Chất trữ tình và đặc điểm của tác phẩm trữ tình.
Khái niệm chất trữ tình được hiểu theo hai nghĩa:
+ Thứ nhất, trữ tình là một trong ba phương thức miêu tả trong văn học.
+ Thứ hai, trữ tình là một loại văn học bên cạnh các loại tự sự, kịch.
Ở nghĩa thứ nhất, khái niệm trữ tình để chỉ phương thức miêu tả của văn học, đó là phương thức thiên về diễn tả, bộc lộ cảm xúc. Nguyên nghĩa từ Hán Việt “trữ tình” cũng có ý nghĩa như vậy: “trữ” là thổ lộ; “tình” là tình cảm, cảm xúc. Phương thức này chủ yếu được dùng trong các tác phẩm trữ tình như thơ trữ tình, kí trữ tình v.v. Tuy nhiên, ở một số đoạn trong các tác phẩm tự sự hay tác phẩm kịch cũng có thể sử dụng theo phương thức này. Chẳng hạn, đoạn miêu tả cảnh buổi sáng Chí Phèo tỉnh rượu, hay đoạn “Đêm trăng thề hẹn” trong bi kịch Romeo và Juliet đều là những đoạn rất trữ tình. Do vậy, đôi khi người ta dùng cách nói như “chất trữ tình”, “tính trữ tình” là để diễn tả đặc điểm này.
Ở nghĩa thứ hai, khái niệm trữ tình để chỉ một loại tác phẩm văn học mà ở những tác phẩm này chủ yếu dùng phương thức trữ tình để miêu tả, các tác phẩm loại này được gọi là tác phẩm trữ tình. Chẳng hạn như bài thơ “Núi đôi” của Vũ Cao, “Lá diêu bông” của Hoàng Cầm, tùy bút “Sông Đà” của Nguyễn Tuân đều được gọi là tác phẩm trữ tình.
Phạm vi các tác phẩm trữ tình rất phong phú. Có tác phẩm trữ tình viết bằng văn xuôi, có tác phẩm trữ tình viết bằng văn vần, có tác phẩm thuộc loại kí, có tác phẩm thuộc loại thơ. Tuy vậy, có thể chia thành ba nhóm chính là thơ trữ tình, kí trữ tình, các thể văn chính luận nghệ thuật.
– Thơ trữ tình chiếm bộ phận lớn nhất trong loại tác phẩm trữ tình. Trong thơ trữ tình lại có thể chia ra nhiều thể loại khác nhau. Căn cứ vào đặc điểm và tính chất của cảm xúc người ta chia thể thơ trữ tình thành các thể loại như bi ca, tụng ca, trào phúng, ballade…
+ Bi ca là những bài thơ u sầu, buồn bã. Đó là những bài thơ viết về nỗi buồn, về nỗi đau, những mất mát, xót thương. Nhưng không phải mọi nỗi buồn đều thành bi ca mà chỉ những buồn đau đã được nâng lên thành triết lí, thành quan niệm nghệ thuật. Nhiều bài thơ nổi tiếng của V.Jucovsky, Nekrsov, S. Esenin đều viết theo thể bi ca. Ở ta có thể xem nhiều bài thơ viết về “nỗi buồn thế hệ”, về nỗi sầu hận trong thơ Huy Cận, Lưu Trọng Lư thời kì Thơ mới 1932 – 1945 là những bi ca.
+ Tụng ca là những bài thơ trữ tình dành để ca ngợi những hành động anh hùng, những chiến công hiển hách, những cảnh tượng hùng vó của thiên nhiên. Đặc điểm của tụng ca là sự trang trọng, sự thống thiết trong cảm xúc cũng như trong biện pháp thể hiện. Tụng ca hướng đến những cảm hứng cao cả. Cho nên trong Nghệ thuật thơ ca D.N. Boileau đã xem tụng ca cùng với bi kịch là những “thể loại cao cả”. P. Ronsard, Lomonosov, A. Pushkin thời trẻ, G. Byron, Maiacovsky đều để lại nhiều tụng ca nổi tiếng. Các bài thơ viết về đất nước, dân tộc, về cuộc chiến đấu anh dũng nhân dân ta trong thơ ca sau cách mạng tháng Tám đều có thể xem là những bài tụng ca.
+ Trào phúng là một dạng đặc biệt của trữ tình. Với một chất giọng trào lộng, châm biếm, trào phúng phê phán đả kích những cái xấu, cái ác, những thói hư tật xấu của con người và xã hội. Những bài thơ của Tú Mỡ trong tập “Dòng nước ngược”, hay một số bài thơ châm biếm của Tú Xương đều được xem là những bài thơ trào phúng.
Ngoài ra ở phương Tây người ta thường nhắc đến thể trữ tình khá phổ biến là ballade. Thoạt đầu đây là loại tác phẩm có cốt truyện phi thường, về sau biến thành một bài thơ một vần ba đoạn. So với nhiều thể loại trữ tình khác, ballade là thể có nhiều yếu tố của tự sự, cho nên nhiều sách lí luận đã xếp nó vào loại tự sự – trữ tình. Tuy nhiên ở đây nói như Bielinsky trong ballade “cái chủ yếu không phải là sự kiện mà cảm giác do nó gợi ra, là suy nghó mà nó dẫn người đọc tới”. Do vậy ballade vẫn được xếp vào loại tác phẩm trữ tình.
Dựa vào nội dung thể loại có thể chia thơ trữ tình ra các thể loại: trữ tình tâm tình, trữ tình phong cảnh, trữ tình thế sự, trữ tình công dân.
+ Trữ tình tâm tình: là những bài thơ nghiêng về tâm tình, tình cảm con người trong các quan hệ riêng tư của đời sống tình cảm như tình yêu lứa đôi, tình cảm vợ chồng, cha mẹ con cái, anh em, bè bạn. Những bài ca dao viết về tình yêu dang dở, hay than thân, trách phận, những bài thơ tình là thuộc thể loại này.
+ Trữ tình phong cảnh: là những bài thơ viết về thiên nhiên, cảnh sắc làng quê, đất nước, núi non, sông biển. Ở đây thông qua thế giới thiên nhiên huyền diệu nhà thơ bộc bạch nỗi niềm tâm sự của mình trước con người và cuộc đời. Mỗi áng mây trời, một lũy tre xanh, một cánh cò bay, một chiều thu, một sáng xuân đều đọng lại những trầm tư trữ tình của thi nhân.
+ Trữ tình thế sự: là những bài thơ viết về thế thái, nhân tình. Đấy là những suy tư, chiêm nghiệm về những biến đổi, thăng trầm của thế sự. Những thời kì xã hội biến động thì xuất hiện loại trữ tình thế sự. Nhiều bài thơ của Nguyễn Trải, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Khuyến đầy những ưu tư về con người, về thời thế. Đó là những bài thơ trữ tình thế sự sâu sắc.
+ Trữ tình công dân: là những bài thơ mà cảm hứng của nhà thơ bộc lộ với tư cách là một công dân của đất nước. Những bài thơ trữ tình công dân thường bắt nguồn từ những suy tư về Tổ quốc, là nỗi thiết tha về con người, đất đai Tổ quốc, là khát vọng xây dựng đất nước hòa bình, tươi đẹp. Trong những thời kì dân tộc chống xâm lược hay đứng trước những thử thách trọng đại thì thể trữ tình này phát triển mạnh. Thơ ca Việt Nam từ xưa đến nay cảm hứng công dân trở thành nét chủ đạo và nỗi bật.
Sự phân chia thơ trữ tình thành các loại thể như trên là rất tương đối. Trong thực tế không phải ranh giới của các thể loại không phải bao giờ cũng rạch ròi như vậy. Trong trữ tình tâm tình cũng có trữ tình thế sự, trong trữ tình công dân cũng có suy nghó riêng tư hay cảm xúc về thế sự. Sự phân loại trên chỉ là một cách nhìn chú ý nét ưu trội của kiểu trữ tình nào đó trong những tác phẩm cụ thể. Dựa vào đặc điểm loại hình này để cảm thụ và phân tích tác phẩm đúng đắn hơn.
– Kí trữ tình: có các thể như tùy bút, bút kí,…
+ Tùy bút: là thể văn xuôi giàu chất trữ tình nhất trong các thể kí và văn xuôi nói chung. Ở thể loại này nhà văn tùy theo cảm xúc mà đi từ sự việc này đến sự việc kia, từ liên tưởng này đến liên tưởng khác. Qua đó nhà văn bộc lộ cảm xúc, nhận xét, tâm tình về con người, về cuộc đời. Giá trị của tùy bút là ở những suy nghó sâu sắc, thâm thúy trên cơ sở cảm xúc dào dạt được rút ra từ những việc, những chuyện tưởng như bình thường, đơn giản. Những tùy bút như “Sông Đà” của Nguyễn Tuân, “Đường chúng ta đi” của Nguyễn Trung Thành, “Dòng kính quê hương” của Nguyễn Thi là những cây bút đặc sắc.
+ Bút kí: là một thể trung gian giữa tự sự và trữ tình, nhưng nghiêng về trữ tình nhiều hơn. Trong bút kí có sự kiện nhưng không dày đặc như phóng sự, kí sự. Trong bút kí tràn trề cảm xúc, suy tư, liên tưởng, nhưng không dạt dào, phóng túng như tùy bút. Sự hài hòa giữa sự kiện và cảm xúc làm cho tùy bút có dáng vẻ độc đáo riêng trong các thể loại loại kí. Nhiều bút kí trong “Ai đã đặt tên cho dòng sông” của Hoàng Phủ Ngọc Tường, “Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi” của Nguyễn Tuân, “Bức thư Cà Mau” của Anh Đức là những bút kí đặc sắc.
Ngoài ra các tác phẩm chính luận nghệ thuật cũng được nhiều người xem là tác phẩm trữ tình. Một trong những đặc điểm cơ bản của tác phẩm trữ tình là bộc lộ cảm xúc mãnh liệt, thì ở tác phẩm chính luận cũng bộc lộ cảm xúc, nhiệt tình khẳng đònh, bảo vệ hay phủ đònh, bác bỏ một số vấn đề gì đó. Cho nên, tác phẩm chính luận cũng có khả năng trở thành tác phẩm trữ tình.
Dĩ nhiên, không phải mọi tác phẩm chính luận đều trữ tình, mà chỉ ở những tác phẩm đạt đến một trình độ thẩm mĩ nhất định, có tính nghệ thuật nhất định. Có thể kể đến những tác phẩm loại này như những bài diễn văn hùng hồn của Demosthene thời cổ Hi Lạp, những bài văn hừng hực khí thế chiến đấu của các nhà cách mạng tư sản Pháp như J. Marat, G. Danton, S. Just Những tác phẩm như “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn, “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trải, “Luận về chánh học” cũng là thuyết của Ngô Đức Kế, “Tuyên ngôn độc lập” của Hồ Chí Minh hay “Tạp văn” của Lỗ Tấn, tiểu phẩm của Ngô Tất Tố đều được xem là những tác phẩm chính luận nghệ thuật có giá trị.
So với các tác phẩm tự sự và tác phẩm kịch, tác phẩm trữ tình có những đặc điểm riêng. Đặc điểm nổi bật nhất của tác phẩm trữ tình là bộc lộ cảm xúc một cách trực tiếp. Nếu ở tác phẩm tự sự tác giả chú ý hướng về miêu tả sự kiện, ở tác phẩm kịch hướng về hành động thì trữ tình hướng về bộc lộ cảm xúc, tình cảm. Đó có thể là những nỗi niềm riêng tư về hạnh phúc lứa đôi, về tình yêu tan vỡ, niềm vui gặp gỡ, nỗi buồn chia li. Đó cũng có thể là những cảm xúc, những suy tư về nhân tình thế thái, về số phận con người, thăng trầm của xã hội, những cảm xúc về Tổ quốc, đất nước, dân tộc v.v.
Trữ tình là bộc lộ cảm xúc, nhưng đó là những cảm xúc được bộc lộ qua những sự việc, những biến cố nhất định. Do vậy trong tác phẩm trữ tình không phải không miêu tả các sự kiện. Tuy nhiên các sự kiện này thường chỉ được thuật lại, kể lại một cách chi tiết như trong tự sự.
Trong tác phẩm trữ tình có thể có một câu chuyện tình, một lần gặp gỡ, một buổi chia li hay một sự kiện vui buồn nào đó, nhưng người đọc cảm nhận được cảm xúc từ câu chuyện, sự kiện đó nhiều hơn là bản thân câu chuyện đã xảy ra như thế nào. Câu thơ của Nguyễn Bính trong bài Chân quê: “Hôm qua em đi tỉnh về / Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều” gợi cho người đọc nỗi lo âu phập phồng của chàng trai đang yêu là chính. Còn cái sự kiện “đi tỉnh” chỉ là duyên cớ của nỗi lo âu phập phồng kia mà thôi. “Núi đôi” của Vũ Cao là câu chuyện tình yêu có khởi đầu và kết thúc, nhưng tác giả không chú ý kể một cách đầy đủ, mà chủ yếu là nhắc đến để mà nhớ lại, mà bồi hồi, mà đau xót, mà nguyện sống xứng đáng với người đã mất. “Sông Lấp” của Tú Xương có nói đến dòng sông đã bò lấp, nhưng chủ yếu vẫn là nỗi niềm của tác giả về non sông đất nước.
Nói tới cảm xúc là nói tới những gì riêng tư cá nhân. Cảm xúc trong tác phẩm trữ tình trước khi muốn trở thành nỗi niềm chung của nhiều người thì phải là nhịp đập của trái tim thi sĩ đã. Chính bắt đầu từ những nỗi niềm riêng tư tiếng vọng của tâm hồn có thể được vọng đi xa hơn vì nó không chỉ la văn chương mà là “gan ruột”, là “tình người” (chữ dùng theo ý Tố Hữu). Người đọc có thể san sẻ, đồng cảm, thông cảm và cùng rung động với tác giả.
Trong lịch sử văn học nhân loại biết bao thông cảm và cùng rung động với tác giả. Trong lịch sử văn học nhân loại biết bao nhiêu chuyện riêng tư đã trở thành nỗi niềm chung cho nhiều người, nhiều thế hệ. Nỗi sầu hận của Nguyễn Trãi, tiếng thơ dứt lòng của Nguyễn Du, nỗi cảm hoài của Đặng Dung, nỗi buồn thế sự của Nguyễn Bỉnh Khiêm, “tiếng cười gần như mảnh vỡ thủy tinh” của Tú Xương vẫn còn nhói lòng bao bạn đọc hôm nay và mai sau.
Tóm lại, bộc lộ cảm xúc một cách trực tiếp là phương thức phản ánh của loại tác phẩm trữ tình. Căn cứ vào đặc điểm này, sẽ nhận diện ra các tác phẩm trữ tình nói chung trong quan hệ với các loại tác phẩm văn học khác. Trong tác phẩm trữ tình, người đứng ra bộc lộ cảm xúc gọi là nhân vật trữ tình (có người gọi là chủ thể trữ tình). Nhân vật trữ tình chính là hiện thân của tác giả. Qua tác phẩm người đọc nhận ra niềm vui, nỗi buồn, khát vọng, lí tưởng tác giả được ẩn chứa nơi cảm xúc, cái nhìn của nhân vật trữ tình. Tuy nhiên không thể đồng nhất tác giả tiểu sử với nhân vật trữ tình. Nhân vật trữ tình là một hình tượng nghệ thuật do tác giả sáng tạo ra. Còn tác giả lại là con người có thực trong đời. Cùng một tác giả, do vậy có thể có nhiều nhân vật trữ tình khác nhau. Với Xuân Diệu chẳng hạn nhân vật trữ tình trong bài Biển là “anh” : “Anh không xứng là biển xanh” , trong bài Lời kĩ nữ lại là em: “Khách ở lại cùng em thêm chút nữa”, còn trong bài Thở than lại là “tôi”: “Tôi là một kẻ bơ vơ, yêu những ái tình quạnh quẽ” v.v
Nhân vật trữ tình thường không được miêu tả diện mạo, hoạt động, lời nói, các quan hệ cụ thể như trong tác phẩm tự sự và kịch. Nhân vật trữ tình thường chỉ hiện ra dưới dạng “phiến đoạn”, nghĩa là không được miêu tả một cách trọn vẹn mà chỉ hiện ra ở những phút giây rung cảm của các trạng thái cảm xúc. Nhân vật trữ tình thường được thể hiện dưới nhiều dạng khác nhau. Có khi nhân vật trữ tình xuất hiện dưới dạng bộc lộ, có xưng danh. Đó thường là “anh”, “em”, “tôi”, “chúng tôi”, “ta”. Chẳng hạn như “Lũ chúng tôi ngủ trong giường chiếu hẹp” (Chế Lan Viên), “Em ơi buồn làm chi, Anh đưa em về bên kia Sông Đuống” (Hoàng Cầm) v.v. Dạng này chủ yếu xuất hiện trong thơ hiện đại, ca dao. Trong thơ cổ dạng này ít xuất hiện, chỉ có trong một số bài thơ của Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Tú Xương Cũng có khi nhân vật trữ tình xuất hiện dưới dạng “nhập vai”. Trong trường hợp này nhân vật trữ tình không còn đứng ở “vai” tác giả nữa, mà “nhập vai” ai đó để bộc lộ cảm xúc. Chẳng hạn Xuân Diệu nhập vai “kĩ nữ” trong bài Lời kĩ nữ, Tố Hữu nhập vai “anh vệ quốc quân” trong bài “Bầm ơi” v.v .
Nhân vật trữ tình có khi không bộc lộ, không xưng danh nhưng người đọc vẫn nhận ra. Trong trường hợp này gọi là nhân vật trữ tình ẩn. Dạng này xuất hiện nhiều trong thơ cổ. Chẳng hạn đó là “ông câu” trong “Thu điếu” của Nguyễn Khuyến, người lữ khách trong “Qua đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan, một người lính bao lần mài gươm dưới ánh trăng qua “Thuật hoài” của Đặng Dung Trong thơ hiện đại ở nhiều bài thơ cũng có nhân vật trữ tình ẩn như trong “Tràng giang” của Huy Cận, “Hồn cúc” của Hàn Mặc Tử v.v.
Tác phẩm trữ tình thường ngắn gọn. Trong tác phẩm trữ tình như Selin đã nhận xét là “chỉ nổi lên một âm sắc, một tình cảm cơ bản”, do vậy không thể kéo dài mà buộc phải ngắn gọn. Tác phẩm trữ tình chỉ bộc lộ những trạng thái kéo dài mà buộc phải ngắn gọn. Tác phẩm trữ tình chỉ bộc lộ những trạng thái cảm xúc nhất định, nếu kéo dài sẽ tạo nên sự đơn điệu và nhàm chán. Do ngắn gọn, nên tác phẩm trữ tình đòi hỏi sự cô đọng, sự dồn nén ý nghĩa trong những câu chữ ít ỏi.
Ở loại tác phẩm này từ câu, chữ, âm thanh, vần điệu cho đến việc ngắt hơi, đổi nhịp đều phải trở thành những phương tiện bộc lộ tư tưởng một cách sâu sắc. Do vậy yêu cầu “ý tại ngôn ngoại” là một yêu cầu tất yếu của loại tác phẩm này. Có khi chỉ một ngọn cỏ, một nhành hoa, một ánh nắng, một áng mây, một tiếng chim hót, một tiếng thở dài cũng có thể gợi lên bao suy tư về con người, về cuộc sống, về vũ trụ. Câu thơ của Nguyễn Trãi: “Thế sự nhiều phen thấy khóc cười / Hoa thường hay héo cỏ thường tươi” là sự đọng lại của một đời người nghiền ngẫm, suy tư về thế sự mấy trăm năm trước. Hay câu ca dao “Gió đưa cây cải về trời / Rau răm ở lại chịu lời đắng cay” gợi lên bao nhiêu ý nghĩa về cuộc sống: sự sống, cái chết, cái được, cái mất v.v Lời văn của tác phẩm trữ tình là lời văn của cảm xúc nên tràn đầy tính biểu cảm. Đó là lời văn đầy hình ảnh, đầy nhạc điệu, nhất là trong thơ trữ tình.
Không phải ngẫu nhiên mà nhiều người xem nhạc điệu như một đặc trưng của thơ cũng như của tác phẩm trữ tình, nhưng tác phẩm trữ tình thường viết bằng thơ, vì với hình thức này để tạo nhịp điệu hơn cả. Ngay cả những tác phẩm trữ tình bằng văn xuôi thì cũng là thứ văn xuôi giàu chất thơ. Lời văn của tác phẩm trữ tình thường là lời bộc lộ. Chủ thể thường trực tiếp đánh giá, phẩm bình đối tượng miêu tả, trực tiếp bộc lộ cảm xúc hoặc là ngợi ca khâm phục, hoặc là đả phá, phủ định. Khác với lời văn tự sự, thường là miêu tả, “thuật” lại, chỉ ra, phân tích các đặc tính một cách khách quan. Khi Hồ Xuân Hương viết: “Chém cha cái kiếp lấy chồng chung / Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng” hay khi Nguyễn Bỉnh Khiêm tâm sự : “Đã từng trải sơn hà hết / Đường thế nhiều nơi hiểm hóc thay” đều bộc lộ cảm xúc, suy tư đánh giá một cách trực tiếp những thế sự trong cuộc đời.
Những đặc điểm nêu trên làm cho tác phẩm trữ tình có đặc trưng riêng, phong thái riêng so với các loại tác phẩm khác. Trong những loại thể cụ thể của tác phẩm trữ tình lại có những “biến tấu” cho phù hợp với các loại thể đó.