»» Nội dung bài viết:
Nghị luận về một ý kiến bàn về văn học
1. Tìm hiểu đề và lập dàn ý.
Đề bài:
Đề 1. Nhà nghiên cứu Đặng Thai Mai cho rằng: “Nhìn chung văn học Việt Nam phong phú, đa dạng; nhưng nếu cần xác định một chủ lưu, một dòng chính, quán thông kim cổ, thì đó là văn học yêu nước (Dẫn theo Trần Văn Giàu tuyển tập, NXB Giáo dục, 2001)
Hãy trình bày suy nghĩ của anh (chị) đối với ý kiến trên.
Đề 2. Bàn về đọc sách, nhất là đọc các tác phẩm văn học lớn, người xưa nói: “Tuổi trẻ đọc sách như nhìn trăng qua cái kẽ, lớn tuổi đọc sách như ngắm trăng ngoài sân, tuổi già đọc sách như thưởng trăng trên đài.” (Dẫn theo Lâm Ngữ Đường, Sống đẹp, Nguyễn Hiến Lê dịch, NXB Tao đàn, Sài Gòn, 1965) Anh (chị) hiểu ý kiến trên như thế nào?
Gợi ý thảo luận.
Đề 1
a) tìm hiểu đề
– Để hiểu đúng đề, anh (chị) hãy làm rõ nghĩa các từ, cụm từ: phong phú, đa dạng, chủ lưu, quán thông kim cổ.
– Bài viết cần làm rõ nhận đinh: Văn học yêu nước là chủ lưu trong sự đa dạng, phong phú của văn học Việt Nam.
b) Lập dàn ý
Mở bài: Giới thiệu ý kiến của Đặng Thai Mai.
Thân bài:
– Văn học Việt Nam rất phong phú và đa dạng.
– Văn học yêu nước là chủ lưu xuyên suất lịch sử văn học Việt Nam.
– Lí giải nguyên nhân khiến văn học yêu nước trở thành chủ lưu xuyên suốt lịch sử văn học Việt Nam.
Kết bài: Nhận định của anh (chi) về ý kiến của Đặng Thai Mai và giá trị hiện nay của ý kiến đó.
Đề 2
a) tìm hiểu đề
– Làm rõ hàm ý của ba hình ảnh so sánh trong ý kiến Lâm Ngữ Đường đã nêu.
– Tìm hiểu những khía cạnh đúng đắn trong ý kiến đó và những điều cần bổ sung, mở rộng để có một quan niệm toàn diện và sâu sắc về việc đọc sách.
b) Lập dàn ý
Mở bài:
– Đọc sách, tiếp nhận các giá trị của sách, đặc biệt là các tác phẩm văn học, luôn gắn liền với điều kiện và năng lực chủ quan của người đọc.
– Dẫn ý kiến Lâm Ngữ Đường đã nêu.
Thân bài:
Giải thích hàm ý của ba hình ảnh so sánh và ý hến Lâm Ngữ Đường đã nêu: Sự khác nhau trong cách đọc và kết quả đọc ở mỗi lứa tuổi.
Bình luận và chứng minh những khía cạnh đúng đắn trong ý kiến Lâm Ngữ Đường đã nêu: Đọc sách tuỳ thuộc vào tầm lĩnh hội của mỗi người đọc (vốn sống, vốn văn hoá, kinh nghiệm,…).
– Muốn có kết quả tốt trong việc đọc sách, cần trang bị cho mình sự hiểu biết về nhiều mặt. Bên cạnh đó. đọc sách cần suy ngẫm, không vội vàng, cẩu thả
Kết bài: Nêu bài học chung về đọc sách, đặc biệt là với các tác phẩm văn học.
2. Từ các đề bài và kết quả thảo luận, anh (cho hãy. cho biết đối tượng và nội dung của bài nghi luận về một ý kiến bàn về văn học.
Ghi nhớ: Đối tượng nghị luận về một ý kiến bàn về văn học rất đa dạng: về văn học sử, về lí luận văn học, về tác phẩm văn học,… |
LUYỆN TẬP
1. Trình bày suy nghĩ của anh (chị) đối với ý kiến của nhà văn Thạch Lam: “Văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người thêm trong sạch và phong phú hơn”.
2. Bàn về thơ Tố Hữu, nhà phê bình Hoài Thanh viết: “Thái độ toàn tâm toàn ý vì cách mạng là nguyên nhân chính đưa đến sự thành công cửa thơ anh.” (Tuyển tập Hoài Thanh, NXB Văn học, Hà Nội, 1982)
Hãy bày tỏ ý kiến của anh (chị) về nhận xét trên.
* Soạn bài:
Đề 1: Bình luận ý kiến sau đây của nhà văn Thạch Lam về văn chương: Văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có để vừa tố cáo và thay đổi một thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người thêm trong sạch và phong phú hơn.
a. Mở bài:
– Nêu ý kiến của Thạch Lam về văn chương.
– Trình bày cảm nhận chung của mình về ý kiến ấy.
b. Thân bài:
– Văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực nghĩa là: Văn chương là công cụ nghề nghiệp hoàn hảo của nhà văn, là vũ khí có khả năng giúp nhà văn hoàn thành sứ mệnh của mình một cách có hiệu quả. Nó không bị sử dụng vào mục đích xấu, hơn nữa nó luôn tác động bằng con đường tình cảm.
– Tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác vừa làm cho lòng người được thêm trong sạch và phong phú hơn. Nghĩa là:
+ Văn chương vạch trần, phê phán những tệ lậu, những cái xấu xa của xã hội và đòi hỏi diệt trừ thay thế nó.
+ Đồng thời bồi đắp tinh thần, xây dựng đời sống tâm hồn, thanh lọc tình cảm con người.
Bình luận:
– Thạch Lam tự hào về vũ khí của mình.
+ Nhận xét đúng đắn, khái quát, sát thực.
+ Ý thức được sức mạnh và sự cao cả của văn chương.
+ Thấy được cách tác động đặc thù của văn chương vào cuộc sống.
– Nhận thức đúng về hiện trạng đời sống lúc bấy giờ.
+ Xác định đúng mục tiêu, nhiệm vụ của văn chương.
+ Hiểu rõ tương quan giữa hai nhiệm vụ (phản ánh, đã phá và xây dựng tâm hồn).
+ Đầy niềm tin ở khả năng của văn học, khả năng tự cải tạo của tâm hồn con người.
c. Kết bài:
– Khẳng định quan niệm đúng đắn về vai trò, tác dụng của văn chương trong đời sống xã hội.
– Ý nghĩa lịch sử và ý nghĩa lâu dài của ý kiến ấy.
Đề 2: Bàn về thơ Tố Hữu, nhà phê bình Hoài Thanh viết: “Thái độ toàn tâm, toàn ý vì cách mạng là nguyên nhân chính đưa đến thành công của thơ anh”. Hãy bày tỏ ý kiến đối với nhận định trên.
a. Mở bài:
– Giới thiệu ý kiến của nhà phê bình Hoài Thanh (trích nguyên văn, nêu xuất xứ).
– Trình bày nhận định chung của mình về ý kiến đó.
b. Thân bài:
– Có nhiều nguyên nhân thành công của thơ Tố Hữu (năng khiếu bẩm sinh, truyền thống gia đình, quê hương, công phu tu dưỡng nghệ thuật…). Nhưng “thái độ toàn tâm, toàn ý vì cách mạng là nguyên nhân chính” đưa đến sự thành công của thơ ông.
– Chứng minh: có toàn tâm, toàn ý với cách mạng mới luôn luôn suy nghĩ, trăn trở, lo toan với đau khổ và sướng vui trên những chẳng đường lịch sử của đất nước. Tâm tư, tình cảm chân thành, sâu sắc ấy của nhà cách mạng Tố Hữu chính là chất liệu của thơ trữ tình – chính trị của ông, giữa con người nhà thơ có sự thống nhất hài hoà.
Ví dụ: Phân tích những câu thơ, đoạn thơ để chứng minh cho sự thành công của thơ Tố Hữu. Có thể lấy dẫn chứng trong Từ ấy, Việt Bắc, Gió lộng,…
– Do nhu cầu tinh thần của con người hết sức phong phú, đa dạng nên cùng với thơ trữ tình chính trị còn có những loại thơ khác (thơ tình yêu, thơ thế sự, thơ điền viên…) với những nguyên nhân thành công khác cũng rất cần cho đời sống tinh thần của con người.
c. Kết bài:
Ý kiến của Hoài Thanh phù hợp với thực tế sáng tác của Tố Hữu, phù hợp với lí luận sáng tác thơ ca. Do đó, có thể gợi ý cho những người nghiên cứu và sáng tác thơ.