»» Nội dung bài viết:
Ngoại hình và phẩm chất của Chí Phèo.
Kiểu nhân vật nông dân bất hạnh, khổ đau cùng cực xuất hiện không ít trong lịch sử văn chương Việt Nam: Chị Dậu, lão Hạc, … nhưng có thể, đến khi nhân vật Chí Phèo xuất hiện trong tác phẩm cùng tên của nhà văn Nam Cao, ta ngỡ ngàng nhận ra rằng đây mới là hiện thân đầy đủ nhất cho nỗi cùng cực, bất hạnh của kiếp người.
Ngoại hình nhân vật Chí Phèo.
Trước khi đi tù:
– Chí Phèo là một anh chàng nông dân hiền lạnh, chất phác.
Sau khi ở tù về:
– Sau khi bước ra từ nhà tù trở về làng: trông đặc như thằng săng đá, đầu trọc, răng cạo trắng hớn, mặt thì đen, cơng cơng, hai mắt gườm gườm trong gớm, mặc quần nái đen với cái áo tây vàng, ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chùy.
Phẩm chất tốt đẹp của Chí Phèo.
– Chí Phèo vốn là một người nông dân với nhiều phẩm chất tốt đẹp:
+ Là một con người lương thiện: đi ở hết nhà này đến nhà khác, cày thuê cuốc mướn để kiếm sống → làm ăn chân chính.
+ Từng mơ ước giản dị về cuộc sống gia đình: có một ngôi nhà nho nhỏ, chồng cày thuê cuốc mướn… → Chí Phèo là một người lương thiện.
+ Có lòng tự trọng: Bà ba Bá Kiến gọi lên đấm lưng, bóp chân, Chí cảm thấy nhục → Là người có ý thức về nhân phẩm.
→ Chí Phèo có đủ điều kiện để sống cuộc sống yên bình như bao người khác, quãng đời lương thiện của Chí kéo dài trong khoảng 20 năm đầu
– Sau này, khi gặp Thị Nở, sự lương thiện lại một lần nữa quay lại trong Chí:
+ Nhận biết được âm thanh cuộc sống: Tiếng chim hót, tiếng cười nói của người đi chợ.
+ Mong muốn được làm hòa với xã hội, mong muốn có một mái ấm gia đình với Thị Nở → Ước muốn giản dị năm xưa quay trở lại với Chí Phèo.
→ Bản chất con người Chí luôn là một người lương thiện.
* Nhận xét:
– Ngòi bút Nam Cao có những quan tâm, những khám phá riêng về số phận người lao động bị chà đạp. Hình tượng nhân vật Chí Phèo – một điển hình nghệ thuật bất hủ trong văn xuôi Việt Nam – đã thể hiện cái nhìn đầy đủ mới mẻ, độc đáo có chiều sâu trong thể hiện nỗi khổ con người đó của Nam Cao.
– Truyện “Chí Phèo” kết thúc nhưng vẫn còn đó những ám ảnh về một chế độ nửa thực dân nửa phong kiến tàn nhẫn. Tác phẩm đã lên án mạnh mẽ, phê phán chính xác một xã hội đầy vô cảm. Với khả năng sáng tạo văn học điêu luyện kết hợp lối viết chân thực đan xen những biện pháp tu từ độc đáo, Nam Cao đã để lại một tuyệt phẩm cho văn học nước nhà.
Bài văn tham khảo:
Nghệ thuật khắc họa nhân vật đặc sắc trong truyện ngắn Chí Phèo.
Chí Phèo lúc đầu được Nam Cao đặt tên là Cái lò gạch cũ, khi ra mắt độc giả lần đầu, để “câu khách”, nhà xuất bản tự ý đổi tên thành Đôi lứa xứng đôi (in trong tập Đôi lứa xứng đôi, gồm 11 truyện ngắn, NXB Đời mới, Hà Nội, 1941). Sau này, khi in lại trong tập Luống cày (Hội Văn hoá cứu quốc xuất bản, Hà Nội, 1946), Nam Cao đặt lại tên truyện là Chí Phèo.
Chí Phèo là truyện ngắn xuất sắc nhất của Nam Cào và được coi là một kiệt tác của văn xuôi hiện đại Việt Nam. Qua truyện ngắn này, có thể thấy được bút pháp hiện thực độc đáo, mới mẻ và tinh thần nhân đạo sâu sắc của Nam Cao. Đoạn trích trong SGK tuy đã lược bớt vài đoạn vì chuyện quá dài, nhưng người đọc vẫn có thể hình dung được toàn bộ câu chuyện và nắm được tinh thần tác phẩm.
Cuộc đời cùng quẫn của Chí Phèo.
Vốn là một đứa trẻ bị bỏ rơi “trần truồng và xám ngắt trong một váy đụp để bên cái lò gạch bỏ không”, Chí Phèo được người làng nhặt về và chuyền tay nhau nuôi, lớn lên Chí đi làm canh điền cho lý Kiến, bị ông lý ghen rồi đẩy vào tù.
Ở tù ra, Chí Phèo biến đổi hẳn, từ một anh nông dân hiền lành, lương thiện, hắn trở thành một kẻ côn đồ cả về tâm tính lẫn ngoại hình: “cái đầu thì trọc lóc cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen và rất câng câng”, ngực và cánh tay “đầy những nét chạm trổ” người ta thấy hắn “ngồi ở chợ uống rượu với thịt chó suốt từ sáng đến chiều”, và “cứ rượu xong là hắn chửi”, có khi còn “lăn lộn dưới đất, vừa kêu vừa lấy mảnh chai cào vào mặt” để “ăn vạ”,…
Một lần đến nhà Bá Kiến rạch mặt ăn vạ, Chí Phèo bị ông bá dụ dỗ, giao cho việc đi đòi nợ đội Tảo, từ đó hắn trở thành tay sai đắc lực của bá Kiến. Chí Phèo không ý thức được mình đã biến thành “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”, “làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện”, bởi vì hắn làm tất cả những việc người ta sai hắn làm trong lúc say. Mà những cơn say của hắn thì triền miên, không bao giờ chấm dứt, “hắn ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say… đập đầu rạch mặt, chửi bới, dọa nạt trong lúc say…”. Đến cái mặt của hắn cũng biến đồi, “không còn phải là mặt người: nó là mặt một con vật lạ”, nó “vàng vàng mà lại muốn xạm màu gio”, nó “vằn dọc vằn ngang, không thứ tự, biết bao nhiêu là sẹo”.
Cuộc đời chí Phèo tiêu biểu cho số phận bi thảm của những người nông dân cùng khố trong xã hội cũ. Thế lực của bọn cường hào ác bá ở thôn quê kết hợp với nhà tù thực dân đã đẩy người nông dân lương thiện vào con đường lưu manh hoá, dẫn đến sự huỷ hoại cả nhân tính lẫn nhân hình.
Khát vọng được làm người lương thiện của Chí Phèo.
Cuộc đời Chí Phèo sẽ mãi mãi ngập sâu trong tội ác nếu không có sự gặp gỡ với thị Nở. Giữa người đàn bà đần độn, “xấu ma chê quỷ hờn” và một gã đàn ông “chỉ sống bằng cướp giật và dọa nạt” đã nảy xinh một tình cảm trong sáng nhất của loài người: tình yêu. Tình cảm ấy đã thức dậy ở Chí Phèo niềm khao khát về một mái ấm gia đình giản dị, yên bình “chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải…”. Chí Phèo và thị Nở đã nhất định lấy nhau để sống một cuộc đời lương thiện như bao nhiêu người khác.
Con đường hoàn lương của Chí Phèo đã gặp ngay trở ngại đầu tiên: bà cô của thị Nở. Định kiến về Chí Phèo – “một thằng không cha”, “chỉ có một nghề là rạch mặt ra ăn vạ” – đã khiến bà cô coi việc thị Nở định lấy Chí Phèo là một sự “nhục nhã” không thể chấp nhận được. Bà trút tất cả sự uất ức vào thị Nở. Và thị Nở, trong cơn giận dữ, tìm đến Chí Phèo và “trút vào mặt hắn tất cả lời của bà cô”.
Chí Phèo sửng sốt, hấn uống thật say để đến nhà thị Nở “đâm chết cái con khọm già nhà nó”, nhưng bước chân quen đường trong cơn say lại đưa hắn đến nhà bá Kiến. Khác với mọi lần, Chí không nhận tiền mà dõng dạc yêu cầu: “Tao muốn làm người lương thiện!”. Trong cơn say, Chí Phèo vẫn tỉnh táo nhận ra: “Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa”. Con đường trở lại làm người lương thiện của Chí Phèo đã hoàn toàn bế tắc, bằng trực giác, Chí đã nhận đúng mặt kẻ thù, hắn xông vào đâm chết bá Kiến và tự kết liễu đời mình.
Nam Cao đã nhận ra ngay trong những con người tưởng như đã mất hết nhân tính vẫn còn le lói chút ánh sáng của lương tri. Mô tả con đường hoàn lương đau đớn, bi kịch không được làm người của Chí Phèo, nhà văn đã thể hiện một tấm lòng nhân đạo sâu sắc, đầy sự cảm thông đối với lớp người dưới đấy”.
Nghệ thuật xây dựng nhân vật Chí Phèo.
– Xây dựng tính cách điển hình sắc nét.
Nhân vật Chí Phèo: Đây là hình tượng thành công nhất của ngòi bút hiện thực Nam Cao. Chí Phèo không chỉ điển hình cho một bộ phận cố nông bị lưu manh hoá mà nhân vật này còn mang ý nghĩa khái quát rộng lớn: cuộc đời và số phận của Chí thể hiện một quy luật có tính phổ biến trong xã hội cũ là quy luật bần cùng hoá, rồi đi đến lưu manh hoá của những người dân lành. Trong tác phẩm, Chí Phèo hiện hình thành “con quỷ dữ” chuyên đập phá, kêu gào, chửi bới, rạch mặt ăn vạ với những cơn say triền miên, bất tận… Đó là tính cách riêng của Chí, nhưng con đường tha hoá của Chí Phèo cũng là con đường của những năm Thọ, binh Chức,… trong tác phẩm. Mỗi người một cảnh, họ đều là nạn nhân của bọn cường hào ác bá (ở đây là bá Kiến) và là sản phẩm của nhà tù thực dân. Còn những thế lực bạo tàn đó thì hiện tượng Chí Phèo vẫn còn tiếp diễn, không phải vô cớ mà tác giả đã nhắc lại hình ảnh “cái lò gạch bỏ không” ở cuối truyện. Với ngòi bút phân tích tâm lí sắc sảo, Nam Cao đã khắc hoạ thành công hình tượng Chí Phèo, một nhân vật điển hình vừa có tính riêng sinh động vừa mang tính chung phổ biến. Nét đặc sắc riêng của hình tượng Chí Phèo còn được khắc họa sâu sắc hơn trong bi kịch của nhân vật. Khi lương tri thức tỉnh, Chí thèm khát được trở lại làm người lương thiện thì lại bị chính cái xã hội của những người lương thiện chối bỏ. Lần đầu tiên, cơn giận dữ của Chí Phèo mang nỗi uất hận đau đớn của một kẻ không được làm người. Sự thức tỉnh của Chí Phèo là một phát hiện sâu sắc, đầy tính nhân đạo của Nam Cao khi xây dựng nhân vật điển hình.
Nhân vật bá Kiến: Bên cạnh Chí Phèo, bá Kiến cũng là một tính cách điển hình chân thực và sinh động. Người ta không thể quên được “cái cười Tào Tháo” của cụ bá cùng những toan tính nham hiểm của nhân vật này: “Hãy ngấm ngầm đẩy người ta xuống sông, nhưng rồi lại dắt nó lên để nó đền ơn. Hãy đập bàn đập ghế, đòi cho được năm đồng, nhưng được rồi thì lại vứt trả lại năm hào “vì thương anh túng quá”. Vừa xảo quyệt, gian hùng vừa đê tiện, bá Kiến là nhân vật tiêu biểu cho lớp cường hào ác bá (những đội Tảo, tư Đạm, bát Tùng,…) Ở nông thôn Việt Nam trước Cách mạng, những kẻ có quyền sinh quyền sát, tha hồ làm mưa làm gió ở làng quê. Có thể nhận ra bàn tay của bá Kiến trong việc xô đẩy người dân lương thiện vào cảnh khốn cùng rồi biến họ thành tay sai gây tai hoạ cho chính những người lương thiện. Bá Kiến và những kẻ như hắn mới thực là “con quỷ dữ” giấu mặt của làng Vũ Đại.
Từ tác phẩm, nhưng nhân vật điển hình như Chí Phèo, bá Kiến đã bước thẳng vào cuộc sống, tên nhân vật đã trở thành tên gọi chung cho loại người mang tính cách tương tự như nhân vật trong tác phẩm. Điều thú vị là những danh xưng ấy còn tồn tại dai dẳng cho đến ngày nay.
– Cốt truyện độc đáo, các tình tiết giàu kịch tính, luôn biến hoá mang lại nhiều bất ngờ cho người đọc.
Dù không được kể theo trình tự thời gian nhưng lại lịch và diễn biến cuộc đời của mỗi nhân vật đều được xâu chuỗi rất logic và sinh động (các sự kiện trong cuộc đời Chí Phèo được chắp nối qua lời trần thuật và dòng hồi ức rải rác trong truyện). Hầu như mỗi tình tiết đều ẩn chứa rất nhiều sự bất ngờ (chỉ một lời ngọt nhạt mà bá Kiến đã dẹp yên được sự ăn vạ ầm ĩ của Chí Phèo), có nhiều chi tiết tưởng như ngẫu nhiên nhưng hoá ra lại là những móc xích bên trong nối vào nhau chặt chẽ (chi tiết Chí Phèo xăm xăm đến nhà thị Nở nhưng bước chân lại dẫn hắn đến nhà bá Kiến, chi tiết thị Nở liếc nhìn bụng và nghĩ đến “cái lò gạch bỏ không”,…). Hành động quyết liệt của Chí Phèo và cái chết bi thảm của Chí là bước kết thúc bất ngờ nhưng nhất quán với sự phát triển của tính cách nhân vật.
– Cách dẫn chuyện linh hoạt và vô cùng hấp dẫn.
Đoạn mở đầu rất độc đáo gây ấn tượng mạnh bị lối trần thuật nửa trực tiếp, có sự đan xen giữa lời người kể chuyện (“Hắn vừa đi vừa chửi…”) với độc thoại của nhân vật (Ờ! Thế này thì tức thật!..J. Tác giả đã phá vỡ trật tự thông thường, dùng lối tự sự theo dòng nội tâm nhân vật để thuật lại diễn biến sự việc. Vì thế, trong lời trần thuật, hiện tại và hồi ức cứ lồng ghép vào nhau (đoạn mở đầu, đoạn tả Chí Phèo “bâng khuâng tỉnh dậy sau một cơn say rất dài” ở cuối truyện,…), lời người kể và lời nhân vật có khi nhập vào nhau khiến cho điểm nhìn trần thuật cũng thay đổi một cách linh động (lúc thì câu chuyện được thuật lại bằng một cái nhìn khách quan từ bên ngoài, lúc lại chuyển hoá thành điểm nhìn chủ quan của nhân vật từ bên trong). So với dung lượng của một truyện ngắn thì đây là một chuyện tương đối dài, nhưng nó không hề nhàm chán bởi cách dẫn chuyện luôn biến ảo cùng những độc thoại nội tâm sinh động (chẳng hạn độc thoại nội tâm của Chí Phèo sau cơn tỉnh rượu).
Giá trị nghệ thuật trong tác phẩm Chí Phèo của Nam cao.
– Nghệ thuật điển hình hoá nhân vật:
Chí Phèo, Bá Kiến là những điển hình đặc sắc trong tác phẩm. Vừa sinh động, độc đáo, không lặp lại, các nhân vật này mang sức khái quát cao cho mối xung đột diễn ra khốc liệt ở nông thôn Việt Nam trước cách mạng, đặc biệt là nhân vật Chí Phèo. Hắn là điển hình sinh động cho những người nông dân cố cùng bị hủy hoại, tha hoá đến tận cùng bởi thế lực tàn bạo -> xây dựng nhân vật điển hình sắc nét.
– Nghệ thuật miêu tả tâm lí tài tình.
Trong truyện ngắn đã tạo nên những đoạn văn tuyệt bút. Số phận và bi kịch của Chí Phèo được đào sâu cực độ qua những đoạn văn hay như đoạn Chí Phèo thức tỉnh sau đêm say rượu gặp Thị Nở; đoạn Chí Phèo bị cự tuyệt tình yêu…
Cốt truyện độc đáo, các tình tiết giàu kịch tính, luôn biến hoá mang lại nhiều bất ngờ cho người đọc
Kết cấu vòng tròn, khép kín đã tạo nên chiều sâu cho thiên truyện: Mở đầu truyện bằng hình ảnh đứa bé trần truồng xám ngắt nằm bên chiếc lò gạch cũ, kết thúc bằng hình ảnh Thị Nở nhìn nhanh xuống bụng mình và thoáng nghĩ đến một cái lò gạch xa xôi vắng người qua lại… Kết cấu này cho thấy số phận bế tắc, quẩn quanh không lối thoát của kiếp người trong xã hội bóc lột. Chí Phèo chết nhưng còn bao nhiêu số kiếp Chí Phèo sẽ lại tái diễn?
Ngôn ngữ, giọng điệu sinh động. Ngôn ngữ, giọng điệu của Nam Cao được thể hiện một cách sinh động, đa dạng trong truyện ngắn này. Ngòi bút hiện thực vừa tỉnh táo, khách quan, sắc lạnh lại vừa đằm thắm, trữ tình như hòa quyện, xuyên thấm vào nhau.
Ngoài ra, giọng trần thuật cũng thay đổi phù hợp với diễn biến tâm lý nhân vật, khi thì dùng lời kể trực tiếp, khi thì nửa trực tiếp, khi lại có sự đan xen giữa hai giọng kể trên một cách nhịp nhàng, nhuần nhuyễn (dẫn chứng: đoạn văn mở đầu tác phẩm, đoạn miêu tả tâm trạng khi ăn bát cháo hành, đoạn độc thoại nội tâm của Bá Kiến).
Cách dẫn chuyện linh hoạt và vô cùng hấp dẫn. Đoạn mở đầu rất độc đáo gây ấn tượng mạnh bởi lối trần thuật nửa trực tiếp, có sự đan xen giữa lời người kể chuyện (Hắn vừa đi vừa chửi…) với độc thoại của nhân vật (Ờ! Thế này thì tức thật!…).
Tác giả đã phá vỡ trật tự thông thường, dùng lối tự sự theo dòng nội tâm nhân vật để thuật lại diễn biến sự việc. Vì thế, trong lời trần thuật, hiện tại và hồi ức cứ lồng ghép vào nhau (đoạn mở đầu, đoạn tả Chí Phèo “bâng khuâng tỉnh dậy sau một cơn say rất dài” ở cuối truyện,…), lời người kể và lời nhân vật có khi nhập vào nhau khiến cho điểm nhìn trần thuật cũng thay đổi một cách linh động (lúc thì câu chuyện được thuật lại bằng một cái nhìn khách quan từ bên ngoài, lúc lại chuyển hoá thành điểm nhìn chủ quan của nhân vật từ bên trong).
So với dung lượng của một truyện ngắn thì tác phẩm Chí Phèo tương đối dài, nhưng nó không hề nhàm chán bởi cách dẫn chuyện luôn biến ảo cùng những độc thoại nội tâm sinh động (chẳng hạn độc thoại nội tâm của nhân vật Chí Phèo sau cơn tỉnh rượu).
* Nhận xét:
Chí Phèo là một tác phẩm có giá trị hiện thực và giá trị nhân văn sâu sắc, mới mẻ. Tác phẩm đã thể hiện tài năng truyện ngắn bậc thầy của Nam Cao trong việc xây dựng những nhân vật điển hình bất hủ; nghệ thuật trần thuật linh hoạt, tự nhiên mà vẫn nhất quán, chặt chẽ, ngôn ngữ nghệ thuật đặc sắc. Đặc biệt là việc xây dựng nghệ thuật điển hình hóa nhân vật.
Chí Phèo và Bá Kiến là hai nhân vật điển hình cho các tầng lớp xã hội cơ bản của nông thôn Việt Nam trước Cách mạng, vừa là những người có cá tính độc đáo và có sức sống mạnh mẽ. Tâm lí nhân vật được miêu tả sắc sảo, tinh tế, đi sâu vào nội tâm để diễn tả những diễn biến phức tạp phát sinh trong cuộc đời. Bá Kiến là đại diện cho thế lực cường hào ác bá. Mối quan hệ của Chí Phèo và Bá Kiến thể hiện quá trình bị tha hóa của Bá Kiến từ anh canh điền, hiền lành bị Bá Kiến đẩy vào tù và trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại.
Khắc họa thành công nhân vật Chí Phèo – người nông dân hiền lành, lương thiện bị xã hội tàn bạo đẩy vào con đường tha hóa, lưu manh hóa, bị tàn phá cả nhân hình nhân tính. Hắn sinh ra đã là một bi kịch, từ một anh nông dân hiền lành hắn trở thành tên lưu manh chuyên rạch mặt ăn vạ, cuối cùng trở thành con quỷ dữ. Đời hắn chưa bao giờ tỉnh. Sau đêm gặp thị Nở tâm lý của Chí Phèo đã thay đổi phức tạp. Hắn cảm nhận được những âm thanh của cuộc sống đời thường, hắn nhận ra mình đã già nhưng vẫn còn đơn độc. Hắn muốn sống chung với thị Nở, thèm lương thiện. Với khát vọng được làm người lương thiện của Chí Phèo sau cái hôm gặp thị Nở tác giả vẫn luôn khẳng định bản chất lương thiện của người nông dân ngay cả khi bị vùi dập. Qua đây, Nam Cao thể hiện được tư tưởng nhân đạo, lòng yêu thương, niềm tin yêu của ông vào những con người khốn khổ. Chí Phèo còn là tiếng kêu cứu của những con người khốn khổ, bí bách cùng quẫn không lối thoát bị xã hội ruồng bỏ để xã hội hiểu được hãy cho họ – những con người lầm đường lạc lối cơ hội trở về với cuộc sống lương thiện, cơ hội được hòa nhập cộng đồng.
Xem thêm: