doc-them-thuong-tiec-nha-van-nguyen-hong-sgk-ngu-van-12-tap-1

Đọc thêm: Thương tiếc nhà văn Nguyên Hồng – SGK Ngữ văn 12, tập 1

Đọc thêm: Thương tiếc nhà văn Nguyên Hồng

Văn bản.

Văn Nguyên Hồng bao giờ cũng lấp lánh sự sống. Những dòng chữ đầy chi tiết cứ cựa quậy, phập phồng. Một thứ văn bám riết lấy cuộc đời, quấn quýt lấy con người. Người ta thường nói nhà văn, nhà thơ cần có ba yếu tố chủ quan : tài, trí và tâm. Có cây bút chỉ mạnh về tài, về trí. Đọc Nguyên Hồng, thấy tài và tâm, nhất là tâm, nổi lên hàng đầu. Mà “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”, ở những nhà văn chân chính xưa nay, tâm bao giờ cũng là cái gốc. Tài và trí chỉ là cành, là ngọn. Nguyên Hồng viết văn như là đặt luôn cái “tâm” nóng hổi của mình trên trang sách. Nếu cần nói thật khái quát một cái gì chung nhất cho mọi chủ đề tác phẩm của Nguyên Hồng, thì đó là lòng nhân đạo, một chủ nghĩa nhân đạo bao giờ cũng thống thiết mãnh liệt.

Nguyên Hồng xuất hiện lần đầu trong đời sống văn học vào năm 1936, với truyện ngắn Linh hồn, đăng trên Tiểu thuyết thứ bảy. Truyện kể một người đàn bà nông dân nghèo khổ theo đạo Thiên Chúa bị tù oan khi đang có thai. Chị bị một tên cai tù hãm hiếp cho đến chết. Nguyên Hồng bước vào nghề văn như thế đấy : để nói lên nỗi khổ đau oan ức không cùng của những người dân nghèo thấp cổ bé họng trong xã hội cũ, đặc biệt là người phụ nữ lao động. Từ tác phẩm đầu tay ấy, hình ảnh người đàn bà oan khổ kia cứ theo đuổi, ám ảnh ngòi bút của ông, từ Bỉ vỏ, Những ngày thơ ấu, Quán Nải…, đến bộ tiểu thuyết lớn Cửa biển sau này. Một đất nước như nước ta, chế độ phong kiến kéo dài, tiếp theo là ách thực dân, đế quốc, người phụ nữ vẫn là nạn nhân đau khổ nhất, chịu nhiều tầng áp bức nhất. Thái độ như thế nào đối với người phụ nữ và vấn đề phụ nữ, là thước đo hết sức quan trọng tính nhân dân, tính nhân đạo của các tác phẩm văn học.

Trước Cách mạng tháng Tám, có nhà phê bình nhận xét Nguyên Hồng có cái tật cứ đổ dồn dập lên đầu nhân vật của mình đủ thứ tai hoạ trên đời. Đọc Nguyên Hồng, thấy căng quá, nặng nề quá. Đúng là như thế. Nhưng chủ nghĩa nhân đạo thống thiết của Nguyên Hồng đòi hỏi ông phải viết như vậy. Nếu không thế, nói sao cho hả, cho đã những tình cảm thống thiết của ông đối với thân phận người dân cùng ngày trước ? Và có như thế, ông mới tỏ hết được niềm tin mãnh liệt của mình đối với “thiện căn” bền vững của nhân dân lao động. Từ vực thẳm tối tăm ngày trước, từ đống bùn rác ngập ngụa trong xã hội cũ, những Tám Bính, những mẹ La của tiểu thuyết Nguyên Hồng vẫn giữ chắc bản chất hồn hậu, trong sáng của mình mà vươn lên, như những mầm cây căng nhựa, xuyên thủng lớp lớp bùn đất dày đặc để nhô lên đón lấy ánh sáng mặt trời.

Cuộc đời, khuynh hướng và phong cách viết của Nguyên Hồng khiến người ta dễ nghĩ đến Mác-xim Goóc-ki, tuy biết rằng, hai nhà văn ấy có những chỗ khác nhau về tầm cỡ. Cả hai đều từng lăn lộn thật sự với những tầng lớp dưới đáy của xã hội cũ, cùng viết với một trái tim tha thiết yêu tin con người, cùng sớm giác ngộ lí tưởng cộng sản chủ nghĩa. Cả hai đều viết đủ thể loại : truyện ngắn, truyện dài, tiểu thuyết bộ ba, bộ bốn, hồi kí, bút kí, soạn kịch, làm thơ. Thời kì đầu cầm bút, họ đều viết nhiều về tầng lớp lưu manh. Họ cùng xây dựng được nhiều hình tượng bà mẹ rất đẹp đi từ bóng tối mịt mù của cuộc đời cũ, của thành kiến cũ, tới ánh sáng của thời đại mới. Họ đều có tài viết về những đám đông, những dòng người náo nhiệt : phu phen, thợ thuyền đổ ra hè phố khi tan tầm ở các nhà máy, hay trong những cuộc đình công, bãi công,v.v. Nhưng ở hai nhà văn ấy, sự gặp gỡ này có thể coi là đáng tự hào hơn cả : đối với lịch sử văn học của hai dân tộc Nga, Việt, họ đều thuộc số những nhà văn dẫn đầu trong việc ca ngợi lao động, phát hiện ở lao động một đối tượng thẩm mĩ thật sự. Văn tiểu thuyết của Nguyên Hồng bao giờ cũng đầy cảm xúc, đầy chất thơ. Ngòi bút ấy đã chế tạo lấy cho mình một chất thơ độc đáo, không phải từ mây, gió, trăng, hoa, mà luyện bằng than bụi những nhà máy, những bến tàu, bằng sỏi đá những đồi khô cỏ cháy, hoà với chất mồ hôi mặn chát và nóng bỏng của những người lao động. Trong sáng tác cũng như trong sinh hoạt hằng ngày, Nguyên Hồng hiện lên như một tấm gương rất đẹp về sự gắn bó chặt chẽ giữa nghệ thuật và lao động. Con người ấy sinh ra từ môi trường lao động, tự rèn đúc thành chất người lao động, vì nhân dân lao động mà cặm cụi viết và viết không ngừng, không nghỉ, cho đến hơi thở cuối cùng.

Nguyễn Tuân có lần nói, ông sở trường về tả gió, còn tả nắng thì nhất Nguyên Hồng. Nắng không thể thiếu trong phong cảnh thiên nhiên làm nền cho sinh hoạt của nhân vật tiểu thuyết Nguyên Hồng. Một thứ nắng vùng cửa biển, phấp phới, lồng lộng. Một thứ nắng có sức sống, có linh hồn, cũng hoạt động sôi nổi như con người, thậm chí có lúc như reo lên, hét lên hoà với nhịp sống tưng bừng náo nhiệt của thành phố Hải Phòng rực rỡ màu phượng vĩ. Dĩ nhiên, thiên nhiên vùng đất cảng đã ảnh hưởng tới thế giới thẩm mĩ của nhà văn. Nhưng người cầm bút phải có một tâm hồn như thế nào đấy thì cái ánh nắng kia mới đi vào tác phẩm rực rỡ như thế được. Nguyên Hồng như có cái bản năng tự nhiên của cỏ cây luôn luôn hướng về ánh sáng. Một tâm hồn đầy ánh sáng, đầy ánh nắng. Dưới ánh nắng ấy, mọi cảnh vật ông mô tả đều tươi tốt, nở nang, màu mỡ, tràn đầy sức sống. Thứ ánh nắng có sức xua tan cả âm khí, tử khí trên những xác chết. Hãy xem một đoạn văn kì lạ của Nguyên Hồng trong Hơi thở tàn (1943) tả một ông già nghèo khổ vừa tắt thở trong một nhà thương làm phúc, một buổi sáng mùa hè : “Khác hẳn lúc sống, mặt ông tươi và trắng hẳn lên. Mắt ông nhắm lim dim và hai bên môi hơi nhếch như ông đã bằng lòng một sự gì rồi cười cái nụ cười cuối cùng ấy sau mấy tiếng thì thầm. Hai chân ông dạng ra, hai cánh tay ấp vào bụng, chẳng khác nào ông đã đón một người mà ôm vào lòng”. Và “ánh nắng lại đón chào ông. ánh nắng vàng ngời như lửa đốt của buổi sáng mùa hè lúc đó gió còn mát dịu, thổi chờn vờn những lá cây, lá cỏ lấp lánh sương…”.

Cái gì đã tạo nên ở Nguyên Hồng một chủ nghĩa lạc quan vững khoẻ đến như thế ? Đó là lí tưởng cách mạng mà nhà văn đã tiếp thu được ngay từ thời kì Mặt trận Dân chủ Đông Dương, nhất là từ khoảng năm 1938 – 1939 trở đi. Đó là bản tính yêu đời, yêu sống của nhân dân lao động đã thấm vào máu thịt, tâm hồn ông. Đó là sức mạnh tinh thần của một con người bao giờ cũng sống hết mình với cuộc sống, với mọi người, mọi việc xung quanh. Thái độ thờ ơ, lạnh nhạt, hoài nghi là một cái gì hết sức xa lạ đối với Nguyên Hồng. Làm sao có thể hình dung được một Nguyên Hồng không còn hoạt động sôi nổi, hăm hở được nữa, một Nguyên Hồng trái tim phải ngừng đập, đành nhắm mắt xuôi tay giữa cuộc đời muôn vàn yêu quý này của ông!

Quá trình sáng tác của Nguyên Hồng như thế là đúng 46 năm liên tục (1936 – 1982). Ông để lại một khối lượng tác phẩm đồ sộ mà sức sáng tạo, cho đến phút cuối cùng, chưa hề có dấu hiệu gì vơi cạn. Dĩ nhiên, đánh giá một nhà văn, người ta nghĩ đến chất lượng hơn là số lượng những trang viết. Không thể nói rằng tác phẩm của Nguyên Hồng đều là những đỉnh cao, những kiệt tác văn học. Nhưng đối với lịch sử văn học nước ta năm mươi năm qua, Nguyên Hồng có một vị trí chắc chắn lắm, bền vững lắm. Tôi nghĩ rằng, văn học sử một dân tộc, nếu ví như một phòng triển lãm hội hoạ treo kín những bức tranh phản ánh những phương diện khác nhau của hiện thực xã hội, phong tục tập quán, phong cảnh thiên nhiên và tâm hồn dân tộc ấy thì một nhà văn có vị trí thật sự trong lịch sử văn học phải là tác giả của những bức tranh mà, nếu vì lý do nào đấy, phải tháo cất đi, thì phòng triển lãm cứ đành bỏ trống một mảng tường lớn, không lấy gì điền vào, thay vào cho tương xứng được. Ta cứ tưởng tượng xem, nếu không có những bức tranh của Nguyên Hồng thì tình trạng sẽ thế nào ? Ai thay thế được Nguyên Hồng để dựng lên bức tranh quy mô, hoành tráng về thành phố Hải Phòng căng thẳng, sôi sục vào những năm bốn mươi đầy biến động của lịch sử dân tộc ? Ai sẽ vẽ nổi như Nguyên Hồng chân dung những lão La, mẹ La, Gái Đen, cụ Cam, cụ Ước, v.v. những người lao động cùng khổ nhưng đầy sức sống của thành phố cảng, có một cái gì táo bạo, ngang ngược đấy, nhưng bản chất thẳng ngay, trung thực, giàu tình nghĩa, không phải chỉ là con đẻ của những giai cấp cần lao của một thành phố mới xây dựng, mà còn được sinh ra từ những truyền thống tinh thần tốt đẹp kết tinh tự ngàn xưa của dân tộc mình ? Nguyên Hồng không có những kiệt tác hoàn chỉnh, nhưng có những trang viết đáng gọi là kiệt tác. Nói riêng về bộ tiểu thuyết Cửa biển, tôi nghĩ đến những trang viết về mẹ La vượt ngục. Những trang viết thật dữ dội ! Người đàn bà này phải vượt qua hai cửa ngục khủng khiếp : cửa ngục của bà Chúa Ngục, và cửa ngục của bọn đế quốc ; những trang viết về Huệ Chi bước dần bước dần tới cái chết mà cứ lững thững như đi trong một thế giới huyền ảo tạo nên bởi những kỉ niệm đầy chất thơ của tình mẫu tử, tình quê hương, v.v. Văn Nguyên Hồng thường tạo nên sự đối lập giữa ánh sáng và bóng tối, giữa thiên đường và địa ngục. Ông viết rất hay về những tính cách “thiên thần”, nhưng cũng viết rất đạt về những tên quỷ sứ. Những trang viết về thằng mật thám Tây Cậu, về tên vô lại Nguyễn Kim Tú – em Thi San, v.v. cũng là những trang không dễ gì có ai viết thay được.

Xuân Diệu có lần nói, Nguyên Hồng có năng khiếu của một nhà văn lớn. Tôi cũng nghĩ như thế. Ông thành công ngay từ sáng tác đầu tay. Nhưng nếu như có những cây bút nào kia chỉ loé sáng lúc ban đầu rồi lụi tắt, thì Nguyên Hồng, cả quá trình sáng tác mấy chục năm, không có lúc nào viết xuống tay hẳn. Tác phẩm cuối cùng của ông là bộ tiểu thuyết Núi rừng Yên Thế. Tác phẩm mới in một tập. Bản thảo tập hai chưa ráo mực. Với bộ truyện viết về Đề Thám này, Nguyên Hồng sẽ có thêm một đóng góp mới đối với văn học hiện đại nước ta, nói riêng về loại tiểu thuyết lịch sử. Tác phẩm chưa hoàn thành. Cái chết đến với nhà văn quá đột ngột, giữa đà sáng tác đang còn hào hứng và đầy hứa hẹn. Tiếc thay !

*
* *

Nguyên Hồng là con người rất dễ xúc động, rất dễ khóc. Ai từng tiếp xúc với Nguyên Hồng đều thấy như thế. Khóc khi nhắc đến nỗi khổ của con người trong xã hội cũ. Khóc khi nghĩ đến công ơn cách mạng. Khóc khi ôn lại những kỉ niệm thắm thiết của mình với bạn bè, đồng chí. Khóc cả khi kể lại nỗi bất hạnh của những nhân vật do chính mình sáng tạo ra. Tôi đã được thấy Nguyên Hồng khóc khi nói đến cái chết của Gái Đen trong Cơn bão đã đến. Người con gái tốt bụng, thẳng thắn ấy, vì nhẹ dạ, cả tin mà bị lầm lỡ đến nỗi uất lên mà chết trong một cơn trở dạ đau đớn. Kể đến đấy, Nguyên Hồng nghẹn ngào không nói được nữa, nước mắt ròng ròng. Ông khóc như người mẹ đứng trước cái chết của đứa con mình rứt ruột đẻ ra, nhất là phải chết oan chết uổng, chết khốn chết khổ như Gái Đen. Nguyên Hồng đã sống hơn sáu mươi năm, đã viết hơn bốn mươi năm, ai biết được ông đã đổ ra bao nhiêu nước mắt cho đời và cho nghệ thuật ? Bây giờ nằm dưới ba thước đất, nguồn nước mắt ấy, liệu có bao giờ khô cạn được chăng ?

N.Đ.M – Đồng Xa, 14.05.1982

(Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn, NXB Giáo dục, 1994)


* Tham khảo:

Cảm nhận văn bản “Thương tiếc nhà văn Nguyên Hồng”

Ngay sau khi tác giả “Những ngày thơ ấu”, “Bỉ vỏ”… qua đời, Nguyễn Đăng Mạnh đã viết bài “Thương tiếc nhà văn Nguyên Hồng” đăng trên báo Nhân dân số 10189, ra ngày 16-5-1982.

Có người cho rằng bài viết của Nguyễn Đăng Mạnh là một điếu văn thương tiếc một nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam vừa quá cố: Nhà văn Nguyên Hồng.

Tác giả không nói về tiểu sử mà chỉ nói về văn chương, con người và vị trí của Nguyên Hồng trong lịch sử văn học dân tộc.

Phần đầu, Nguyễn Đăng Mạnh nói về giá trị hiện thực và tinh thần nhân đạo trong tác phẩm Nguyên Hồng. Lời đánh giá vừa sâu sắc vừa chí tình: “Văn Nguyên Hồng bao giờ cũng lấp lánh sự sống. Những dòng chứ đầu chi tiết cứ cựa quậy, phập phồng. Một nhà văn bám riết lấy cuộc đời, quấn quýt lấy con người”. Cái tâm của Nguyên Hồng rất nồng hậu, ông luôn luôn đặt cái “tâm” nóng hổi của mình trên trang sách. Tác giả nhắc lại cái chết đau đớn của người đàn bà nông dân theo đạo Thiên Chúa được nói đến trong truyện ngắn Linh hồn, tác phẩm đầu tay của Nguyên Hồng đăng trên Tiểu thuyết thứ bảy năm 1936 để chi rõ: Nguyên Hồng bước vào nghề văn là “để nói lên nỗi khổ đau oan ức không cùng của dân nghèo thấp cổ bé họng trong xã hội cũ, đặc biệt là người phụ nữ lao động”. Từ Bỉ vỏ đến Những ngày thơ ấu, từ Quán Nải đến của Cửa biển…, hình ảnh người đàn bà oan khổ, đau khổ theo đuổi, ám ảnh ngòi bút của ông.

Chủ nghĩa nhân đạo thấm đẫm trên trang văn Nguyên Hồng là “chủ nghĩa nhân đạo thống thiết”, có lẽ vì thế mà ông “cứ đổ dồn dập lên đầu nhân vật của mình đủ thứ tai hoa trên đời”. Là nhà văn cùng khổ, ông đã dành tất cả tình yêu thương, niềm tin mãnh liệt đối với “thiện căn” bền vừng của nhân dân lao động. Nguyên Đăng Mạnh đã thấu hiểu Nguyên Hồng, đã dành cho nhà văn Ngõ Cấm ngày xưa và những đứa con tinh thần của “cậu giáo “những lời tốt đẹp nhất: “từ vực thẳm tối tăm ngày trước, từ đống bùn rác ngập ngụa trong xã hội cũ, những Tám Bính, những mẹ La của tiểu thuyết Nguyên Hồng vẫn giữ chắc bản chất hổn hậu, trong sáng của mình mà vươn lên, như những mầm cây căng nhựa, xuyên thủng lớp lớp bùn đất dày đặc để nhô lên đón lấy ánh sáng mặt trời”.

Thật thú vị khi ta được nghe tác giả so sánh giữa Go-rơ-ki với Nguyên Hồng. Hai nhà văn của hai dân tộc Nga, Việt tuy “khác nhau về tầm cỡ” nhưng có những nét tương đồng. Cả hai “từng lăn lộn” với những con người “dưới đáy” xã hội cũ, cùng viết với một trái tim tha thiết yêu tin con người, cùng sớm giác ngộ lí tưởng cộng sản chủ nghĩa. Cả hai đều viết đủ thể loại, viết rất hay, rất cảm động về tầng lớp lưu manh, xây dựng hình tượng bà mẹ rất đẹp. Họ đều có tài viết về đám phu phen thợ thuyền… Đặc biệt “họ đều thuộc số những nhà văn dẫn đầu trong việc ca ngợi lao động, phát hiện ở lao dộng một đối tượng thẩm mỹ thật sự”. Phải có “con mắt tinh đời”, và phải có một tấm lòng “tri âm” ,tác giả mới viết và so sánh tinh tế như vậy.

Văn Nguyên Hồng dào dạt chất lãng mạn, “đầy cảm xúc, đầy chất thơ”.. Không phải là chất thơ từ mây, gió, trăng, hoa, mà là chất thơ được “chế tạo”, được “luyện bằng than bụi nhà máy, những bến tàu, bằng sỏi đá những đồi khô cỏ cháy, hoà với chất mồ hôi mặn chát và nóng bóng của những người lao động”.

Con người Nguyên Hồng, nhà văn Nguyên Hồng là “một tấm gương rất đẹp về sự gắn bó chặt chẽ giữa nghệ thuật và lao động”, “sinh ra từ môi trường lao động, tự rèn đúc thành chất người lao động, vì nhân dân lao động mà cặm cụi viết không nhừng, không nghỉ, cho đến hơi thở cuối cùng”. Lời bình luận vừa sâu sắc vừa chí tình.

Nguyễn Đăng Mạnh nhắc lại lời khen của Nguyễn Tuân về cái tài tả nắng của Nguyên Hồng, rồi ông chấm phá: “một thứ nắng vùng cửa biển có sức sống, có linh hồn,… như reo lên, hát lên hoà với nhịp sống tưng bừng, náo nhiệt của thành phố Hải Phòng rực rỡ màu phượng vĩ”. Tâm hồn của Nguyên Hồng “đấy ánh sáng, đầy ánh nắng”; “mọi cảnh vật ông miêu tả đều tươi tốt, nở nang, màu mỡ, tràn đầy sức sống”… Tác giả nhắc lại khoảnh khắc “hơi thở tàn” của ông già nghèo khổ nơi nhà thương làm phúc, rồi trích câu văn của Nguyên Hồng: “Ánh nắng lại đón chào ông. Ánh nắng vàng ngời như lửa đốt của sáng mùa hè lúc đó gió còn mát dịu, thổi chờn vờn những lá cây, lá cỏ lấp lánh sương”. Đủng là thứ “ánh nắng có sức xua tan cả âm khí, tử khí trên những xác chết”. Thứ ánh nắng ấy đã tạo nên chủ nghĩa lạc quan trong văn nghiệp Nguyên Hồng.

Bỉ vỏ – Nguyên Hồng

Nguyễn Đăng Mạnh đã chỉ ra những nguyên nhân và nguồn gốc sâu xa tạo nên một chủ nghĩa lạc quan vững khoẻ của Nguyên Hồng: “Đó là lí tưởng cách mạng mà nhà văn đã tiếp thu được ngay từ thời kì Mặt trận Dân chủ Đông Dương. ..Đó là bản tính yêu đời, yêu sống của nhân dân lao động đã thấm vào máu thịt, tâm hồn ông. Đó là sức mạnh tinh thần của một con người bao giờ cũng sống hết mình vì cuộc sống, với mọi người, mọi việc xung quanh”.

Phần tiếp theo, Nguyên Đăng Mạnh đánh giá sự nghiệp văn chương của Nguyên Hồng. Nguyên Hồng đã sống 64 năm trên cõi đời (1918-1982) đã có 46 năm bền bỉ liên tục sáng tác (1936-1982), cho đến lúc trút hơi thở cuối cùng “chưa hề có dấu hiệu gì vơi cạn; tập hai tiểu thuyết lịch sử “Núi rừng Yên Thế” còn chưa “ráo mực”.

Nguyên Hồng “không có những kiệt tác hoàn chỉnh nhưng có những trang viết gọi là kiệt tác”. Tác giả nhắc đến cảnh mẹ La vượt ngục, cảnh Huệ Chi bước dần tới cái chết với những kỉ niệm đầy chất thơ của tình mẫu tử, tình quê hương…; nhắc đến những quỷ sứ như Tây Cậu, Nguyễn Kim Tú để khẳng định: “Nguyên Hồng thường tạo nên sự đối lập giữa ánh sáng và bóng tối, giữa thiên đường và địa ngục”.

Xuân Diệu đã có lần nói, Nguyên Hồng có năng khiếu của một nhà văn lớn. Nguyễn Đăng Mạnh ca ngợi: “Đối với lịch sử văn học nước ta năm mươi năm qua. Nguyên Hồng có một vị trí chắc chắn lắm, bền vững lắm”. Quá trình sáng tác của Nguyên Hồng “không có lúc nào xuống tay hẳn”.

Phần cuối bài văn, tác giả nói về chuyện Nguyên Hồng “rất dễ xúc động, rất dễ khóc”. Nhiều nhà văn đã nói về chuyện này. Hai câu hỏi thật sự gợi cho người đọc bao suy nghĩ và cảm xúc:

“Nguyên Hồng đã sống hơn sáu mươi năm, đã viết hơn bốn mươi năm, ai biết được ông đã đổ ra bao nhiêu nước mắt cho đời và cho nghệ thuật?. Bây giờ nằm dưới ba thước đất, nguồn nước mắt ấy, liệu có bao giờ khô cạn được không?”

Ở nước ta, đã có nhiều người viết chân dung văn học. Nhưng phần lớn những bài viết đó đều nhạt và mờ, thậm chí có bài rất vô duyên. Bài “Thương tiếc nhà văn Nguyên Hồng” của Nguyễn Đăng Mạnh là một áng văn mang vẻ đẹp hoàn hảo. Sự đánh giá, bình luận sắc sảo, chí lí, chí tình. Một cách viết đằm thắm, chặt chẽ. Ngôn từ trang trọng. Trang trải trên trang văn là cả một tấm lòng “thương tiếc” mà tác giả đã gửi gắm ở đầu nhan đề. Nén tâm hương Nguyễn Đăng Mạnh thắp lên chắc sẽ làm cho hương hồn Nguyên Hồng rơi lệ!

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang