doc-hieu-van-ban-ai-da-dat-ten-cho-dong-song-hoang-phu-ngoc-tuong

Đọc hiểu văn bản “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” (Hoàng Phủ Ngọc Tường)

Đọc hiểu văn bản:

Ai đã đặt tên cho dòng sông?
(Hoàng Phủ Ngọc Tường)

I. Tìm hiểu chung.

1. Tác giả: Hoàng Phủ Ngọc Tường.

– Hoàng Phủ Ngọc Tường sinh năm 1937, tại Huế, quê gốc Quảng Trị. Ông là một trí thức yêu nước, có vốn hiểu biết sâu rộng trên nhiều lĩnh vực.

– Hoàng Phủ Ngọc Tường là nhà văn chuyên về thể loại bút kí. Dù đã xuất bản một vài tập thơ nhưng có thể nói toàn bộ tinh hoa và năng lực của nhà văn đều dồn tụ hết cho thể kí. Chẳng phải ngẫu nhiên, Hoàng Phủ Ngọc Tường được đánh giá là “một trong mấy nhà văn viết kí hay nhất của văn học ta hiện nay” (Nguyên Ngọc).

– Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trí thức yêu nước, là nhà văn gắn bó mật thiết với xứ Huế nên tâm hồn, tình cảm thấm đẫm văn hoá của mảnh đất này.

– Phong cách: Nét đặc sắc trong phong cách nghệ thuật của HPNT: có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với duy tả đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức sâu rộng về nhiều lĩnh vực, lối viết hướng nội, xúc tích, mê đắm và tài hoa tạo cho thể loại bút kí một phong cách riêng, đem đến những đóng góp mới cho nền văn xuôi Việt Nam hiện đại.

– Các tác phẩm kí tiêu biểu : Ngôi sao trên đỉnh Phu Văn Lâu (1971), Rất nhiều ánh lửa (1979), Ai đã đặt tên cho dòng sông? (1987), Hoa trái quanh tôi (1995), Ngọn núi ảo ảnh (1999)…

2. Bút kí: “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”

– Hoàn cảnh sáng tác: “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” được rút ra từ tập bút kí cùng tên, xuất bản năm 1984. Tác phẩm được viết tại Huế năm 1981.

– Thể loại: bút kí.

– Nội dung: Vẻ đẹp độc đáo, da dạng của sông Hương và tình yêu, niềm tự hào của tác giả đối với dòng sông quê hương, xứ Huế thân thương và đất nước.

– Bố cục 3 phần:

+ Phần 1: “Từ đầu …..chân núi Kim Phụng”: Cội nguồn của sông Hương

+ Phần 2: “Tiếp theo…quê hương xứ sở”: Sông Hương nhìn trong mối quan hệ với kinh thành Huế

+ Phần 3: Còn lại: Sông Hương trong mối quan hệ với lịch sử dân tộc

– Vị trí văn bản: chỉ là một đoạn trích trong bài bút kí dài về dòng sông Hương thơ mộng của xứ Huế.

II. Đọc hiểu văn bản.

1. Vẻ đẹp sông Hương khi ở thượng nguồn.

“Tựa như một bản trường ca của rừng già”: Khi “rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn”, lúc “mãnh liệt vượt qua ghềnh thác”, khi “”cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực sâu” → những hình ảnh có sức liên tưởng tự do gợi sức sống mãnh liệt, hoang dại.

– Có lúc “dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi của màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng” → gợi sự dịu dàng và say đắm.

“Sông Hương đã sống một nửa cuộc đời của mình như cô gài Di-gan phóng khoáng và man dại” với một “bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng” → nghệ thuật nhân hoá.

“Rừng già đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng”.

⇒ Với những hình ảnh có sức liên tưởng tự do, từ ngữ gợi cảm, bút pháp nhân hoá → Sông Hương vùng thượng lưu toát lên vẻ đẹp của một sức sống mãnh liệt, hoang dại và đầy cá tính.

* Bình luận:

– Ngay từ đầu bài viết người đọc đã cảm nhận được sự cảm nhận tài hoa của ngòi bút Hoàng Phủ Ngọc Tường: liên tưởng kì thú, xác đáng, ngôn từ gợi cảm… tạo sức cuốn hút, hấp dẫn về một con sông mang linh hồn, sự sống. Kết thúc đoạn văn, tác giả giới thiệu trọn vẹn con sông (tâm hồn sâu thẳm của nó) vừa dẫn dắt, gợi mở sang đoạn tiếp theo.

– Sông Hương vùng thượng lưu mang vẻ đẹp của một sức sông mãnh liệt, hoang dại, bí ẩn, sâu thẳm nhưng cùng có lúc dịu dàng, say đắm. Sự mãnh liệt, hoang dại của con sông được thể hiện qua những so sánh: “bản trường ca của rừng già”, những hình ảnh đầy ấn tượng: “rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn”. Sự mãnh liệt thể hiện qua những ghềnh thác, cuộn sóng như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn…  Vẻ dịu dàng, say đắm: sắc màu rực rỡ của “những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”. Dòng sông được nhân hoá của một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại, rừng già đã hun đúc cho “cô gái” một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng.

– Nếu chỉ mải mê nhìn ngắm kinh thành mà không chú ý tìm hiểu sông Hương từ cội nguồn, người ta khó mà hiểu hết cái vẻ đẹp trong phần tâm hồn sâu thẳm của dòng sông mà chính nó đã không muốn bộc lộ. Nhà văn đã thổi vào đó ngọn gió tâm hồn dào dạt nhạy cảm, liên tưởng tự do càng làm cho sông Hương  mạnh mẽ và đắm say hơn ở thượng nguồn.

2. Vẻ đẹp sông Hương khi chảy xuôi về đồng bằng và ngoại vi thành phố.

– Giữa cánh đồng Châu Hoá đầy hoa dại, sông Hương là “cô gái ngủ mơ màng”.

– Ra khỏi vùng núi: thì cũng như nàng tiên được đánh thức, sông Hương bỗng bừng lên sức trẻ và niềm khao khát của tuổi thanh xuân trong sự “chuyển dòng liên tục”, rồi “vòng những khúc quanh đột ngột”, “vẽ một hình cung thật tròn”, “ôm lấy chân đồi Thiên Mụ”. rồi “vượt qua”, “ đi giữa âm vang”, “trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách” → hàng loạt động từ được tác giả sử dụng để diễn tả cái dòng chảy sống động qua những địa danh khác nhau của xứ Huế tạo nên sức hấp dẫn cho người đọc.

– Có lúc: “mềm như tấm lụa” khi qua Vọng Cảnh, Tam Lai, Lựu Bảo”; có khi ánh lên “những phản quang nhiều màu sắc sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”; lúc qua những dãy đồi núi tây nam thành phố và mang “vẻ đẹp trầm mặc”như triết lí, như cổ thi”.

→ Hai bút pháp kể và tả được kết hợp nhuần nhuyễn và tài hoa, kết hợp vốn hiểu biết phong phú về địa lí, tác giả đã làm nổỉ bật vẻ đẹp của sông Hương bởi sự phối cảnh kì thú giữa nó với thiên nhiên xứ Huế phong phú mà hài hoà.

* Bình luận:

– Đoạn văn thể hiện năng lực quan sát tinh thế và sự phong phú về ngôn ngữ hình tượng giúp nhà văn viết được những câu văn đầy màu sắc tạo hình và ấn tượng.

– Khi rời khỏi dại ngàn, chảy về đồng bằng và ngoại vi thành, sông Hương được ví “như người con gái đẹp nằm ngủ mơ màng” được “người tình mong đợi” đến đánh thức. Kiến thức về địa lí đã khiến tác giả miêu tả tỉ mỉ sông Hương với những khúc quanh và những lưu vực của nó.

– Giữa vùng đất bằng, “Sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn”, “Sắc nước trở nên xanh thẳm”, “nó trôi đi giữa hai dải đồi sừng sững như thành quách, dòng sông mềm như tấm lụa, với những chiếc thuyền xuôi ngược chỉ bé bằng con thoi”. Rồi giữa đám quần sơn lô xô ấy là giấc ngủ nghìn thu của vua chúa được phong kín trong lòng những rừng thông u tịch và niềm kiêu hãnh âm u của những lăng tẩm đồ sộ toả lan khắp cả một vùng thượng lưu.

–  Lối hành văn uyển chuyển, ngôn ngữ đa dạng, giàu hình ảnh, những câu văn giàu chất hoạ, giàu cảm xúc và liên tưởng, tác giả đã diễn tả một cách sinh động và hấp dẫn từng bước đi của sông Hương. Dưới ngòi bút tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương như người gái đẹp bừng tỉnh sau một giấc ngủ dài: vóc dáng mới, sức sống mới đầy khát khao và lãng mạn.

– Nhà văn vận dụng kiến thức sâu rộng về văn hoá, văn học, tác giả tạo cho người đọc ấn tượng về vẻ đẹp trầm mặc, như triết lí, như cổ thi gắn với thành quách, lăng tẩm của vua chúa thuở trước. Tất cả hòa quyện tạo mang lại hiệu quả nghệ thuật khi tác giả miêu tả được vẻ đẹp trầm mặc, cổ điển cùng với nét tươi mới, hiện đại của sự vật

– Trước khi trở thành người tình dịu dàng và chung thuỷ của cố đô, sông Hương đã trải qua một hành trình đầy gian truân và nhiều thử thách. Trong cái nhìn tinh tế và lãng mạn của tác giả, toàn bộ thuỷ trình của dòng sông tựa như một cuộc tìm kiếm có ý thức người tình nhân đích thực của người con gái trong một câu chuyện tình yêu nhuốm màu cổ tích.

→ Thủy trình của sông Hương khi bắt đầu về xuôi tựa “một cuộc tìm kiếm có ý thức” người tình nhân đích thực của một người con gái đẹp trong câu chuyện tình yêu lãng mạn nhuốm màu cổ tích, gắn với những thành quách, lăng tẩm của vua chúa thuở trước.

3. Vẻ đẹp sông Hương khi đến với cố đô Huế.

– Sông Hương gặp thành phố như đến với điểm hẹn tình yêu, nó như tìm được chính mình nên vui tươi và đặc biệt chậm rãi, êm dịu, mềm mại như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu. Nó có những đường nét tinh tế: “uốn một cánh cung rất nhẹ sang cồn Hến”.

Sông Hương được cảm nhận bằng con mắt của hội hoạ: “Vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long”. “Kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng tây nam – đông bắc”. “Uốn một cánh cung tất nhẹ sang Cồn Hến” khiến “dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu” .

Sông Hương và những chi lưu của nó tạo nên những đường nét thật tinh tế, làm nên vẻ đẹp cổ kính của cố đô: “Sông Hương nằm ngay giữa lòng thành phố yêu quý của mình”. “Những nhánh sông đạo mang nước sông Hương toả đi khắp phố thị” .

– Vẻ đẹp của sông Hương còn được thể hiện qua cách cảm nhận âm nhạc. “Điệu chảy lặng tờ” của con sông khi ngang qua thành phố đẹp như “điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”.

– So sánh sông Hương: như một cô gái: từng có lúc là cô gái Di-gan phóng khoáng, man dại; có lúc như một cô gái Huế, một thiết nữ tài hoa, dụi dàng, sâu sắc, đa tình khéo trang sức mà không loè loẹt, phô trương; giống như những cô dâu Huế ngày xưa trong sắc áo điều lục.

– Phải rất hiểu sông Hương, tác giả mới cảm nhận thấm thía vẻ đẹp con sông lúc đêm sâu. Đó là lúc mà âm nhạc cổ điển Huế được sinh thành. Khi đó, trong không khí chùng lại của dòng sông nước ấy, sông Hương đã trở thành một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya.

– Sông Hương là người tình dịu dàng và chung thuỷ qua cái nhìn đắm say của một trái tim đa tình: “Rời khỏi kinh thành, sông Hương chếch về hướng chính bắc, ôm lấy đảo Cồn Hến quanh năm mơ màng trong sương khói, đang xa dần thành phố để lưu luyến ra đi………ngoại ô Vĩ Dạ .Và rồi như sực nhớ lại một điều gì chưa kịp nói, nó đột ngột đổi dòng…xưa cổ.Khúc quanh bát ngờ đó tựa như một “nỗi vương vấn” và dường như còn có cả “một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu”.

– Tác giả đã so sánh, liên tưởng: sông Hương giống như nàng Kiều trong đêm tự tình, ở ngã rẽ này, sông Hương đã chí tình trở lại tìm Kim Trọng của nó, để nói một lời thề trước khi về biển cả → lời thề đó vang vọng khắp lưu vực sông Hương thành giọng hò dân gian, ấy là tấm lòng người dân Châu Hoá xưa mãi mãi chung tình với quê hương xứa sở.

* Bình luận:

– Sông Hương khi chảy vào thành phố có nét đẹp riêng. Nếu ở trên, người đọc cảm nhận phần nào vẻ đẹp man dại, dịu dàng, trầm mặc của con sông, thì giờ đây con sông được khám phá, phát hiện ở sắc thái tâm trạng. Sông Hương gặp thành phố như đến với điểm hẹn tình yêu, trở nên vui tươi và đặc biệt chậm rãi, êm dịu, mềm mại.

– Ngòi bút của tác giả đã thực sự thăng hoa khi vẽ nên những hình ảnh đầy ấn tượng, những cảm nhận tinh tế, những liên tưởng, so sánh đẹp đến bất ngờ, lí thú, thể hiện tình yêu say đắm với con sông. Đó là những nét bút thật “dịu dàng, tình tứ, đắm đuối”, “chiếc cầu trắng ở thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như một vầng trăng non”, sông Hương “uốn một cành cũng rất nhẹ sang cồn Hiến”, đường cung ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu, “nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh” làm dòng sông thêm lộng lẫy, con sông ngập ngừng như có “những vấn vương của một nỗi lòng, không nỡ rời xa thành phố…”. Quả đúng như câu thơ của Thu Bồn:

“Con sông dùng dằng, con sông không chảy
Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu”.

– Tác giả dành tình cảm yêu mến đặc biệt cho con sông này, thấu hiểu và cảm nhận được vẻ đẹp của dòng sông. Bằng tài năng của một cây bút giàu trí tuệ, tổng hợp từ một vốn hiểu biết sâu rộng về văn hoá, địa lí và văn chương, cùng một văn phong tao nhã, hướng nội, tinh tế, tài hoa, nhà văn đã bộc lộ được tình yêu say đắm, niềm tự hào tha thiết, sâu lắng của tác giả dành cho dòng sông quê hương, cho xứ Huế thân yêu và cũng là cho đất nước.

4. Vẻ đẹp sông Hương trong lịch sử và thơ ca.

* Sông Hương trong dòng chảy lịch sử của dân tộc:

– Tên của dòng sông Hương được ghi trong “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi mang tên là Linh Giang (dòng sông thiêng)

– Là “dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phái nam của Tổ quốc đại Việt qua những những thế kỉ trung đại”

“Nó vẻ vang soi bóng kinh thành phú xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ” (TK XVIII)

“Nó sống hết lịch sử bi tráng của thé kỉ XIX với màu của những cuộc khởi nghĩa””.

– Nó “Chứng kiến thời đại mới với cách mạng tháng 8 – 1945 và bao chiến công rung chuyển của hai cuộc vệ chiến sau này”.

* Một số liên tưởng độc đáo, sâu sắc:

– “Sông Hương là sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc” → sử thi là chiến công gắn liền với mốc lịch sử đất nước, nó là cái hùng phải gắn với màu đỏ. Ở đây là sử thi viết dưới màu cỏ lá xanh biếc. Phải chăng sử thi mà trữ tình, bản hùng ca mà vẫn dịu dàng tươi mát

– Với sự hiểu biết phong phú về lịch sử, tác giả đã cho thấy Sông Hương mang vẻ đẹp của một bản hùng ca, ghi dấu những thế kỉ vinh quang gắn liền với các sự kịên lịch sử của Huế, của dân tộc

* Sông Hương với cuộc đời và thi ca:

+ Với cuộc đời: Sông Hương là một nhân chứng nhẫn nại và kiên cường qua những thăng trầm của cuộc đời. Tuy nhiên điều làm nên vẻ đẹp giản dị mà khác thường của dòng sông là ở chỗ: “Khi nghe lời gọi, nó biết cách tự hiến mình làm một chiến công, để rồi nó trở vẻ với cuộc sống bình thương, làm một người con gái dụi dàng của đất nước”. Có lẽ chính điều đó đã làm cho sông Hương không bao giờ tự lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ

+ Với thi ca:

“Dòng sống trắng – lá cây xanh” (Chơi Huế – Tản Đà).

“Như kiếm dựng trời xanh” (Trường giang như kiếm lập thanh thiên – Cao Bá Quát).

– Là sức mạnh hối sinh trong tâm hồn thơ Tố Hữu (Trên dòng Hương giang).

+ Sông Hương đã trở thành tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya → gắn sông Hương với âm nhạc cổ điển Huế.

* Bình luận:

– Tác giả đã tô đậm cho con sông Hương ấy bao nét thơ thật dịu dàng, thơ mộng mà hoang dã, đa tình, lịch lãm và cổ kính. Từ góc độ văn hóa truyền thống lịch sử tác giả cũng đã khắc họa sông Hương với nét tính cách đăc biệt qua đó cũng tái hiện lại cho bạn đọc những hình ảnh trong lịch sử và gắn liền với những phẩm chất rất riêng của người Huế. Mà đặc biệt hơn là vẻ đẹp của người con gái Huế luôn nhẹ nhàng, bay bổng mà rất đằm thắm.

– Cách nhìn độc đáo của tác giả: từ góc độ văn hóa truyền thống, giàu chất thơ. Có một dòng thi ca về sông Hương, đó là dòng thơ không lại chính mình.

– Có lẽ, nét đặc sắc làm nên sức hấp dẫn đặc biệt của đoạn văn là  tình yêu say đắm với dòng sông được thể hiện bằng tài năng uyên bác của một cây bút giàu trí tuệ, tổng hợp từ một vốn  hiểu biết sâu rộng về văn hoá, lịch sử địa lí và văn chương, cùng một văn phong tao nhã, hướng nội, tinh tế, tài hoa.

III. Tổng kết:

1. Nội dung:

– Đoạn trích là hình ảnh của dòng sông Hương thơ mộng, trữ tình đầy chất thơ khi ở thượng nguồn đến khi về với thành phố Huế. Vẻ đẹp của sông Hương hiện lên với từng bước đi trong cuộc hành trình trở về với người tình thơ mộng. Và trong mỗi bước đi ấy, sông Hương như trưởng thành, thay đổi, lớn lên để từ một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại trở thành một bà mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở

– Qua đoạn trích, người đọc cũng có thể cảm nhận được tình yêu, niềm tự hào tha thiết, sâu lắng mà Hoàng Phủ Ngọc Tường dành cho dòng sông quê hương, cho xứ Huế thân yêu và cũng là cho đất nước.

2. Nghệ thuật:

– Văn phong tao nhã, hướng nội, tinh tế và tài hoa. Sức liên tưởng kì diệu, sự hiểu biết phong phú về kiến thức địa lý, lịch sử, văn hoá nghệ thuật và những trải nghiệm của bản thân

Ngôn ngữ phong phú, giàu hình ảnh, giàu chất thơ, sử dụng nhiều phép tu tư như: So sánh, nhân hoá, ẩn dụ, …

Có sự kết hợp hài hoà cảm xúc, trí tuệ, chủ quan và khách quan. Chủ quan là sự trải nghiệm của bản thân. Khách quan là đối tượng miêu tả – dòng sông Hương.

– Soi bóng tâm hồn với tình yêu say đắm, lắng sâu niềm tự hào tha thiết đối với quê hương, xứ sở vào đối tượng miêu tả, khiến đối tượng trở nên lung linh, huyền ảo, đa dạng như đời sống, như tâm hồn con người.

3. Ý nghĩa văn bản:

– Thể hiện những phát hiện, khám phá sâu sắc và độc đáo về sông Hương; bộc lộ tình yêu tha thiết, sâu lắng và niềm tự hào lớn lao của nhà văn đối với dòng sông quê hương, với xứ Huế thân thương.

Phân tích bút ký Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường


Tham khảo:

Chất thơ trong “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ Ngọc Tường?

  • Mở bài:

Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trong nhừng nhà văn chuyên về bút kí. Nét đặc sắc trong phong cách nghệ thuật của ông là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa trữ tình và chính luận, sử thi hóa lịch sử và khám phá chiều sâu văn hóa của đối tượng. Chất trữ tình trong bút kí của ông xuyên thấm vào tất cả và thăng hoa thành chất thơ của ngôn ngữ.

  • Thân bài:

1. Chất thơ là gì? Chất thơ trong một tác phẩm văn học được tạo nên từ những yếu tố nào?

– Chất thơ là một phẩm chất tổng hợp được tạo nên từ nhiều yếu tố : Cảm xúc, cái đẹp, trí tưởng tượng và liên tưởng cùng khả năng sử dụng ngôn ngữ, nhặc điệu , giọng điệu của lời văn.Những yếu tố này hoà quyện với nhau, chuyển hoá vào nhau cùng biểu hiện trong từng chi tiết nghệ thuật của tác phẩm.

2. Những biểu hiện về chất thơ trong “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”

Khó có thể tách các yếu tố này khỏi nhau bởi nó hòa quyện với nhau, trong từng hình ảnh, từ ngữ, câu văn, đoạn văn. Hoàng Phủ Ngọc Tường viết “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” bằng tất cả tình yêu say đắm với sông Hương đẹp và dịu dàng, với Huế cổ kính thơ mộng.

Chất thơ được thể hiện trong bài ký chủ yếu ở chất trữ tình của tác phẩm: đó là tình yêu say đắm với sông Hương đẹp dịu dàng, với Huế cổ kính và thơ mộng.

Đoạn mở đầu với những khu vườn cổ, những kí ức về Nguyễn Du đã gợi cảm xúc về một vùng đất có vẻ đẹp sâu lắng (thanh khiết, cổ kính, có tác dụng như một khúc dạo đầu của một bản đàn hay bài ca thơ mộng).

Mỗi đoạn văn là một chắt lọc tinh túy về hành trình, về dáng vẻ, về vẻ đẹp với những từ ngữ gợi cảm, diễn tả tình yêu say đắm của con người với dòng Sông Hương đã sống một nửa cuộc đời của mình như một cô gái Digan khoáng và ma dại”. “Sông Hương khi về đồng bằng đã thay đổi tính cách, sông như đã chế ngự bản năng ở người con gái để mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”.

Với liên tướng kì thú, diễm tình, tác giả ví sông Hương như một ngựời con gái đẹp được người tình mong đợi đến đánh thức. Những câu văn đẹp, đầy màu sắc và ấn tượng. “Sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn”, “Sắc nước trở nên xanh thẳm”, “nó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như những thành quách”. “Dòng sông như tấm lụa, với những chiếc thuyền xuôi ngược nhỏ bé vừa bằng con thoi, những ngọn đồi này tạo nên nhiều mảng phản quang nhiều màu sắc”. “Sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”.

Đến ngoại vi thành Huế, sông Hương lại có vẻ đẹp trầm mặc như những rừng thông u tịch và những lăng tẩm đồ sộ phong kín niềm kiêu hãnh âm u.

Đoạn tả sông Hương chảy vào thành phố, tác giả sáng tạo những hình ảnh đầy ấn tượng: “chiếc cầu tráng in trên nền trời, uốn một cánh cung rất nhẹ”. Tác giả sử dụng rộng rãi đặc sắc những phép tu từ gợi cảm vốn là sở trường của thơ như so sánh kết hợp với nhân hóa, ẩn dụ: “Dòng sông mềm hẳn đi như một tiếng váng không nói ra của tình yêu, khúc quanh trước khi ra biển, như một nỗi vấn vương cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu”. Những chi tiết về phong tục, lễ hội cũng trở thành họa, thành nhạc, thành tình, nghĩa là thành thơ. “Trăm nghìn cánh hoa đang bồng bềnh vào những đêm hội rằm tháng bảy từ điện Hòn Chén trở về bỗng ngập ngừng như muốn đi, muốn ở, chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của một nỗi lòng”.

Thi trung hữu nhạc đó là nhạc của lòng, trong văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng có nhạc, gợi nhớ nhạc “Điệu chảy lặng lờ của nó (sông Hương) ngang qua thành phố. Đúng là điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”. Những câu văn trải dài, uyển chuyển, du dương mà tự nhiên, nhuần nhị như dòng sông, dòng nhạc đẹp, một “Đanuyp xanh” trong văn.

Trí tường tượng thật phong phú trong những liên tương so sánh, những hồi tưởng đầy hình ảnh kì thú “Sông Nê-va với những phiến băng trôi nhanh như những chiếc thuyền của những chú chim hải âu” (Chim hải âu đứng trên băng – NBS).

Vẻ đẹp cùa đoạn văn tăng lên trong từng chi tiết, đến chi tiết cuối thì thăng hoa cao nhất, đẹp nhất. Tác giả lí giải tên dòng sông bằng huyền thoại đầy chất thơ khiến cho dòng sông vốn có cái tên thơ càng thơ hơn: Hương thơm, thơm cùa ngàn hoa, của nước nấu trăm loại hoa đổ xuống, làm thơm cả từng hơi đất.

Bút kí cuốn hút người đọc một phần ở việc, ở trí thức, sự việc lạ, trí thức mới nhưng nếu chỉ có thế, bài bút ki sẽ không hơn một bài báo và nó nhanh qua đi mà không đọng lại trong lòng người. Bút kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường không giống như thế, nó đầy chất liệu quý, thể hiện một vốn sống, vốn văn hóa phong phú, nhất là về Huế. Hơn thế nó còn mãi, ngân mãi vì nó đầy chất thơ. Chất thơ ấy gắn với nhiều yếu tố, bắt đầu từ nhiều nguồn nhưng yếu tố quan trọng nhất, nguồn lớn lao, dào dạt nhất là tình yêu, tình yêu tha thiết với dòng sông, với Huế, với đất nước của tác giả.

Cảm nhận vẻ đẹp dòng sông Hương dưới góc nhìn nghệ thuật trong Ai đã đặt tên cho dòng sông?

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang