liên hệ: “ Sống toàn tâm, toàn trí, sống toàn hồn/ Sống toàn thân và thức nhọn giác quan.” ) à căng mở giác quan.

– Bổ ngữ sau động từ: Ôm cả sự sống mới; Riết mây đưa; Say cánh bướm; Thâu trọng một cái hôn nhiều; Non nuớc, cây, cỏ làng; Thanh sắc của thời tươi; Xuân hồng.

Bày ra bàn tiệc của cuộc đời.

– Liên từ và lặp từ “và”, “cho”: nhấn mạnh vẻ đẹp cuộc đời nhiều vô cùng, không kể hết, đầy ăm ắp mở ra để mời mọc.

– Tính từ “chếnh choáng”, “no nê”, “đã đầy”: từ láy diễn tả sự thỏa mãn tột cùng.

– Khép lại bằng mong muốn: mời gọi “Hỡi xuân Hồng” với cảm xúc cao trào. Mùa xuân đã trở thành nhân vật, con người à trở nên hữu hình, có màu sắc, thân thiết.

– Bút pháp chuyển đổi cảm xúc: Xuân → Xuân hồng → Khao khát muốn cắn, hưởng thụ một cách trọn vẹn nhất.

  • Kết bài:

Với thể thơ tự do, trùng điệp, hình ảnh sáng tạo, ngôn từ mới mẻ, cách trộn hoà cảm xúc nồng nàn với triết luận sâu sắc, bài thơ “Vội vàng” thể hiện quan điểm mới mẻ về thời gian, tuổi trẻ, hạnh phúc: Thời gian một đi không trở lại, tuổi trẻ là phần đẹp đẽ quý giá nhất của cuộc đời vì vậy mỗi chúng ta phải sống vội vàng từng giây từng phút, vội vàng đó là tâm thế sống, giải pháp sống trong thời gian tuyến tính, tận hiến, tận hưởng cuộc đời


* Tham khảo:

Phân tích bài thơ “Vội vàng” của nhà thơ Xuân Diệu.

  • Mở bài:

Xuân Diệu là một trong những gương mặt tieu bieur nhất của Phong trào Thơ mới và nền văn học Việt Nam thế kỷ XX. Có thể nói trong hàng trăm bài thơ nổi tiếng của Xuân Diệu, hiếm có bài nào đạt đến độ hoàn hảo như bài “Vội vàng”. Tác phẩm thu hút độc giả nhiều thế hệ không chỉ ở nội dung độc đáo mà còn ở hình thức nghệ thuật điêu luyện.

  • Thân bài:

Bài thơ “Vội vàng” được mở đầu bằng bốn dòng thơ ngũ ngôn ngắn gọn, mạnh mẽ như lời tuyên bố về khát vọng của mình:

“Tôi muốn tắt nắng đi,
Cho màu đừng nhạt mất.
Tôi muốn buộc gió lại,
Cho hương đừng bay đi”.

Tắt nắng, buộc gió là những điều con người không thể làm được, đó là những khát khao phi lí. Nhưng cái phi lí ấy lại có lí với trái tim của nhà thơ, bởi đó là trái tim đầy khao khát mãnh liệt, muốn sống đến trọn vẹn chữ “sống”, muốn giữ mãi cho mình những hương, những sắc của của cuộc đời. Mà cuộc đời trong cảm nhận của nhà thơ lại đẹp đẽ biết chừng nào, quý giá biết bao nhiêu. Nhà thơ thấy rằng trong cuộc sống, mọi thứ đều kì diệu, mỗi sự vật dù nhỏ bé đến đâu cũng đều dâng hiến cho đời những vẻ đẹp tinh tuý nhất của mình:

“Của ong bướm này đây tuần tháng mật,
Này đây hoa của đồng nội xanh rì,
Này đây lá của cành tơ phơ phất,
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi”.

Bướm ong thì có tuần tháng mật đầy ngọt ngào, cuốn hút, đồng nội thì có vẻ đẹp của màu xanh mơn mởn và muôn hoa rực rỡ, cành tơ non thì có muôn lá rung rinh, ánh sáng bình minh như cái chớp mi của người đẹp…Những câu thơ có nhịp điệu thật nhanh, thật gấp gáp, sử dụng phép liệt kê, điệp ngữ, rất nhiều tính từ, cách liên tưởng táo bạo, đa tình. Cuộc sống trần gian hiện lên qua đó thật sống động, tươi tốt, đáng yêu, đáng sống, tràn ngập âm thanh, màu sắc tươi sáng, khai mở ra một thiên dường tồn tại chính trên cõi trần này.

Với Xuân Diệu, cuộc đời lúc nào cũng tràn ngập niềm vui, mỗi ngày mới đến là niềm vui cũng gõ cửa ùa vào theo: “Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa”. Niềm vui như một vị thần độ lượng, ban phát hạnh phúc cho từng người. Phải nói rằng trong thơ Việt Nam, chưa ai có cách cảm nhận cuộc sống, mùa xuân như cách cảm nhận của Xuân Diệu:

“Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần”.

Xuân Diệu chẳng lấy thiên nhiên làm chuẩn mực của cái đẹp khi so sánh với con người như thơ cổ mà lại lấy con người làm chuẩn mực để so sánh với vẻ đẹp của thiên nhiên. Nếu Nguyễn Du so vẻ đẹp của Thuý Vân-Thuý Kiều “Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da” thì Xuân Diệu lại liên tưởng “Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần”. Một cách so sánh rất riêng, rất táo bào, đầy tình yêu đời nồng nhiệt rất Xuân Diệu. Ông thấy mùa xuân với bao vẻ đẹp sinh động của nó giống như cặp môi đỏ mọng của thiếu nữ đang kề gần. Cách so sánh này chứa đựng bao rung động tận đáy lòng, vừa có sự khao khát, thèm muốn, háo hức rất thiêng liêng mà cũng rất trần tục. Nhà thơ yêu cuộc sống đến si mê, cháy bỏng!

Có một cuộc sống đẹp như thế để sống, có bao hương sắc tuyệt diệu như thế để tận hưởng, con người ta sẽ sung sướng biết bao. Nhưng, tựa như một cung nhạc đang vút cao, đến đây bỗng chùng xuống:

“Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa”.

Câu thơ bị ngắt làm hai, niềm vui sướng không được trọn vẹn. Bởi Xuân Diệu nhận ra rằng điều sung sướng ấy ngắn ngủi biết bao:

“Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già”.

Xưa nay, người ta chỉ tiếc những kỉ niệm khi nó đã trở thành quá khứ, tiếc xuân khi nó đã không còn. Ở đây, Xuân Diệu với sự nhạy cảm lạ lùng của nhà thơ yêu cuộc sống đến đắm say, ông tiếc mùa xuân ngày khi mùa xuân vẫn còn đang phơi phới. Vì nhà thơ biết rằng thời gian sẽ trôi qua nhanh, mà với những gì quý giá, với những vẻ đẹp, thời gian còn tàn nhẫn trôi nhanh hơn gấp bội, nhanh đến khủng khiép, phũ phàng. Cái non trẻ, thắm tươi rồi sẽ chẳng mấy mà già nua, héo úa. Điều ấy lại ảnh hưởng vô cùng to lớn đến Xuân Diệu:

“Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất;
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật.
Không cho dài thời trẻ của nhân gian”

Câu thơ đầy cảm giác buồn bã. Nhà thơ phát hiện ra một điều bi thảm cho mình: mùa xuân trôi qua, tuổi trẻ sẽ trôi qua. Mà khi tuổi trẻ đã trôi qua thì cuộc đời nào còn ý nghĩa gì nữa. Bởi quý giá nhất của cuộc đời, dất trời là mùa xuân, quý giá nhất của con người là tuổi trẻ. Con người khao khát vẻ đẹp tồn tại vĩnh cửu, nhưng cuộc đời lại có những quy luật vô cùng chặt chẽ và nghiệt ngã.

Thời gian thì vô hồi vô hạn, nhưng đời người thì hữu hạn. Con người trong cái hữu hạn ấy trở nên thật nhỏ bé, tội nghiệp và mong manh. Bao người lí luận rằng xuân đi xuân đến, nhưng với Xuân Diệu, ông chẳng thể tự an ủi mình mà trái lại, càng xót xa hơn:

“Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại.
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời”.

Mùa xuân của đất trời đẹp lắm, quý giá lắm, nhưng mùa xuân chỉ quý giá, chỉ đẹp khi con người biết hưởng, được hưởng vẻ đẹp của nó. Khi con người chẳng còn trẻ mà tận hưởng mùa xuân thì xuân cũng mất hết ý nghĩa. Những câu thơ của Xuân Diệu vì thế mà chuyển sang giọng điệu buồn bã:

“Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi,
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt.
Con gió xinh thì thào trong lá biếc,
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi
Chim rộn ràng bỗng dứt tiếng reo thi,
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa”.

Tất cả đều buồn bã, đều mất hết ý vị, chỉ còn “rớm vị chia phôi”, chỉ biết “than thầm tiễn biệt”, chỉ còn “hờn dỗi phải bay đi”, chỉ “sợ độ phai tàn sắp sửa”. Trong thơ Việt Nam, ít ai có giọng thơ nuối tiếc thời gian, thương tiếc cuộc sống thiết tha dường ấy. Cũng vẫn gió lá hoa như đạon đầu nhưng đoạn trên rạo rực náo nức, đoạn này lại buồn thương ngậm ngùi, xót xa biết bao nhiêu. Nhà thơ kêu lên một cách tuyệt vọng:

“Chẳng bao giờ! Ôi chẳng bao giờ nữa!”

Nỗi đau đớn của Xuân Diệu phải sâu sắc lắm, cắt cứa lắm, thấm thía lắm thì mới bộc phát thành tiếng than kêu thống thiết dường ấy. Thời gian cứ mênh mông nhưng mùa xuân và tuổi trẻ của con người cứ ngắn ngủi. Con người chẳng thể làm được gì để biến cái hữu hạn của đời người thành cái vô hạn trường tồn cùng vũ trụ. Chỉ còn mỗi cách, đó là phải hối hả, phải đắm say mãnh liệt hơn, phải vội vàng thâu nhận đến mức độ cao nhất, nhiều nhất những vẻ đẹp nhân gian, những thứ ưuý giá của đời sống, của tuổi trẻ, mùa xuân. Xuân Diệu giục giã:

“Mau đi thôi! mùa chưa ngả chiều hôm,
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều;
Và non nước, và cây, và cỏ rạng”

Những câu thơ mạnh bạo, gấp gáp, giục giã như một dòng suối ào ạt tuôn chảy, tưởng chừng ngôn từ xô đẩy vào nhau, chen lấn nhau để cho kịp mạch cảm xúc đang bừng lên sôi nổi của nhà thơ. Những tiếng “ta muốn” láy đi láy lại mãi như một điệp khúc bất tận để khẳng định niềm khao khát cháy bỏng muốn sống đến tận cùng cảm giác của Xuân Diệu. Một loạt điệp từ được sử dụng theo mức độ tăng dần của khao khát: muốn ôm – muốn riết – muốn say – muốn thâu – muốn cắn thể hiện tam trạng si mê đến cuồng nhiệt. Trong một câu thơ mà có đến ba hư từ “và” chứng tỏ Xuân Diệu nồng nhiệt đến rối rít, cuống quýt, như muốn cùng lúc dang tay ôm hết cả vũ trụ, cả cuộc đời, mùa xuân vào lòng mình. Sống như thế với Xuân Diệu mới thực là sống, mới đi đến tạn cùng của niềm hạnh phúc được sống.

“Cho chuếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi”

Hạnh phúc của sự sống là mùi thơm, ánh sáng, thanh sắc. Tận hưởng cuộc đời chính là có dược cảm nhận về những điều ấy ở độ tràn trề nhất. Xuân Diệu muốn tận hưởng cuộc sống cho đến “no nê”, “chuếnh choáng”, “đã đầy”. Trong niềm cảm hứng ở độ cao nhất, Xuân Diệu nhận ra cuộc đời, mùa xuân như một cái gì quý nhất, trọn vẹn như một trái đời đỏ hồng, chín mọng, thơm ngát, ngọt ngào, để cho nhà thơ tận hưởng trong niềm khao khát cao độ:

“Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi”

Câu thơ là đỉnh cao của những khao khát sống, của tình yêu sống rạo rực trong con tim nồng cháy của Xuân Diệu.

  • Kết bài:

Bài thơ “Vội vàng” thể hiện tam trạng đắm say bồng bột của một tấm lòng ham sống mãnh liệt. Bài thơ còn thể hiện một quan niệm sống sống gấp gáp vội vàng tận hưởng những hạnh phúc trần thế, một quan niệm sống lành mạnh và tích cực so với đương thời. Bài thơ là một sáng tác tiêu biểu cho phong cách thơ trẻ trung tươi mới của “nhà thơ của tình yêu”, bài thơ rất tự do, hình ảnh giàu sức gợi, giàu nhạc điệu và cách liên tưởng rất hiện đại. Tâm trạng yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt trong tác phẩm khẳng định tư tưởng nhân văn và một triết lí nhân sinh mới mẻ của nhà thơ. Cho đến nay, nội dung thúc giục mọi người sống có nghĩa trong cuộc sống thực tại của bài thơ vẫn còn bao ý nghĩa với thế hệ trẻ.

Phân tích bài thơ “VỘI VÀNG” (Xuân Diệu).

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang