dong-vai-nhan-vat-vu-nuong-ke-lai-cuoc-doi-oan-uc-cua-minh-678

Đóng vai nhân vật Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương kể lại cuộc đời oan ức của mình

Đóng vai nhân vật Vũ Nương trong “Chuyện người con gái Nam Xương” kể lại cuộc đời oan ức của mình

Tôi vốn là con nhà khó nghèo, được cha mẹ dạy bảo ân cần về lễ nghĩa, đức hạnh. Năm ấy, Trương Sinh vì yêu mến dung hạnh mà xin mẹ trăm lạng vàng đến cưới tôi về làm vợ. Trương Sinh chồng tôi, vốn là người đa nghi, đối với vợ phòng ngừa quá sức. Tôi biết tính chàng như thế nên cũng giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến bất hòa. Tôi tưởng là chúng tôi sẽ sống sum vầy, êm đềm như vậy đến đầu bạc răng long. Thế nhưng, ông trời cay nghiệt, không cho chúng tôi sum vầy diên niên. Hạnh phúc chưa được bao lâu thì quân Chiêm quấy nhiễu biên cương, Trương tuy là còn nhà hào phú nhưng không có học, nên bị ghi tên đi lính vào loại đầu.

Tôi chỉ biết rót chén rượu đầy tiễn đưa. Chàng xông pha nơi trận mạc, tôi chỉ cầu mong giặc dữ sớm ngày quy phục, chàng được bình an trở về, không cần chức tước mà nguy hiểm mạng sống. Nghĩ đến tháng ngày cách biệt, tôi không thể kìm được nước mắt đã ứa trong mắt tôi mà chảy xuống.

Bấy giờ, tôi lại đang có mang. chàng đi chẳng được bao lâu tôi hạ sinh và đặt tên con là Đản. Có con trẻ, tôi phần nào vơi bớt nỗi mất mát nhớ chồng. Mẹ chồng tôi nhớ con tuổi già nên sinh bệnh nặng, tôi muốn thay phần chồng tôi phục vụ người mẹ già nên hết sức thuốc thang, lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn. Nhưng mẹ không qua nổi, trước khi đi mẹ trối lại những lời tha thiết rồi tắt thở. Tôi đau lòng lo ma chay cho mẹ. Vậy là chỉ còn tôi với bé Đản quặn quẽ trong căn nhà lớn nhà.

Qua năm sau, giặc tan, chồng tôi trở về bình yên đúng như mong đợi, khi buồn vì mẹ không còn nhưng tôi hy vọng gia đình sẽ hạnh phúc như xưa. Nhưng bé Đản vì chưa gặp cha bao giờ nên không chịu nhận dù tôi đã hết sức dỗ dành, có lẽ là còn trẻ con nên ương bướng. Ngay hôm sau, chàng bế con ra thăm mộ mẹ, tôi ở nhà chuẩn bị mâm cơm vừa để cúng tổ tiên tạ ơn vừa để báo cho mẹ biết chàng đã về, cho mẹ yên lòng nơi chín suối cũng là mừng ngày đoàn tụ.

Không ngờ ngày vui ngắn chẳng tày gang, buổi trưa hai cha con trở về, tâm trạng của chàng không vui hiện rõ trên nét mặt. Sau đó chàng nặng lời tra hỏi tôi trong thời gian chàng đi xa tại sao làm chuyện xấu xa thất tiết trái đạo lý… tôi không hiểu rõ nguyên nhân vì sao, thấy chàng như vậy chỉ biết khóc. Tôi đã giải thích cho chàng hiểu: tôi nói đến thân phận mình là con nhà kẻ khó được nương tựa nhà giàu trong thời gian chồng đi lính vẫn một lòng chung thủy chờ đợi, không hề làm chuyện xấu xa, thất tiết. Tôi cũng cầu mong van xin chống đừng nghi oan để cứu vãn hạnh phúc gia đình có nguy cơ tan vỡ.

Thế nhưng, dù tôi hết lời phân giải chàng nhất mực không tin. Làng xóm bênh vực cho tôi cũng chẳng ăn thua gì, chàng vẫn một mực mắng nhiếc rồi đuổi đi. Tôi tuyệt vọng đến cùng cực vì tai họa bất ngờ ập đến nên cố bày tỏ nhưng chàng vẫn lạnh lùng không thay đổi. Biết rằng người có tính cách như chàng thật khó giải thích nên tôi tắm gội chay sạch, suy nghĩ trước sau thấy rằng cuộc đời thật không có ý nghĩa, bao nhiêu vất vả với gia đình, ngay cả tấm lòng thủy chung một mực chăm lo cho mẹ già, con trẻ nhưng bây giờ cũng bị phủ nhận không thương tiếc. Tôi không thể sống mà mang tiếng xấu xa để người đời khinh rẻ nên chỉ còn một cách là lấy cái chết để minh oan.

Đứng trên bến Hoàng Giang, tôi ngửa mặt lên trời than cầu mong thần linh chứng giám cho tấm lòng thủy chung của mình, xong gieo mình xuống sông. May thay, Linh Phi, vợ vua Thủy Tề, thấu hiểu nỗi oan của tôi rẽ đường nước cho tôi xuống thủy cung và cho tôi lưu lại ở đó.

Một hôm tôi gặp Phan lang, người cùng làng trước đây có ơn với Linh Phi nên khi gặp nạn đã được Linh Phi cứu. Phan Lang kể chuyện cho tôi: “Chàng Trương sau khi thấy vợ chết tuy giận nhưng vẫn động lòng thương cho tìm vớt thây nàng nhưng không thấy. Thế rồi mấy hôm sau mọi người nghe chàng ân hận kể lại rằng: một hôm phòng không vắng vẻ chợt đứa con chỉ cái bóng trên tường của chàng nói là cha Đản. Chàng lúc ấy mới thấu hiểu nỗi oan của vợ, ân hận nhưng đã muộn rồi”.

Nghe Phan Lang kể tôi cũng thấy xót xa thương chồng con vì không ai chăm sóc. Không kiên nhận tìm hiểu nguyên nhân mà quá đau đớn tuyệt vọng mà dẫn tới cái chết. Phan Lang khuyên tôi nên trở về, ban đầu tôi đã nói không còn mặt mũi nào quay lại nữa nhưng sau đó vì nhớ quê hương, chồng con, lại mong muốn được giải oan, phục hồi danh dự nên tôi lại nói sẽ quay trở về. Hôm sau Phan Lang trở về dương thế, tôi gửi theo chiếc hoa vàng và lời nhắn chàng Trương tôi sẽ có ngày trở về dương thế.

Mấy ngày hôm sau thấy Trương Sinh lập đàn giải oan 3 ngày 3 đêm ở bến sông Hoàng Giang với tình cảm chân thành hối lỗi và thực sự mong tôi quay về. Thấy vậy Linh Phi có ý khuyên tôi nên về với chồng con nhưng tôi vì có nghĩa với Linh Phi và lại hạnh phúc gia đình tan vỡ khó hàn gắn nên không muốn trở về. Đến ngày thứ ba, giữa trốn trần gian mịt mù khói tỏa thì Linh Phi đã cho 50 chiếc kiệu hoa hiện lên giữa dòng sông, tôi ngồi trên một chiếc kiệu nói vọng vào bờ lời tạ từ với chồng con rồi từ từ biến mất.

Dù quá khứ đã lùi xa nhưng có lẽ những người trong cuộc vẫn bị ám ảnh day dứt. Riêng bản thân tôi dù đã sống cuộc sống trần gian, nhớ chồng con vẫn chôn kín ở trong lòng khó có thể diễn tả bởi chính cuộc sống ấy đã đẩy tôi vào con đường tận tuyệt, dút tình với nhân gian. Linh Phi nhiều lần động viên tôi trở về đoàn tụ với gia đình nhưng tôi luôn từ chối ân đức áy. Bởi tôi thấu hiểu rằng trần gian oan nghiệt đã không còn chỗ nào cho tôi dung thân nữa.


Bài làm 2:

Chàng Trương Sinh vốn là người cùng làng với tôi. Bởi cảm mến, chàng đã đem lòng thương yêu và cùng tôi kết tóc xe duyên, hứa hẹn sẽ cùng chung sống hạnh phúc đến đầu bạc răng long. Biết tính chàng hay ghen nên tôi cũng cố gắng giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa.

Năm ấy, quân giặc quấy nhiễu biên cương, chàng tuy là con nhà hào phú nhưng không có học, nên tên phải ghi trong sổ lính đi vào đầu. Trước khi ra đi mẹ chàng dặn dò cặn kẽ mọi việc. Vào thời binh đao loạn lạc này, mẹ chỉ mong chàng giữ gìn thân mình, phải toan tính kĩ rồi hãy làm, gặp khó nên lui. Tôi rót chén rượu đầy cho tiễn chồng mà trong lòng rối bời, não nề khi nghĩ đến sự khó nhọc, những gian nguy mà chàng sắp gặp phải. Tôi chẳng dám mong đem được ấn phong hầu, chẳng cần chàng” mặc áo gấm trở về quê cũ”. Tôi chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ. Lúc bấy giờ, tôi đang mang trong mình giọt máu của chàng. Sau khi xa chàng vừa đầy tuần thì sinh ra một đứa con trai, đặt tên là Đản.

Thời gian cứ trôi đi, chẳng đợi chờ ai và chưa bao giờ cảm thương cho ai bao giờ. Khoảng nửa năm sau khi Trương lang tòng quân xa nhà, vì thương con quá mức, một phần vì tuổi già sức yếu, mẹ chồng tôi lâm bệnh nặng. Biết mẹ già không vững được bao lâu nữa, tôi vô cùng thương xót, ngày đêm lễ bái thần phật, chăm chút thuốc men, luôn an ủi và động viên mẹ. Nhưng vận trời khó tránh, sức cùng lực kiệt, bà đã giã từ cuộc sống. Trước khi nhắm mắt xuôi tay, bà còn gửi lời tha thiết mong nhơ con và cảm ơn tôi trong nhưng ngày qua đã làm tốt bổn phận của mình.

Tôi vô cùng đau đớn tột cùng, vừa thương, vừa xót. Sau đó, tôi hết sức lo ma cháy tế lễ, lo liệu như đối với cha mẹ đẻ của mình. Từ khi ấy, tôi đã hứa với lòng: phải cố gắng chăm sóc, nuôi dạy con thơ, luôn trọn dành tình yêu của mình cho chồng nơi xa xôi. Cho đến tận năm sau, bọn giặc đầu hàng rút quân khỏi bờ cõi đất nước, cuộc sống nhân dân lại được yên bình, chàng cũng được trở về quê cũ.

Lúc bấy giờ, Đản đã bập bẻ biết nói. Về đến nhà, hay tin mẹ mất, chàng đau đớn bồng con đến viếng mộ mẹ. Đến trưa, lúc về từ mộ mẹ trở về, chẳng hiếu vì cớ nào, chàng đùng đùng nổi giận, chưa thèm hỏi han một câu đến tôi mà la um lên, quát mắng, sỉ nhục đủ điều. Tôi chẳng hay biết chuyện gì cả, gạn hỏi để giãi bày mối nghi ngờ nhưng chàng chẳng thèm nghe lấy một lời, chỉ biết ghen bóng ghen gió, giận hờn rồi đánh đuổi thậm tệ. Chàng cho rằng trong thời gian chàng ở nơi chiến trận, tôi ở nhà đã thất tiết, không giữ trọn đạo vợ chồng. Hàng xóm nghe tiếng, vội đến can ngăn, giải bày, chàng cũng không nghe.

Tôi hết sức buồn tủi cho chính mình. Chẳng biết phải làm thế nào, tôi chỉ biết ngậm đắng nuốt cay, chịu đựng đòn roi và lời lẽ mắng nhiếc của chàng, chỉ mong sao chàng thấu được tấm chân tình của tiện thiếp nhưng có lẽ mọi việc không như tôi mong đợi.

Chàng càng lúc càng nóng, trút hết đòn roi lên thiếp, rồi đuổi tôi đi. Đất trời cao rộng nhưng tôi biết đi đâu. Lại mang tiếng thất tiết phụ chồng, nỗi oan tày trời này sao gột rửa được. Nước mắt chảy cạn mà lòng chàng vẫn còn cố chấp. Tình nghĩa bao năm giờ vơi cận gần hết. Xót con còn bé bỏng, lại thêm thân mình phải chịu tiếng nhuốc nhơ, tôi quyết quyên sinh để chứng minh mình trong sạch.

Bất đắc dĩ, thiếp đành đoạn tuyệt tình nghĩa vợ chồng với chàng, tắm gội chay sạch, tiện thiếp chạy ra bến Hoàng Giang ngửa mặt lên trời mà thể rằng: “Kẻ bạc mệnh này duyên phân hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ.Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng,vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ.”. Nói xong, tôi gieo mình xuống sông sâu, mong rửa sạch nỗi oan thất tiết, tỏ ra tấm lòng thuỷ chung, trinh bạch, một trái tim luôn hướng về chồng con.

Nào ngờ, Linh Phi động lòng đã cứu vớt tôi. Khi tỉnh lại, tôi đã thấy mình nằm trong “cung gấm đền dao” của Người rồi. Tuy sống sung sướng, nhàn hạ chốn “làng mây cung nước” nhưng nỗi nhớ thương gia đình da diết vẫn không thể ngui ngoai trong lòng thiếp. Linh Phi cũng an ủi và cảm thông khiến lòng tôi phần nào bớt đau khổ.

Không lâu sau, hay tin Linh Phi gặp được ân nhân cứu mình thuở xưa. Đến dự tiệc ở gác Triêu Dương, tôi ngạc nhiên vì người đàn ông chính là Phan Lang, người cùng làng với tôi ở Nam Xương. Khi mới gặp lại, có lẽ ông ấy không nhận ra tôi, nhưng sau khi nghe tôi giãi bày, ông Phan khuyên tôi nên trờ về cuộc sống trần gian. Tôi gửi trao chiếc hoa vàng cho chàng Trương Sinh và dặn Phan nói lại với chàng Trương nếu chàng ấy còn chút tình xưa với tôi thì hãy lập đàn giải oan ở bến sông. Chẳng lâu sau, làm đúng như lời dặn của tôi, chàng Trương lập một đàn tràng ba ngày đêm ở bến Hoàng Giang.

Đứng ở giữa dòng, tôi ngôi trên chiếc kiệu hoa, nói vọng ra: “Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thè sống chết cũng không bỏ. Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể về trần gian được nữa”. Giờ đây, tôi sẽ dừng chân ở chốn làn mây cung nước này, mãi mãi chôn vùi cuộc đời ở nơi đây, không trở về tràn gian nữa vì tôi thấu hiểu rằng nhân gian oan nghiệt không còn chỗ nào để cho mình dung thân.


Bài tham khảo:

Đóng vai Trương Sinh tỏ bày vè nỗi oan khuất của Vũ Nương

Phận đàn bà từ xa xưa đã phải chịu những bất hạnh, không đâu thoát được. Càng cực hơn khi bấy giờ thuộc chế độ phong kiến, là xã hội của những cổ tục, suy nghĩ cổ hữu – “Trọng nam khinh nữ”. Là một người chồng, người cha, tôi không thể giấu mãi chuyện này. Giờ đây bé Đản đã lớn, có đủ chín chắn để nhìn nhận vấn đề, nó cũng cần phải biết những gì đã xảy ra trong quá khứ.

Vũ Nương – cái tên nghe quá đỗi thân thương. Đó là nơi mà tôi và mẹ bé Đản – Vũ Thị Thiết bén duyên tơ hồng. Nàng xinh đẹp, hiếu thảo, tư dung tốt đẹp vô cùng. Còn tôi – Trương Sinh là một đứa con trong gia đình hào phú, muốn gì được nấy nhưng lại không lo việc chữ nghĩa, suy nghĩ không bằng người. Vừa gặp Thiết, tôi đã đem lòng thương mến, dần dần muốn cưới nàng về làm vợ. Con trai thời ấy được ba mẹ cưng chiều vô cùng. Tư dung tốt đẹp như nàng, mẹ chồng nào mà chẳng thích nên vội  mở lời xin mẹ trăm lạng vàng để rước nàng về, bà chấp nhận ngay.

Nên duyên vợ chồng, cả hai hạnh phúc lắm. Tôi nhận thức được tôi là một người ghen tuông mù quáng vì suy nghĩ nông cạn. Ở bên tôi, chắc nàng từng đã cố gắng giữ gìn khuôn phép để gia đình ấm êm. Chung chăn gối chưa được bao lâu thì nước non gặp nạn, là người con của quê hương, làm sao tôi có thể ngó mặt làm ngơ. Trước khi đi, cả mẹ lẫn vợ đều chuẩn bị, dặn dò tôi rất đầy đủ. Rằng họ chỉ mong tôi an yên trở về, những thứ danh vọng ngoài kia là thứ không màng tới.

Rời xa gia đình, tôi thật lòng không muốn nhưng vì sự nước, tôi phải lên đường. Đi được một tuần thì nghe tin vợ ở nhà hạ sinh một đứa bé trai kháu khỉnh, đặt tên là Đản. Không biết vắng chồng, vợ tôi nơi ấy như thế nào. Nhờ Thiết và mẹ luôn gửi thư thăm hỏi, kể tình hình nơi quê nhà nên tôi phần nào đỡ lo lắng. Không lâu sau, tôi lại nhận được tin mẹ bệnh nặng. Được biết nàng chăm lo cho mẹ tôi chu đáo lắm, nàng luôn hỏi han, an ủi, động viên bà chờ ngày tôi về, nhưng tuổi già sức yếu, con người ta dù cố gắng ra sao cũng chẳng thể thay đổi lệnh trời. Mẹ tôi ra đi.

Ở nơi chiến trường đầy chết chóc ấy được nửa năm thì tôi trở về. Lúc ấy, quân giặc đã đầu hàng, trả lại sự yên bình vốn có của đất nước. Bước chân đến cửa, vợ tôi chạy ra, như vỡ òa, nàng ôm lấy tôi. Nhìn xung quanh, chỉ có một mình nhưng nàng đã gánh vác việc nhà, dạy dỗ con cái, lo hậu sự cho mẹ tôi rất tốt. Nhiêu đấy đủ để biết, người phụ nữ này đã cố gắng biết chừng nào! Tôi ẵm con ra trước mộ mẹ, chết lặng vài giây. Đản cứ quấy khóc, tôi nói:

– Nín đi con, đừng khóc. Cha về, bà đã mất, lòng cha buồn khổ lắm rồi.

Nó bập bẹ, ngây thơ lên tiếng đáp trả:

– Ô hay! Thế ra ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói, chứ không như cha tôi trước kia chỉ nín thin thít.

Tôi bất ngờ. Gạn hỏi con thì nó nói rằng đêm nào cũng có một người đàn ông đến chơi, Thiết đứng lên đi thì người đàn ông đó cũng đi, Thiết ngồi, người đàn ông đó cũng ngồi, tuyệt nhiên chẳng bao giờ lên tiếng hay bế Đản. Tôi nóng ran người, tỏ rõ sự bực tức, chắc chắn rằng vợ hư, không một lòng chung thủy. Về đến nhà, tôi lớn tiếng quát nạt, ra tay đánh nàng, mặc nàng van xin giải thích, mặc hàng xóm sang can ngăn. Ngày hôm đó, hẳn là ngày đầy lỗi lầm của tôi. Nàng tắm gội chay sạch rồi đi đâu không ai biết được. Tôi cũng chẳng màng ngó tới. Chỉ biết được lúc đi, Thiết mang theo một chiếc hoa vàng.

Sau đó hay tin nàng trầm mình xuống sông mà chết, tuy còn giận nhưng tôi vẫn đi tìm vớt thay nàng. Tìm tìm kiếm kiếm chẳng thấy đâu cả, tôi thơ thẩn đi về.

Tối hôm ấy, hai cha con ngồi trước ngọn đền dầu, bỗng Đản chỉ tay lên tường:

– Cha Đản lại đến kia kìa!

Nhìn bóng mình trên tường, tôi biết bản thân đã phạm phải sai lầm đáng chết. Vì tính đa nghi đa ghen, suy nghĩ không bằng người nên đã đẩy vợ đến quyết định tự vẫn. Hằng đêm, vì muốn con không chán ghét khi gặp lại cha, đồng thời để đỡ cô đơn, nàng đã đùa con rằng bóng trên tường là cha Đản – tôi. Không hiểu lòng vợ, nghi ngờ, ghen tuông lại không nghe vợ giải thích, tôi thật là một người chồng tệ bạc.

Ít lâu sau, có kẻ cùng làng đến tìm tôi, tên hắn là Phan Lang. Ban đầu hắn trình bày sự việc gặp được Thiết dưới thủy tề nhưng tôi không tin. Làm sao chuyện hoang đường này có thể xảy ra? Sau thấy Phan lấy ra chiếc hoa vàng xưa kia, tôi đành tin và chấp nhận yêu cầu của hắn. Hắn chuyển lời rằng tôi hãy lập một đàn giải oan ba ngày ba đêm ở bến Hoàng Giang, Thiết sẽ trở về. Đúng thật! Từ xa xa, bóng vợ tôi đứng trên chiếc kiệu hoa, lúc ẩn lúc hiện đầy mờ ảo. Tôi gọi vọng ra, nàng vẫn đứng yên giữa dòng mà trả lời:

– Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ. Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa.

Nói xong, tôi chẳng còn thấy được nàng. Nàng ẩn vào mây khói mà biến đi mất, để lại nỗi nhớ khôn nguôi nơi trần gian. Đến tận bây giờ, khi đã già đi, tôi vẫn ray rứt mãi sự việc năm ấy. Cũng đúng! Làm sao có thể sống bình thản khi chính mình là nguyên nhân làm vợ chết, làm con mồ côi mẹ. Tôi không mong ước gì hơn, chỉ mong rằng nàng nơi ấy được an yên, hạnh phúc, không lạnh lẽo như phàm trần này. Rồi tôi, tôi sẽ chịu mọi hình phạt từ người đời, từ con trai.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang