nhan-vat-mi-o-dau-tac-pham-va-khi-chung-kien-a-phu-bi-troi

Phân tích nhân vật Mị qua hai lần miêu tả: ở đầu tác phẩm và khi chứng kiến cảnh A Phủ bị trói

Phân tích nhân vật Mị qua hai lần miêu tả: ở đầu tác phẩm và khi chứng kiến cảnh A Phủ bị trói

Trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ, ở phần mở đầu truyện, nhà văn Tô Hoài tả nhân vật Mị: “…một cô con gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi.”. Đến cuối truyện, lúc chứng kiến “một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại” của A Phủ khi bị trói, Mị suy nghĩ: “Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết, nó bắt mình chết cũng thôi, nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này. Chúng nó thật độc ác. Cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi… Người kia việc gì mà phải chết thế. A Phủ…”. (Trích Vợ chồng A Phủ – Tô Hoài, Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2015, tr.4 và tr.13)

Phân tích nhân vật Mị trong hai lần miêu tả trên, từ đó làm nổi bật sự thay đổi của nhân vật này.


I. Mở bài:

– Dẫn nhập, giới thiệu Tô Hoài và truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”;
– Nêu luận đề: Hình ảnh nhân vật Mị qua 2 lần miêu tả, từ đó làm nổi bật sự thay đổi của nhân vật này
– Trích dẫn vắn tắt 2 đoạn văn ở đề bài.

II. Thân bài:

1. Lần 1: Mị xuất hiện như một vật vô tri, vô giác.

“Ai ở xa về, có dịp vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tầu ngựa . Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi” .

Cách giới thiệu tạo ra những đối nghịch về một cô gái âm thầm lẻ loi, âm thầm như lẫn vào các vật vô tri: cái quay sợi, tảng đá, tàu ngựa ; cô gái là con dâu nhà thống lí quyền thế, giàu có nhưng sao mặt lúc nào “buồn rười rượi”. Khuôn mặt đó gợi ra một số phận đau khổ , bất hạnh nhưng cũng ngầm ẩn một sức mạnh tiềm tàng .

– Gợi ra nơi ở và làm việc của Mị rất tồi tàn, là không gian tù ngục khép kín: ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa.

– Lột tả cuộc sống khổ nhục, tăm tối của Mị khi bị bóc lột sức lao động hết sức dã man: quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên…

– Phác họa chân dung nhân vật để gợi mở nội tâm: “cúi mặt, mặt buồn rười rượi”, in đậm một hình bóng tăm tối, nhọc nhằn, vô hồn vô cảm của Mị; là hệ quả tất yếu của cuộc sống bị áp bức nặng nề bấy lâu nay.

2. Lần 2: chứng kiến cảnh A Phủ bị trói đứng: “Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết…A Phủ…”.

– Lúc đầu nhìn thấy cảnh A Phủ bị trói, Mị vẫn thản nhiên sưởi lửa vì sống lâu trong cái khổ đã làm cho trái tim của Mị chai sạn, vô cảm.

– Khi nhìn thấy một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại trên gương mặt A Phủ, Mị chợt nhớ lại cảnh mình từng bị trói đứng. Mị hiểu sâu sắc cuộc sống bị đọa đày của hiện tại, cảm nhận đến tận cùng sự độc ác của cha con thống lí: Chúng nó thật độc ác. Từ thương thân, Mị đồng cảm sâu sắc với con người cùng cảnh ngộ: Cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết và thấy được sự bất công, phi lí của cảnh này: Người kia việc gì mà phải chết thế. A Phủ…

– Từ chuỗi diễn biến tâm lí trên thôi thúc Mị đi đến hành động cắt dây cởi trói và chạy trốn cùng A Phủ. Hành động táo bạo và bất ngờ ấy là kết quả tất yếu của sức sống tiềm tàng khi người con gái yếu ớt dám chống lại cả cường quyền và thần quyền.

3. Nhận xét về nhân vật Mị qua hai lần miêu tả:

– Cả hai lần miêu tả đều tập trung làm nổi bật nhân vật Mị, tiêu biểu cho số phận và vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ miền núi Tây Bắc.

+ Ở lần thứ nhất, Mị là người con gái cam chịu, vô cảm, bị tê liệt tinh thần phản kháng bởi hai thế lực thần quyền và cường quyền chà đạp.

+Trong lần miêu tả thứ hai, Mị đã ý thức được nỗi đau cuộc đời của mình và của người cùng cảnh ngộ; tình thương người ngày càng tăng lấn át nỗi sợ hãi, dẫn tới hàng động phản kháng mãnh liệt…

⇒ Qua đó, nhà văn Tô Hoài thể hiện tình cảm nhân đạo sâu sắc của mình.

4. Về nghệ thuật:

Lối trần thuật hấp dẫn, lôi cuốn người đọc; bút pháp miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo; cách dẫn dắt tình tiết khéo léo, tự nhiên; ngôn ngữ kể chuyện tinh tế, mang đậm màu sắc miền núi…

III. Kết bài:

– Khẳng định, đánh giá luận đề: Hình ảnh nhân vật Mị qua 2 lần miêu tả, sự thay đổi về nhận thức , suy nghĩ của nhân vật ; tư tưởng nhân đạo sâu sắc của Tô Hoài.
– Khẳng định giá trị của tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”, vị trí, đóng góp của nhà văn Tô Hoài trong nền văn học hiện đại Việt Nam.


Bài văn tham khảo:

Phân tích diễn biến tâm trạng và hành động của nhân vật Mị khi ở Hồng Ngài

Đề tài Tây Bắc in đậm trong sự nghiệp văn chương của Tô Hoài: “Truyện Tây Bắc”, “Miền Tây”,”Họ Giàng ở Phìn Sa”… Truyện “Vợ chồng A mang ý nghĩa như một “chiến công” của nhà văn Hà Nội này khi theo bộ đội vào giải phóng Tây Bắc (1952). Truyện kể về cuộc đời của Mị và A Phủ ở Hồng Ngài trong nhà thống lí Pá Tra và khi làm chiến sĩ du kích ở căn cứ Phiềng Sa. Qua đó, tác giả nói lên nỗi thống khổ sự vùng dậy của người Mèo ở Tây Bắc, một lòng quyết tâm tham gia kháng chiến để giành lấy tự do, tình yêu và hạnh phúc.

Nhân vật Mị là một sáng tạo đặc sắc của Tô Hoài. Đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài là tình tiết cảm động nhất, hay nhất của truyện đã thể hiện khát vọng sống, khao khát tình yêu của người con dâu gạt nợ.

Mị mồ côi mẹ, ở với cha già. Mị xinh đẹp, tuổi xuân phơi phới. Vì món nợ truyền kiếp. Mị trở thành con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra. Tuổi xuân của Mị bị thằng A Sử, con trai thống lí tước đoạt, giày xéo. Mị khổ như con trâu con ngựa. Mị toan ăn lá ngón tự tử, nhưng thương cha già, Mị chết không đành lòng. Sống trong đau khố, Mị gần như vô cảm vô hồn “càng không nói, lùi lủi như con rùa nuôi trong xó cửa”.

Xuân qua rồi xuân lại trở lại. Đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài lại đến. Cả một không gian tưng bừng. Lúa ngô ở các nương đã thu hoạch xong. Gió và rét dữ dội. Cảnh sắc làng Mèo càng đẹp. Màu “vàng ửng” của cỏ gianh. Màu trắng, màu đỏ au, đỏ thậm, màu tím man mát của hoa thuốc phiện vừa nở. Màu “sặc sỡ” của những chiếc váy hoa phơi trên mỏm đá xòe như con bướm. Tiếng “cười ầm” của đám trẻ con chơi quay. Tiếng sáo thổi rủ bạn đi chơi. Tiếng chó sủa xa xa… Trước cảnh tưng bừng ấy, cứ tưởng Mị “Riêng mình nào biết có xuân là gì?”. Nhưng thật bất ngờ. Những đêm tình mùa xuân ỡ Hồng Ngài đã hồi sinh và hồi xuân tâm hồn Mị. Tâm trạng và hành động Mị được Tô Hoài thể hiện một cách tinh tế, xúc động.

Trong lúc trai gái và lũ trẻ con tụ tập đánh pao, đánh quay, thổi sáo, thổi khèn và nhảy trên sân chơi thì Mị “tha thiết bồi hồi” khi nghe tiếng sáo từ đầu núi “vọng lại”. Mị “nhẩm thầm” bài hát của người đang thổi sáo: “… Ta không có con trai con gái – Ta đi tìm người yêu…”. Sau bao mùa xuân câm lặng, có lẽ đây là lần đầu tiên người con dâu gạt nợ khẽ thầm hát?

Tiếng sáo đã gợi thương gợi nhớ và thức tỉnh. Mị lén lấy hũ rượu, “uống ừng ực từng bát”. Uống rượu như nuốt hận. Hay uống cho vơi đi nỗi đau khổ? Say rượu “lịm mặt”, tâm trạng Mị diễn biến. Mị hồi tưởng “sống về ngày trước”. Tiếng sáo gọi bạn tình “văng vẳng” trong tai Mị. Bao kỉ niệm đẹp thời con gái sống dậy trong lòng Mị. Mị thổi sáo giỏi… Có biết bao nhiêu người mê, ngày đem đã thổi sáo đi theo Mị. Hồi tưởng lại mùa xuân đẹp thời con gái, điều đó cho thấy Mị đã được thức tỉnh. Khát vọng sống như ngọn lửa đã bừng sáng tâm hồn Mị.

Mị “từ từ bước vào buồng” với tâm trạng “thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước”. Mị được thức tỉnh, tự ý thức là mình “trẻ lắm”, “vẫn còn trẻ”. Mị khao khát “Mị muốn đi chơi”.

Khát vọng sống như ngọn lửa bừng cháy bao nhiêu Mị lại phẫn uất bấy nhiêu! Phẫn uất và đau khổ cho thân phận và số phận trớ trêu đầy bi kịch. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày Tết. A Sử với Mị “không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau!”. Không thể cam chịu mãi kiếp con dâu gạt nợ. Mị muốn ăn lá ngón cho chết ngay! Uất ức, nước mắt Mị ứa ra, khi tiếng sáo gọi bạn yêu “vẫn lửng lờ bay ngoài đường”. Tâm hồn Mị diễn biến phức tạp trong quá trình thức tỉnh, nổi loạn. Mị đang sống trong nghịch lí giữa thân phận con dâu gạt nợ và niềm phơi phới muốn đi chơi Tết. Liệu Mị có dám phá tung và cắt đứt sợi dây oan nghiệt đang thít chặt lấy số phận, thân phận mình để đến với những cuộc chơi cùng với tiếng sáo gọi bạn yêu?

Mị vào buồng lần này không phải để nhìn qua “cái lỗ vuông” để nghĩ đến cái chết, mà Mị đã hành động một cách mạnh mẽ, ngang nhiên trước mặt A Sử khi hắn xuất hiện bất ngừ trong buồng. A Sử thay áo mới, khoác thêm hai vòng bạc… để đi chơi rình bắt gái đem về làm vợ. Mị cũng chuẩn bị đi chơi Tết. Như thách thức. Mị đã hành động. Xắn thêm miếng mỡ bỏ vào đĩa đèn cho sáng. Quấn lại tóc. Với tay lấy cái váy hoa. Rút thêm cái áo. A Sử nhìn Mị, Mị “cũng không nói” hay không thèm nói? Hàng loạt hành động “nổi loạn” của Mị diễn ra liên tiếp khi tiếng sáo đang “rập rờn” trong đầu Mị. Tiếng sáo gọi bạn tình như đem đến cho Mị một sức mạnh mới, khơi gợi lòng khao khát yêu đương và hạnh phúc. Khi Mị với tay lấy váy hoa… là Mị thực sự được thức tỉnh, được sống lại thời con gái với bao ước mơ đẹp.

Sự phản kháng Sự phản kháng của Mị phải trả giá nặng nề. Chỉ sau một câu hỏi: “Mày muốn đi chơi à? Thằng A Sử độc ác đã trói Mị vào cột nhà bằng một thúng sợi đay. Hai tay Mị bị trói bằng dây thắt lưng, tóc Mị quấn lên cột, Mị “không cúi, không nghiêng được đầu nữa”. Thể hiện diễn biến tâm trạng và hành động Mị trong cảnh Mị bị trói trong đêm tình mùa xuân, ngòi bút nghệ thuật của Tô Hoài như đã “nhập hồn” vào nhân vật. Trong bóng tối, Mị “đứng im lặng”. Hơi rượu còn như nâng đỡ tâm hồn Mị. Quên đau khổ, đau đớn thực tại, Mị “vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị theo cuộc chơi,những đám chơi”. Mị vùng bước đi, lòng “bồi hồi” theo tiếng sáo: “Em không yêu, quả pao rơi rồi – Em yêu người em bắt pao nào…”. Mị lại trở lại thực tại đau đớn, khổ nhục “tay chân đầu không cựa được”. Mị thức “thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa” khi nghe tiếng ngựa “gai chân”, nhai cỏ, tiếng chó sủa xa xa. Mị nghĩ đến những cảnh tình tự của bao cặp tình nhân giờ này đã “dỡ vách ra rừng chơi”. Mị nín khóc, Mị lại bồi hồi trong trạng thái lúc mẽ lúc tỉnh. Dây trói thít lại, đau nhức. Hơi rượu tỏa, Mị “nồng nàn tha thiết nhớ”.

Bị trói đứng suốt đêm, Mị “bàng hoàng tỉnh” lúc trời sáng. Chỉ nghe tiếng lửa réo – Không một tiếng động – Mị nghĩ đến các vợ chú, thương những người đàn bà “khốn khổ sa vào nhà quan”; thương người đàn bà nọ bị chồng trói chết trong nhà thống lí. Mị vừa thương mình, vừa thương người, thương cho thân phận những người dàn bà ở Hồng Ngài “một đời con người chỉ biết đi theo con ngựa của chồng”. Mị sợ hãi “cựa quậy” xem mình còn sống hay chết. Dây trói xiết lại “đau dứt từng mảnh thịt”.

Nhờ một sự tình cờ mà Mị thoát chết trong đêm hãi hùng đó. Đoạn văn đêm tình mùa xuân có 3 cảnh. Cảnh Mị ngồi nhẩm thầm tiếng sáo và lén uống rượu ừng ực từng bát. Cảnh Mị chuẩn bị váy áo đi chơi. Cảnh Mị bị A Sử trói đứng suốt đêm trong buồng. Cảnh nào, chi tiết nào cũng sinh động, điển hình cho bi kịch của Mị, của người con dâu gạt nợ. Đoạn văn đêm tình mùa xuân thể hiện ngòi bút kể chuyện cảm động, phân tích diễn biến tâm trạng và hành động nhân vật một cách tinh tế, sâu sắc. Tiếng sáo gọi bạn tình được Tô Hoài nhắc đi nhắc lại 13 lần đầy ám ảnh, như thức tỉnh, như lay gọi, như vổ về niềm khao khát đi chơi Tết, khao khát được sống trong tình yêu và mùa xuân của người con dâu gạt nợ.

Sự “nổi loạn”của Mị cho thấy sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị mà máu và sự dã man không thể nào vùi dập được! Đem tình mùa xuân thấm đẫm tính nhân vãn, Nó đã góp phần tô đậm tính cách nhân vật Mị. Nó đã thổ hiện một cách xúc động giá trị hiện thực và tinh thần nhân đạo của truyện “Vợ chồng A Phủ”

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang