Đọc – hiểu văn bản là gì? Các bước đọc – hiểu một văn bản

doc-hieu-van-ban-la-gi-cac-buoc-doc-hieu-mot-van-ban

Đọc – hiểu văn bản là gì? Các bước đọc – hiểu một văn bản

I. Thế nào là đọc hiểu?

1. Đọc là gì?

Đọc là một hoạt động của con người, dùng mắt để nhận biết các kí hiệu và chữ viết, dùng trí óc để tư duy và lưu giữ những nội dung mà mình đã đọc và sử dụng bộ máy phát âm phát ra âm thanh nhằm truyền đạt đến người nghe.

2. Hiểu là gì?

Hiểu là phát hiện và nắm vững mối liên hệ của sự vật, hiện tượng, đối tượng nào đó và ý nghĩa của mối quan hệ đó. Hiểu còn là sự bao quát hết nội dung và có thể vận dụng vào đời sống.

Cụ thể: hiểu là phải trả lời được các câu hỏi: cái gì? Như thế nào? Làm như thế nào?

3. Khái niệm đọc hiểu văn bản

– Là đọc kết hợp với sự hình thành năng lực giải thích, phân tích, khái quát, biện luận đúng sai về logic, tức là kết hợp với năng lực, tư duy và biểu đạt.

Trong các tác phẩm văn chương, chúng ta cần phải hiểu: Nội dung của văn bản. Đánh giá được tư tưởng của tác giả.

Các cấp độ đọc hiểu:

  • Đọc tái hiện
  • Đọc giải thích
  • Đọc sáng tạo
  • Đọc đánh giá
  • Đọc nghiên cứu
  • Đọc suy ngẫm và liên tưởng

II. Khái niệm văn bản văn học,các đặc trưng, con đường tìm nghĩa văn bản văn học.

1. Khái niệm:

Thuật ngữ “văn học” dùng để chỉ các loại văn học nghệ thuật bao gồm thơ ca, tiểu thuyết, tản văn, kịch bản văn học, ký, kịch bản điện ảnh…

Khái niệm 1: văn bản văn học là một tổ chức bằng ngôn từ, xoay quanh một chủ đề nhất định nhằm vào một định hướng giao tiếp nhất định.

2. Đặc trưng của văn bản văn học.

a. Ngôn từ nghệ thuật:

– Thuộc hệ thống tín hiệu thứ hai (để xây dựng hình tượng văn học). Còn hệ thống tín hiệu thứ nhất dùng để giao tiếp, trao đổi tư tưởng, tình cảm giữa người với người.

– Nhà văn sử dụng hệ thống tín hiệu thứ nhất đó để xây dựng hình tượng văn học bằng cách thong qua lăng kính chủ quan của mình, qua vốn sống, vốn hiểu biết của mình để gửi đến người đọc một thong điệp thẩm mỹ nào đó.

b. Hình tượng văn học (đặc trưng cơ bản của văn học).

Hình tượng văn học là phương tiện để bạn đọc giao tiếp với tác phẩm văn học. Thông qua hình tượng văn học mà ta có thể hiểu được thế giới nội tâm, tư tưởng, tình cảm của nhà văn. Nếu không có hình tượng thì không có phương tiện nào để hiểu tác phẩm đó.

Hình tượng văn học được xây dựng bằng ngôn ngữ nghệ thuật, có tính phi vật thể, nó có tính khái quát rất cao và mang tính chất điển hình.

Vậy có những loại hình tượng văn học nào?

Có rất nhiều loại hình tượng văn học: con người, thiên nhiên (rừng xà nu), đồ vật (chiếc lược ngà, ngọn đèn), con vật (con cò, con rùa…)

Như vậy, ngôn từ nghệ thuật dùng để xây dựng hình tượng trong tác phẩm văn học. Hình tượng văn học mang nhiều tầng ý nghĩa khác nhau. Người đọc phải biết gợi ra, khám phá và hiểu các tầng ý nghĩa khác nhau ấy.

Ví dụ:

Em tưởng giếng nước sâu
Em nối sợi gầu dài
Ai ngờ giếng nước cạn
Em tiếc hoài sợi dây.

Cô gái tưởng chàng trai yêu thương mình thật lòng nên đã dành tình yêu chân thành, tha thiết của mình cho anh. Nhưng anh ta chỉ yêu hời hợt, nông cạn, chơi bời nên cô gái tiếc cho tình yêu của mình. Đây là tầng ý nghĩa thứ hai của hình tượng văn học.

3. Con đường tìm nghĩa của văn bản văn học

a. Tìm nghĩa từ phía tác giả

– Để hiểu biết về tác phẩm, phải có hiểu biết tối thiểu về tác giả, hoàn cảnh sống của họ.

Ví dụ:

Hàn Mặc Tử và bài thơ “ Đây thôn Vĩ Dạ”: Bài thơ có xuất xứ từ mối tình đơn phương của Hàn với Hoàng Cúc. (Nhà thơ nhận được tấm bưu ảnh phong cảnh của Hoàng Cúc)

“Gió theo lối gió, mây đường mây”

Một không gian không xác định. Cảnh chia lìa, tình chia lìa, bang khuâng, bất ổn. Đó là tình yêu đơn phương, tuyệt vọng trong cảnh bệnh tật vô phương cứu chữa.

– Tư tưởng, quan niệm sống, quan điểm sáng tác của nhà văn ảnh hưởng trực tiếp đến tác phẩm, bởi tác phẩm là con đẻ của nhà văn.

b. Tìm nghĩa trong bản thân văn bản.

– Văn bản là nơi thể hiện rõ nhất và cụ thể nhất tư tưởng, quan điểm của nhà văn đối với con người và cuộc đời. Nghĩa của văn bản thể hiện thông qua hình tượng nghệ thuật. ý nghĩa chính là tư tưởng chủ đề của tác phẩm

Ví dụ: “Chí Phèo” là tiếng kêu cứu của con người, là tiếng kêu đòi quyền sống lương thiện của con người.

– Hình tượng nghệ thuật có thể là bóng dáng của nhà văn. (“Thời thơ ấu” của Nguyên Hồng), cũng có khi chỉ là nơi tác giả thể hiện quan niệm sáng tác, đối nhân xử thế, quan niệm về cuộc đời…của tác giả.

Ví dụ: “Truyện Kiều”:

+ Bức tranh hiện thực về xã hội phong kiến đương thời

+ Tiếng kêu thương cho số phận người phụ nữ trong xã hội cũ, tài hoa mà bạc mệnh

+ Bài ca ca ngợi lòng yêu tự do, vượt ra ngoài lễ giáo phong kiến

c. Tìm nghĩa từ phía người đọc – Tính đa nghĩa của văn học

– Người đọc là kẻ “đồng sáng tạo với tác giả”.

– Người đọc là người khám phá ra giá trị của tác phẩm, giúp nó sống được với thời gian, bằng liên tưởng, tưởng tượng.

– Càng tìm ra nhiều tầng ý nghĩa khác nhau từ tác phẩm, càng làm cho nó có giá trị.

Ví dụ: “Truyện Kiều”

d. Ngữ cảnh và nghĩa của văn bản.

+ Ngữ cảnh văn hóa (ngữ cảnh hẹp): là hoàn cảnh giao tiếp trong văn bản. Muốn hiểu và suy ra nghĩa của văn bản, cần phải dựa vào hoàn cảnh giao tiếp.

Ví dụ:

Bài ca dao “Hôm qua tát nước đầu đình”

Có thời gian cụ thể: “hôm qua”, địa điểm cụ thể: “đầu đình”, công việc cụ thể: “tát nước” lý do rất hợp lý: “bỏ quên áo”, địa điểm quên áo rất rõ ràng: “trên cành hoa sen”…

+ Ngữ cảnh xã hội, lịch sử (ngữ cảnh rộng): muốn tìm hiểu căn nguyên sâu xa của văn bản, ta phải đặt văn bản vào “thời” của nó.

Ví dụ:

Bài thơ “Bên kia sông Đuống” (Hoàng Cầm)

Trong thời kì kháng chiến chống Pháp, một hôm, Hoàng Cầm (lúc đó đang ở vùng tự do), nghe tin quê hương bị giặc tàn phá, đau xót, căm thù, tác giả đã viết bài thơ này trong vòng 1 đêm và hầu như không phải sửa chữa gì

Ở những góc nhìn khác nhau, với những thái độ, quan niệm khác nhau mà người ta khám phá ra những giá trị khác nhau của tác phẩm và hình tượng văn học.

Như vậy, tác phẩm không chỉ của riêng nhà văn mà còn là những ý nghĩ, hình ảnh hiện lên trong đầu người đọc, người nghe. Cái tác phẩm, cái thế giới trong lòng độc giả ấy vô cùng đa dạng, thậm chí rất khác nhau.

III. Các bước đọc hiểu và quá trình hình thành nghĩa của văn bản

1. Các bước đọc hiểu văn văn bản.

a. Bước 1:

– Đối với văn bản nghệ thuật: chuyển hệ thống tín hiệu văn tự thành thực tại hình tượng.

– Đối với nghị luận: chuyển hệ thống tín hiệu văn tự thành hệ thống quan điểm, tư tưởng.

Ví dụ:

– Hình tượng thiên nhiên: rừng xà nu (trong tác phẩm cùng tên của Nguyễn Trung Thành)

– Hình tượng con người: chị Út Tịch (“Người mẹ cầm súng” – Nguyễn Thi)…

– “Đức tính giản dị của Bác Hồ” (Phạm Văn Đồng): Bác giản dị trong sinh hoạt và lối sống (bữa cơm, ở nhà, làm việc…); Bác giản dị trong công việc, bài nói, bài viết (tự làm mọi việc, gần gũi, chân tình, nói, viết ngắn gọn, giản dị, dễ hiểu, dễ nhớ…). Bác sống hòa mình với cuộc sống chiến đấu gian khổ của quần chúng nhân dân lao đông.

b. Bước 2:

Đọc ra các ý nghĩa sâu sắc mà tác giả gửi gắm trong văn bản. Đọc toàn bộ tác phẩm để hiểu 1 đời văn, 1 nghiệp văn.

Ví dụ: “Tắt đèn” phản ánh hiện thực cuộc sống khổ cực của nhân dân ta đầu thế kỉ XX dưới hai tầng áp bức bóc lột của thực dân, phong kiến. Qua đó, tác giả lên tiếng đòi cuộc sống vật chất tối thiểu cho con người và ca ngợi phẩm chất tốt đẹp của con người, nhất là người phụ nữ.

c. Bước 3: Khám phá ý nghĩa của văn bản trong tương quan với đời sống hiện thực

Ví dụ: những đức tính giản dị của Bác Hồ cho đến nay và mãi mãi mai sau vẫn là tấm gương cho con cháu muôn đời học tập và làm theo.

d. Bước 4: diễn tả chính xác bằng lời sự hiểu biết của mình về nội dung văn bản

e. Bước 5: đánh giá về nội dung và nghệ thuật biểu đạt của văn bản.

Ví dụ: “Tràng Giang” (Huy Cận): nỗi buồn của cả một lớp người trước cảnh nước mất nhà tan, ca ngợi cảnh đẹp mà buồn; bài thơ có vẻ đẹp cổ kính, mang phong vị thơ Đường (lấy ý thơ Thôi Hiệu), kết hợp với các từ láy, những hình ảnh gợi cảm, cấu từ…mang đậm chất dân tộc Việt Nam.

f. Bước 6: chọn lấy ý hay, câu hay để tích lũy vốn văn học, văn hóa cho mình, hoặc dùng làm tư liệu, luận cứ…

2. Quá trình hình thành nghĩa của văn bản

Nội dung của tác phẩm văn học thể hiện qua các lớp ý nghĩa của văn bản. Các yếu tố nội dung như đề tài, chủ đề, tư tưởng, cảm hứng, tính cách, nhân vật, xung đột, ngôn từ…văn học đều là các lớp ý nghĩa do người đọc phát hiện ra. Một số tác phẩm có thể được xác định thành các chủ đề, đề tài khác nhau, tùy thuộc vào người đọc.

Nghĩa của ngôn từ trong văn bản học là ý nghĩa do tác giả biểu hiện trong hình tượng nghệ thuật (ý nghĩa nội chỉ), chứ không phải là ý nghĩa ngoại chỉ.

Ví dụ; “Bánh trôi nước” của Hồ Xuân Hương là do bà sáng tạo ra, chỉ thân phận người phụ nũ trong xã hội cũ, phụ thuộc vào chồng, chứ không phải là cái bánh trôi thông thường; “miếng trầu hôi” Xuân Hương đem mời bạn tình là miếng trầu trong ý niệm của bà, chứ không phải là một miếng trầu cụ thể nào, hay “lá diêu bong” cũng vậy. nhà thơ Hoàng Cầm kể rằng, thời thanh niên, ông có yêu một người con gái nhưng cô gái đó lớn tuổi hơn ông. Cô ấy bảo, nếu ông tìm được lá diêu bong cô ấy sẽ đồng ý lấy ông làm chồng. Hoàng Cầm đã cất công đi tìm loài lá đó nhưng không tìm được, rồi sau đó mới biết loài cây đó không có thật, đó chỉ là lời thách đố của người con gái kia. Mối tình đơn phương, tuyệt vọng ấy là cảm hứng để ông sáng tác bài thơ “lá diêu bông”. Sau này, nhạc sĩ Trần Tiến đã dựa vào ý thơ đó để sáng tác bài hát “Sao em vội lấy chồng”.

Như vây, hình tượng văn học nhiều khi chỉ là cái cớ để tác giả biểu lộ tình cảm của mình. Người đọc phát hiện râ ý nghĩa của nó nhờ ngôn từ nghệ thuật.

IV. Các phương pháp xử lý văn bản, tìm hiểu ý nghĩa sâu và cắt nghĩa văn bản.

Ý nghĩa của văn bản là nội dung tư tưởng và chủ đề của nó trong sự tiếp nhận của người đọc

1. Khám phá nhan đề, đề từ, mở, kết của văn bản.

– Nhan đề thường kết tinh nội dung và tư tưởng của tác phẩm.

Ví dụ: tác phẩm “Chí Phèo”

+ Mở: ta bắt gặp Chí Phèo ngật ngưỡng với chai rượu trong tay, vừa đi, vừa chửi tất cả.

+ Kết: xuất hiện cái lò gạch cũ trống không, xa nhà cửa và vắng người qua lại…

Ý nghĩa của mở và kết của “Chí Phèo”: chừng nào còn tồn tại cái xã hội bất công, vô nhân đạo, chà đạp lên quyền sống của con người, chừng ấy vẫn còn có những nhân vật như Chí Phèo. Tác phẩm tố cáo xã hội một cách sâu sắc.

2. Tìm hiểu từ ngữ, điểm nhìn và cái nhìn chủ thể.

–  Khi tiếp nhận văn bản, nhất thiết phải tìm hiểu các từ ngữ, nhất là những từ “thần”, từ “đắt’.

Ví dụ:   Ghế trên ngồi tót sỗ sàng

Hoặc:  Rẽ song đã thấy Sở Khanh lẻn vào

Có người đã nhận xét rằng, Nguyễn Du thật tài tình. Cụ đã giết Mã Giám Sinh bằng một chữ “tót”, giết Sở Khanh bằng một chữ “lẻn”. chỉ một chữ thôi nhưng đã lột tả được bản chất của hai kẻ buôn nguyệt bán hoa

– Để hiểu sâu sắc văn bản, người đọc cũng phải xác định điểm nhìn, cái nhìn của chủ thể nhà văn, để từ đó hiểu thêm ý tứ của tác giả.

3. Đọc hiểu nghĩa câu văn, đoạn văn trong văn bản.

Khi đọc, cần dừng lại ở những câu thơ hay, những đoạn văn tiêu biểu để suy ngẫm, phân tích, đánh giá chúng. Từ cách hiể nhò đọc kỹ, đọc chậm đó mà ta hiểu được ý tứ của tác giả.

Ví dụ: câu văn “vui như thấy nắng giòn tan sau kỳ mưa dầm” (“Ký Sông Đà” – Nguyễn Tuân) có cụm từ “nắng giòn tan” rất hay và độc đáo, cho ta cảm nhận được một thứ ánh nắng ấm áp, vui tươi mà người ta chờ đợi rất lâu sau kỳ mưa dầm lê thê.

4. Chọn những thông tin quan trọng nhất trong bài văn để suy ngẫm.

Ví dụ:

“Không! Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chụi mất nước, nhất định không chụi làm nô lệ”. Đây là câu then chốt trong “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”, nói lên tinh thần quyết chiến với kẻ thù của Hồ Chủ Tịch và nhân dân ta.

Như vậy, cắt nghĩa là con đường chiếm lĩnh tác phẩm một cách tự giác, làm cho nội dung tác phẩm được cụ thể hóa trong tâm trí người đọc.

5. Nắm bắt các câu then chốt trong bài văn

– Câu chuyển đoạn, chuyển mạch, chuyển ý.

– Câu chủ đề (đầu hoặc cuối đoạn).

– Câu trung tâm và tư tưởng của bài văn

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.