phan-nghia-tinh-huong-truyen-doc-dao-trong-hai-dua-tre-cua-thach-lam-678

Hướng dẫn ôn tập luyện thi văn bản Hai đứa trẻ của Thạch Lam

Hướng dẫn ôn tập luyện thi văn bản “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam.

I. Tìm hiểu chung:

1. Tác giả.

Thạch Lam (1910 – 1942), là một cây bút nổi tiếng của nèn văn học việt Nam thế kỷ XX. Ông là một người đôn hậu, tinh tế. Thạch Lam có biệt tài về truyện ngắn, phong cách nghệ thuật độc đáo. Tác phẩm của ông chủ yếu khai thác thế giới nội tâm với những xúc cảm mong manh, mơ hồ. Mỗi truyện như­ một bài thơ trữ tình đư­ợm buồn, giọng điệu điềm đạm nhưng chứa đựng biết bao tình cảm mến yêu chân thành và sự nhạy cảm của tác giả trước những biến thái của cảnh vật và lòng người. Văn phong trong sáng, giản dị, thâm trầm, sâu sắc.

2. Tác phẩm:

– Xuất xứ: In trong tập “Nắng trong vườn” (1938)

– Vị trí: Là truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật truyện ngắn của Thạch Lam, có sự hòa quyện hai yếu tố hiện thực và lãng mạn trữ tình.

– Chủ đề: Bức tranh phố huyện nghèo  trước cách mạng táng Tám từ lúc chiều muộn đến đêm khuya  qua cái nhìn và tâm trạng của nhân vật Liên

– Bố cục gồm 3 phần:

+ Phần 1: (Từ đầu đến “ tiếng cười khanh khách nhỏ dần về phía làng ):Tâm trạng của Liên trước bức tranh phố huyện lúc chiều muộn.

+ Phần 2: (Tiếp theo đến “ chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày của họ.):Tâm trạng của Liên trước bức tranh phố huyện khi đêm vể.

+ Phần 3 :( còn lại): Tâm trạng của Liên trong cảnh đợi tàu lúc đêm khuya.

– Nội dung: Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” thể hiện niềm cảm thương chân thành của Thạch Lam đối với những kiếp sống nghèo khổ, chìm khuất trong mòn mỏi, tăm tối, quẩn quanh nơi phố huyện trước cách mạng và sự trân trọng với những mong ước nhỏ bé, bình dị mà tha thiết của họ.

II. Đọc hiểu văn bản.

1. Tâm trạng của Liên trước bức tranh phố huyện lúc chiều muộn.

a. Trước cảnh chiều tàn:

* Cảnh vật:

– Âm thanh:

Tiếng trống thu không… từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều câu văn chậm rãi điểm nhịp thời gian.

Tiếng ếch nhái kêu ran, tiếng muỗi vo ve – những âm thanh đặc trưng của làng quê lấy động tả tĩnh  không khí vắng vẻ, đìu hiu, hoang vắng.

Miêu tả từ xa đến gần, nhỏ đần, tất cả như cộng hưởng tạo nên một bản nhạc đồng quê êm đềm.

– Màu sắc:

+ Phương tây đỏ rực như lửa cháy

Đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn.

Tính từ, so sánh màu sắc rực rỡ bùng cháy  trước khi tàn lụi  cảnh hoàng hôn sống động, báo hiệu một  ngày đã qua.

– Đường nét:

+ Dãy tre làng đen lại cắt hình rõ rệt trên nền trời (ánh hồng). Nghệ thuật tương phản giàu chất hội họa , hoàng hôn dần buông xuống.

Câu văn mở đầu dịu dàng như một lời thơ đã gợi ra không khí buồn vắng, hắt hiu của  phố huyện nhỏ ở một  nơi khuất nẻo.

– Trong đoạn văn tả cảnh thiên nhiên, Thạch Lam đã viết những câu văn giàu chất thơ, chất nhạc:  “ Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru”. Câu văn toàn thanh bằng, nhịp chậm, điệp từ “chiều”, từ láy, nghệ thuật so sánh tinh tế  đã gợi không khí một buổi chiều quê êm đềm thơ mộng mang cốt cách Việt Nam, qua đó thể hiện sự nâng niu trân trọng của Thạch Lam với những gì là hồn xưa của dân tộc.

 Bằng cảm hứng lãng mạn tinh tế, câu văn như câu thơ(Chiều,chiều rồi…), kết hợp hài hoà các chi tiết miêu tả âm thanh, màu sắc, đường nét, tác giả đã  gợi lên bước đi của thời gian từ, đồng thời gợi lên một bức tranh thiên nhiên thôn dã trong cái giờ khắc của ngày tàn: đẹp, êm đềm,  thơ mộng, đượm buồn mang hồn quê Việt Nam.

* Tâm trạng của Liên:

– Tư thế: Ngồi yên lặng, trầm tư suy nghĩ.

– Đôi mắt: Ngập đầy bóng tối, nổi buồn trào dâng.

– Tâm hồn:

Ngây thơ mà buồn thấm thía.

Không hiểu sao nhưng thấy lòng buồn man mác trước giờ khắc ngày tàn.

Từ tư thế, dáng vẻ đến tâm hồn cho thấy tâm trạng  của Liên: buồn trước bước đi của thời gian, trước cảnh thiên nhiên vắng lặng đìu hiu . Tâm hồn tinh tế, nhạy cảm, yêu thiên nhiên. Đến đây chúng ta đã thấy rõ nét đặc trưng trong văn Thạch Lam ở sự kết hợp giữa yếu tố lãng mạn và hiện thực. Nếu ở cảnh chiều tàn, ngòi bút Thạch Lam thật lãng mạn trữ tình thì ở cảnh chợ tàn, nhà văn lại dùng ngòi bút tả thực.

b. Trước cảnh chợ  tàn:

* Cảnh vật :  một ngày chợ phiên

– Âm thanh: Chợ họp giữa phố đã vãn từ lâu, người về hết, tiếng ồn ào cũng mất chỉ còn sự trống vắng, quạnh hiu

–  Hình ảnh: Trên đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn, lá mía những phế thải của một phiên  chợ quê nghèo.

– Mùi vị: Một mùi âm ẩm, hơi nóng ban ngày, mùi cát bụi. Cảm nhận bằng khứu giác mùi vị của đất quê hương. Phải chăng đó là mùi vị của nghèo khổ, lầm than, cơ cực?

Bằng ngòi bút tả thực, cảm nhận bằng nhiều giác quan: thị giác, thính giác, khứu giác, và bằng cả tâm hồn tinh tế nhạy cảm, những chi tiết giàu sức gợi, cảnh chợ tàn gợi bức tranh sinh hoạt của phố huyện nghèo nàn, xơ xác, tiêu điều.

* Tâm trạng của Liên:

– Cảm nhận mùi vị quen thuộc

Tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương

Tâm hồn tinh tế, nhạy cảm, gắn bó với quê hương.

c/ Trước những kiếp người tàn:

* Những kiếp người:

– Liên và An:

+  Trước ở Hà Nội, từ khi bố mất việc, hai chị em về quê.

+ Mẹ giao trông coi một gian hàng tạp hoá  nhỏ xíu.

+ Chiều nào cũng dọn hàng, đếm hàng, tính tiền, ngồi trên cái chõng sắp gãy nhìn cảnh và người phố huyện.

+ Ngày chợ phiên mà chỉ bán được 2,5 bánh xà phòng, một cút rượu ti nhỏ

Gia cảnh khó khăn, sa sút, mức sống eo hẹp.

– Những đứa trẻ con nhà nghèocúi lom khom trên mặt đất, đi lại tìm tòi, nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre, cái gì có thể dùng được của những người bán hàng để lại đáng thương, tội nghiệp.

– Mẹ con chị Tý:

+ Ngày:  mò cua bắt tép.

+ Tối: lại dọn hàng nướcchả kiếm được bao nhiêu nhưng chiều nào chị cũng dọn hàng, từ chập tối cho đến đêm. Cuộc sống cầm cự, cầm chừng trong vô vọng.

– Cụ Thihơi điên, xuất hiện với tiếng cười khanh kháchuống một hơi cạn sạch cút rượu ti rồi lảo đảo đi vào bóng tối  tàn tạ cả  thể xác và tinh thần.

→ Bằng ngòi bút tả thực, qua các chi tiết: cử chỉ, hành động chậm chạp;  đối thoại ít, rời rạc, giọng thấp như tiếng thở dài, bao quanh họ là những đồ vật tàn,..tác giả đã khắc hoạ hình ảnh những con người nhỏ bé, từ  trẻ đến già đều  nghèo khổ, chật vật, tàn tạ. Qua đó, tác giả thể hiện niềm xót thương  đối với cuộc sống của những người dân phố huyện trước Cách mạng tháng Tám: đó là tấm lòng nhân đạo sâu sắc của tác giả.

Những đứa trẻ  tâm hồn ngây thơ trong sáng đáng lẽ phải được nuôi dưỡng, được đến trường. Nhưng ở đây chúng phải tự kiếm sống, phải sớm từ giã tuổi thơ thật tội nghiệp, đáng thương. Ta thấy ẩn sau những hình ảnh  đó là tấm lòng xót xa, đầy thương cảm của Thạch Lam

* Tâm trạng của Liên:

– Với những đứa trẻ con nhà nghèo:  động lòng thương nhưng chính chị cũng không có tiền để mà cho chúng nó.

– Với mẹ con chị Tí: Ân cần hỏi han.

– Với cụ Thi: lẳng lặng rót một cút rượu ti đầy, lòng hơi run sợ, mong cụ chóng đi.
Liên có tâm hồn nhạy cảm, nhân hậu, giàu lòng trắc ẩn, yêu thương con người – nét đẹp tâm hồn  mà nhà văn nâng niu, trân trọng

– Hình ảnh những con người hiện ra qua con mắt của Liên  như một vòng đời của phố huyện. Nếu cuộc sống không có gì thay đối thì tương lai của Liên và An sẽ ra sao? Hay chỉ là sự tàn tạ cả về thể xác và tinh thần? Vẽ ra tương quan giữa hai đứa trẻ  trên một thế giới già nua như hai mầm cây non trên một mảnh đất khô cằn bạc phếch, liệu chúng có thể  trưởng thành, khoẻ mạnh hay chúng sẽ sớm tàn tạ, héo úa! Đây chính là tấm lòng trắc ẩn mênh mông, một sắc thái riêng trong tư tưởng nhân đạo của Thạch Lam.

Trong số những con người phố huyện ấy, có lẽ Liên  là người khổ nhất. Bởi vì Liên không chỉ thiếu thốn về vật chất mà Liên còn  thiếu thốn về tinh thần. Liên rất nhạy cảm, biết buồn thương trước  cuộc sống hiện tại của mình và những người dân nơi đây.

d. Nhận xét:

+ Nghệ thuật: kết hợp yếu tố hiện thực với yếu tố lãng mạn trữ tình; câu văn xuôi  như câu thơ, khéo kết hợp các chi tiết, nghệ thuật miêu tả tâm trạng nhân vật tinh tế.

+ Nội dung: Thạch Lam đã phần nào phản ánh bức tranh hiện thực đời sống của người dân. Tác giả thể hiện một cách nhẹ nhàng mà thấm thía niềm xót thương với những kiếp người nhỏ bé, sống nghèo khổ, tàn tạ ở một  phố huyện  nhỏ trước Cách mạng tháng Tám,  trân trọng những nét đẹp tâm hồn của họ. Đó là giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc của đoạn trích.

2. Tâm trạng của Liên trước bức tranh phố huyện lúc đêm khuya:

a. Khung cảnh và con người:

* Cảnh vật:

–  Bẩu trời: Hàng ngàn ngôi sao ganh nhau… Hoa bàng khẽ rụng… Thoảng qua gió mát.  Bầu trời đẹp, êm đềm, tĩnh lặng- một đêm hạ êm như nhung.

– Mặt đất: ngập chìm trong bóng tối. Đường phố và các ngõ chứa đầy bóng tối.(…)

→ Bóng tối bao trùm tất cả, tràn ngập trong tác phẩm, tạo nên một bức tranh u tối, một không gian tù đọng, gợi cảm giác ngột ngạt.

* Nhịp sống của những người dân: 

+ Đêm về bác phở Siêu xuất hiện.

+ Trong bóng tối gia đình bác hát Sẩm kiếm ăn.

→ Lặp đi lặp lại đơn diệu, buồn tẻ với  những động tác quen thuộc, những suy nghĩ mong đợi như mọi ngày.  Họ mong đợi “một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày

b. Tâm trạng của Liên.

– Liên và An lặng lẽ ngắm các vì sao, lặng lẽ quan sát những gì diễn ra ở phố huyện và xót xa cảm thông, chia sẻ với những kiếp người nhỏ nhoi sống lay lắt trong bóng tối của cơ cực đói nghèo, tù đọng trong bóng tối của họ.

– Liên nhớ lại những tháng ngày tươi đẹp ở Hà Nội. Nỗi buồn cùng bóng tối đã tràn ngập trong đôi mắt Liên, nhưng trong tâm hồn cô bé vẫn dành chỗ cho một mong ước, một sự đợi chờ trong đêm.

– Bóng tối được miêu tả nhiều trạng thái khác nhau, có mặt suốt từ đầu đến cuối tác phẩm. Gợi cho người đọc thấy một kiếp sống bế tắc, quẩn quanh của người dân phố huyện nói riêng và nhân dân trước cách mạng tháng Tám nói chung. Đó là biểu tượng của những tâm trạng vô vọng, nỗi u hoài trong tâm thức của một kiếp người.

c. Biểu tượng ngọn đèn dầu nơi phố huyện.

– Ngọn đèn dầu được nhắc hơn 10 lần trong tác phẩm. Tất cả không đủ chiếu sáng, không đủ sức phá tan màn đêm, mà ngược lại nó càng làm cho đêm tối trở nên mênh mông hơn, càng ngợi sự tàn tạ, hắt hiu, buồn đến nao lòng.

–  Ngọn đèn dầu là biểu tượng về kiếp sống nhỏ nhoi, vô danh vô nghĩa, lay lắt. Một kiếp sống leo lét mỏi mòn trong đêm tối mênh mông của xã hội cũ, không hạnh phúc, không tương lai, cuộc sống như cát bụi. Cuộc sống ấy cứ ngày càng một đè nặng lên đôi vai mỗi con người nơi phố huyện.

3. Phố huyện lúc chuyến tàu đêm đi qua.

* Hình ảnh chuyến tàu:

– Hình ảnh con tàu lặp 10 lần trong tác phẩm.

– Chuyến tàu đêm qua phố huyện là niềm vui duy nhất trong ngày của chị em Liên.

+ Mang đến một thế giới khác: ánh sáng xa lạ, âm thanh nao nức, tiếng ồn ào của khách…khác và đối lập với nhịp điệu buồn tẻ nơi phố huyện.

+ Chuyến tàu ở Hà Nội về: trở đầy ký ức tuổi thơ của hai chị em Liên, mang theo một thứ ánh sáng duy nhất, như con thoi xuyên thủng màn đêm, dù chỉ trong chốc lát cũng đủ xua tan cái ánh sáng mờ ảo nơi phố huyện.

– Việc chờ tàu trở thành một nhu cầu như cơm ăn nước uống hàng ngày của chị em Liên. Liên chờ tàu không phải vì mục đích tầm thường là đợi khách mua hàng mà vì mục đích khác:

+ Được nhìn thấy những gì khác với cuộc đời mà hai chị em Liên đang sống.

+ Con tàu mang đến một kỷ niệm, đánh thức hồi ức về kỷ nịêm mà chị em cô đã từng được sống.

+ Giúp Liên nhìn thầy rõ hơn sự ngưng đọng tù túng của cuộc sống phủ đầy bóng tối hèn mọn, nghèo nàn  của cuộc đời mình

Liên là người giàu lòng thương yêu, hiếu thảo và đảm đang. Cô là người duy nhất trong phố huyện biết ước mơ có ý thức về cuộc sống. Cô mỏi mòn trong chờ đợi.

Ý nghĩa biểu tượng của chuyến tàu đêm:

– Hình ảnh con tàu lặp 10 lần trong tác phẩm.

+ Là biểu tượng của một thế giới thật đáng sống với sự giàu sang và sự rực rỡ ánh sáng. Nó đối lập với cuộc sống mòn mỏi, nghèo nàn, tối tăm và quẩn quanh với người dân phố huyện.

+ Qua tâm trạng của Liên tác giả muốn lay tỉnh ngững người đang buồn chán, sống quẩn quanh, lam lũ và hướng họ đến một tương lai tốt đẹp hơn. Đó là giá trị nhân bản của truyện ngắn này.

+ Đó là  biểu tượng cho một cuộc sống sôi động, nhộn nhịp, vui vẻ, hiện đại. Dù chỉ trong giây lát nó cũng đưa cả phố huyện thoát ra khỏi cuộc sống tù đọng, u ẩn, bế tắc.

– Âm thanh sôi động của đoàn tàu khuấy động sự yên tĩnh của phố huyện.

– Ánh sáng rực rỡ của đoàn tàu xua đi bóng tối mênh mông của phố huyện trong chốc lát

 Con tàu như đã đem một chút thế giới khác đi qua

III. Tổng kết.

1. Nội dung:

– Cuộc sống quẩn quanh, bế tắc của những kiếp người ngheo khổ như chị em Liên và An, của mẹ con chị Tí, của bác phở Siêu, của bà cụ Thi điên,…nơi phố huyện buồn tẻ. Cuộc sống của họ quanh đi quẩn lại cũng chỉ có bằng ấy con người, bằng ấy câu chuyện. Bóng tối bao trùm lên tất cả khiến cho chính họ cũng không biết cuộc sống, ánh sáng của họ đang ở đâu.

– Sự xót thương đối với những kiếp người nghèo đói, quẩn quanh, bế tắc. Ca ngợi khát vọng về cuộc sống mới mẻ, đủ đầy qua hành động đợi chuyến tàu đêm của những gương mặt quen thuộc nơi phố huyện. Họ chờ đợi một ánh sáng rực rỡ, ánh sáng trưng của con tàu từ Hà Nội chứ không phải là thứ ánh sáng le lói, nhạt nhòa nơi phố huyện này.

2. Nghệ thuật:

– Là một truyện ngắn trữ tình, đặc trưng cho phong cách nghệ thuật của Thạch Lam, với những câu chuyện không có cốt truyện, với những cảm xúc mong manh, mơ hồ mà bất cứ ai trong chúng ta cũng đã từng gặp, ít nhất một lần trong đời.

– Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật trong khoảng thời gian từ khi hoàng hôn buông xuống đến khi đêm về kết hợp với không gian nghệ thuật hẹp nhưng cụ thể. Nổi bật là những dòng tâm trạng chảy trôi, những cảm xúc, cảm giác mong manh, mơ hồ trong tâm hồn nhân vật.

Bút pháp tương phản, đối lập.

– Ngôn ngữ đơn giản, súc tính, giàu tính tạo hình.

– Ngôn ngữ giàu hình ảnh, tượng trưng.

– Giọng điệu thủ thỉ, thấm đượm chất thơ, chất trữ tình sâu sắc.


Tham khảo:

Phân tích truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam.

  • Mở bài:

Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” tiêu biểu cho truyện ngắn Thạch Lam, được in trong tập “Nắng trong vườn”. Hai đứa trẻ như một bài thơ êm dịu về quê hương trong kí ức tuổi thơ. Tác phẩm là lời cảnh tỉnh của nhà văn đối với kiếp người sống quẩn quanh, đơn điệu, mòn mỏi. Niềm trân trọng đối với từng điều mong ước nhỏ nhoi, khiêm nhường nhất của con người bất hạnh bị “bỏ quên” nơi ga xép của những chuyến tàu thời gian,… Tuy vậy cảm hứng bao trùm “Hai đứa trẻ” vẫn là niềm cảm thương chân thành của nhà văn đối với cuộc sống chìm khuất, mỏi mòn, quẩn quanh của những con người nhỏ nhoi nơi phố huyện bình lặng, tối tăm, cùng những điều mong ước khiêm nhường mà thiết tha của họ.

  • Thân bài:

Bối cảnh câu chuyện là một phố huyện nghèo xơ xác, có đường tàu đi qua, một ga xép, một cái chợ nhỏ bé nằm giữa thôn xóm và cánh đồng. Thời gian là một buổi chiều muộn và cảnh đầu hôm cho đến lúc chuyến tàu chạy qua. Có hai đứa trẻ ngồi trong một ngôi hàng xén nhỏ nhoi ngồi ngắm nhìn cảnh vật và cố thức đợi chuyến tàu đi qua.

1. Cảnh phố huyện lúc chiều tà:

* Bức tranh quê bình dị, êm đềm:

Chuyện mở ra một thời điểm phố huyện lúc chiều xuống. Tiếng là phố huyện nhưng chỉ là một thị trấn nhỏ bé, nghèo nàn, xơ xác. Cảnh một chiều hè muộn ở đồng quê được tác giả miêu tả: “Phương tây đỏ rực như lửa cháy,.. một buổi chiều êm ả như ru”, có tiếng trống thu không, tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng. Màn đêm dần buông xuống, tiếng muỗi kêu vo ve trong các cửa hàng hơi tối. Chỉ qua vài chi tiết miêu tả, bức tranh quê hiện lên dưới ngòi bút tinh tế của Thạch Lam trở nên gần gũi, thân thiết, bình dị mà nên thơ.

– Bức tranh đời sống phố huyện nghèo: được quan sát, cảm nhận qua tâm hồn ngây thơ, nhạy cảm của hai đứa trẻ: Hai chị em Liên và An. Trời nhá nhem tối, các nhà đã lên đèn “Đèn trong nhà bác phở Mỹ, đèn Hoa kì leo lét trong nhà ông Cửu, và đèn dây sáng xanh trong hiệu khách…”. Cát trên phố “lấp lánh từng chỗ”, đường mấp mô thêm.

– Chợ đã vãn từ lâu, không một tiếng ồn ào, vỏ thị, vở bưởi, lá nhãn, bã mía và rác rưởi còn lại trên đất. Vài người bán hàng về muộn đang thu xếp hàng hóa. Mấy đứa trẻ con nhà nghèo ven chợ lom khom đi lại tìm tòi “nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre hay bất cứ cái gì có thể dùng được của người bán hàng để lại”. Chúng đi lại chập chờn như những linh hồn bơ vơ.

Cái nghèo là cảnh đời chung của mọi người và mọi nhà và cái mùi ẩm ẩm bốc lên, mùi cát bụi lẫn hơi nóng mà Liên tưởng là mùi riêng của đất quê hương. Đó chính là cái mùi vị của lầm than và nghèo khổ.

* Tâm trạng của Liên trước buổi chiều tàn:

Bức tranh lúc chiều muộn thật êm ả nhưng thấm đượm một nỗi buồn trong tâm hồn của cô bé Liên: “Liên ngồi yên lặng bên mấy quả thuốc sơn đen; đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của chị; Liên không hiểu sao, nhưng chị thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn.” Viết là “không hiểu sao” nhưng thực ra Thạch Lam đã đem cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn để giải thích cho cái cảm tưởng, cảm giác “thấy buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn” của nhân vật này. Chỗ tinh vi của Thạch Lam đã miêu tả cảnh phố huyện lúc chiều muộn, mọi hình ảnh đều gợi cảm giác buồn bâng khuâng man mác phù hợp với tâm trạng của Liên.

Tuy nhiên bên cạnh đó, điều thú vị hơn là trong bức tranh chiều muộn nơi phố huyện hình như có sự trộn lẫn giữa hai loại chi tiết, hình ảnh, hình ảnh êm đềm thi vị và hình ảnh gợi cảm giác nghèo khó, lam lũ, sa sút. Chẳng hạn “tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ; từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều” là thơ một, còn “tiếng ếch nhái kêu vang, tiếng muỗi vo ve” thì hình như đã gợi cái lam lũ; “Chiều, chiều rồi. Một buổi chiều mùa hạ êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái” hay mùi quen thuộc của đất đai, mùi vị của quê hương là thi vị nhưng đến hình ảnh mặt trời tàn, cái chõng tre nát, phiên chợ vãn, những đứa trẻ con nhà nghèo lom khom nhặt nhạnh các thứ của những người bán hàng để lại trên bãi chợ thì lại là những chi tiết, hình ảnh ngợi cái buồn của buổi chiều quê “thấm thía vào tâm hồn”, nhất là một tâm hồn ngây thơ như “hai đứa trẻ”.

2. Cảnh phố huyện lúc về đêm:

* Sự đối lập giữa bóng tối và ánh sáng:

– Bóng tối phủ đầy thiên truyện, phủ mờ cảnh vật và đè nặng lên cuộc đời của những con người bé nhỏ nơi phố huyện nghèo xác xơ. Cửa hàng bé xíu phên nứa dán giấy nhật trình, chiếc chõng tre nơi chị em Liên ngồi ngập đầy bóng tối. Càng về đêm, “đường phố và các ngõ con dần dần chứa đầy bóng tối”. Con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà lại sẫm đen hơn nữa. Tiếng trống cầm canh, tiếng ếch nhái kêu ran từ đồng xa vọng đến, tiếng đòn gánh kĩu kịt,…tất cả đều chìm vào trong bóng tối.

– Phố huyện càng về đêm càng tĩnh mịch và đầy bóng tối. Trong bức tranh phố huyện lúc về đêm có một sự hòa trộ đầy dụng ý: ánh sáng trộn vào bóng tối, hay ngược lại bóng tối trộn vào ánh sáng. Không gian phố huyện có nhiều quầng sáng nhưng cũng nhiều khoảng tối, đến những hòn đá trên đường vào làng cũng “mấp mô thêm vì những hò đá nhỏ một bên sáng, một bên tối”.

– Nhưng ánh sáng ấy chỉ le lói, chỉ là những “khe sáng”, “chấm sáng”, “hột sáng”,…mà bóng tối đêm vừa mênh mông, hiu quạnh, vừa dày đặc “tối hết cả con đường ra sông, con đường về nhà…”. Điều này gợi một nỗi buồn đầy cảm thương, một nhận thức, dù còn rất mơ hồ về những kiếp người chìm khuất, le lói, những thân phận như bị bỏ quên nơi ga xép nhỏ phố huyện.

Đọc thêm: Sự đối lập giữa bóng tối và ánh sáng trong truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam.

* Những con người, mảnh đời lầm lũi đáng thương trong bóng tối:

+ Cuộc đời mẹ con chị Tý như gắn liền với màn đêm và bóng tối. “Thằng cu bé xách điếu đóm và khiêng cái ghế trên lưng ở trong ngõ đi ra”. Mẹ của nó, chị Tý đi theo sau đội cái chõng trên đầu và tay mang không biết bao nhiêu là đồ đạc. Ngày thì đi mò cua bắt tép, chiều nào cũng dọn hàng từ chập tối cho đến đêm mà “ chả kiếm được bao nhiêu”

+ Hình ảnh bà cụ Thi hơi điên “tiếng cười khanh khách” tay cầm cút rượu soi lên rồi cười giòn giã, “vừa đi vừa ngửa ra đằng sau” dốc cút rượu đánh một hơi cạn sạch, chép miệng, lảo đảo trong bóng tối,…gợi cho ta nhiều thương xót về một cuộc đời xế bóng nơi phố huyện nghèo.

+ Cảnh gia đình bác Xẩm mới thê lương. Tiếng đàn bầu bần bật. Vợ chồng ngồi trên manh chiếu rách, trước mặt là cái chậu thau sắt, thằng con bò la lê ra đất, “nghịch nhặt nhặn những rác bẩn vùi trong cát bên đường”. Và Bác Siêu bán phở rong trong đêm, một thứ quà xa xỉ mà chị em Liên không bao giờ mua được. Đòn gánh bác kêu kĩu kịt, bóng bác mênh mang ngả xuống một vùng đất,…góp phần vào làm cho cảnh đời nơi phố huyện càng trở nên cơ cực, tiêu điều.

+ Hai chị em Liên là hình ảnh trung tâm của bức tranh đời sống phố huyện nghèo. Cảnh nhà sa sút, bố Liên mất việc, cả nhà bỏ Hà Nội về quê, mẹ làm hàng sáo. Hai chị em được mẹ cho trông coi một cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu, vách gián giấy nhật trình, bán lèo tèo vài bao diêm, dăm miếng xà phòng, một ít rượu.

Cảnh phố huyện nghèo thật thảm đạm, thê lương với những cảnh đời cơ cực, tăm tối. Nhìn cảnh phố huyện, tâm trạng Liên khắc khoải, chờ mong một cái điều gì tốt đẹp, tươi sáng hơn cuộc sống nghèo khổ thường ngày.

3. Cảnh phố huyện lúc về khuya:

– Khi đoàn tàu đi qua phố huyện nghèo rực sáng bởi những “ngọn lửa xanh biếc, sát mặt đất như ma trơi,… các toa đèn sáng trưng”. Chuyến tàu như đem một chút thế giới khác đi qua, không khí nơi phố huyện trở nên ồn ào, náo nhiệt, “những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh, và các cửa kính sang trọng”. Khi chuyến tàu đi qua, đêm càng trở nên yên tĩnh mênh mông. Chỉ còn đêm khuya, tiếng trống cầm canh và tiếng chó cắn.

– Cuộc sống con người: Cuộc sống của một ngày tàn dần: Chị tý sửa soạn đồ đạc, Bác Xẩm đã ngủ gục trên manh chiếu. Liên chìm dần vào giấc ngủ yên tĩnh.

* Tâm trạng của Liên khi chuyến tàu chạy qua:

Khi đoàn tàu đến, Liên bị cuốn hút ngay vào đoàn tàu: “Liên dắt em đứng dậy để nhìn đoàn xe vụt qua, các toa xe sáng trưng, chiếu ánh cả xuống đường. Liên chỉ thoáng thấy những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh, và các cửa kính sang trọng”. Đoàn tàu đã đi qua nhưng tâm hồn Liên thì vẫn gửi hút theo nó mãi đến khi chấm nhỏ của chiếc đèn xanh treo trên các toa sau cùng, xa xa mãi rôi khuất sau rặng tre. Đến lúc ấy cô như sống trong mơ tưởng, trong sự tiếc nuối một cái gì đã qua nhưng dư vang của nó thì vẫn còn đọng lại rõ rệt trong tâm hồn mình: “Liên lặng theo mơ tưởng, Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực, vui vẻ và huyên náo.

Con tàu như đã đem một chút thế giới khác đi qua. Một thế giới khác hẳn, đối với Liên, khác hẳn cái vầng sáng ngọn đèn của chị Tý và ánh lửa của bác Siêu. Vì vậy mà ngày nào cũng vậy chị em Liên cố thức để đợi chuyến tàu đi qua rồi mới ngủ. Đây chính là niềm khao khát, mơ ước một chút gì tươi sáng cho cuộc sống của những con người nhỏ bé nơi phố huyện.

Bức tranh phố huyện nghèo được nhà văn miêu tả theo trình tự thời gian: phố huyện lúc chiều xuống; phố huyện lúc về đêm; phố huyện khi đoàn tàu đi qua. Tương ứng với mỗi cảnh là một sắc thái cảm xúc, tâm trạng của Liên: buồn man mác, mơ hồ, khó hiểu trước bức tranh cuộc sống nghèo của phố huyện lúc chiều muộn; buồn khắc khoải chờ mong một cái gì tốt đẹp, tươi sáng; buồn thấm thía, sâu xa về một cuộc sống quẩn quanh, không thể đổi thay và mọi cái tươi sáng, tốt đẹp chỉ là khát vọng xa xôi.

  • Kết bài:

Thạch Lam đã miêu tả bức tranh phố huyện nghèo bằng những cảnh, những người, những chi tiết rất chân thật và cảm động. Ông đã dành cho con người, quê hương, những con người nghèo khổ, tăm tối một sự cảm thông và xót thương nồng hậu. Cảnh phố huyện nghèo vựa chân thực vừa chan chứa tinh thần nhân đạo.

Phân tích truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang