Phân tích Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường

phan-tich-ai-da-dat-ten-cho-dong-song-cua-hoang-phu-ngoc-tuong

Phân tích “Ai đã đặt tên cho dòng sông ?” của Hoàng Phủ Ngọc Tường.

I. Mở bài:

+ Hoàng Phủ Ngọc Tường là một người nghệ sĩ có vốn hiểu biết sâu rộng trên nhiều lĩnh vực, là nhà văn chuyên viết về bút kí, có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và trữ tình, giữa nghị luận sắc bén và suy tư đa chiều.

+ “Ai đã đặt tên cho dòng sông ?” trích trong bút kí cùng tên, hoàn thành tại Huế, nội dung chính thể hiện vẻ đẹp nên thơ của dòng sông Hương và tình yêu thương của tác giả đối với thiên nhiên đất nước.

II. Thân bài:

1. Ý nghĩa nhan đề.

– Nhan đề “Ai đã đặt tên cho dòng sông”  nhấn mạnh đến vẻ đẹp huyền thoại của sông Hương, khát vọng của con người muốn đem cái đẹp về xây đắp cho xứ Huế, gợi lòng biết ơn đến những con người khai phá vùng đất ấy.

– Nhan đề “Ai đã đặt tên cho dòng sông” đã dẫn dắt người đọc đến với cội nguồn tên gọi của dòng Hương thơ mộng.

– Bài bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông” đã lí giải tên dòng sông bằng một huyền thoại mĩ lệ của người dân làng Thành Chung.

– Lấy tên nhan đề cho bài bút kí dưới hình thức của một câu hỏi: “Ai đã đặt tên cho dòng sông” nhằm mục đích dẫn dắt, gợi mở người đọc về nguồn gốc tên gọi của dòng sông, nói lên những khát vọng, niềm tự hào của con người khi muốn mang cái đẹp, tiếng thơm để gây dựng, vun đắp cho văn hóa, lịch sử của xứ Huế.

– Nhan đề “Ai đã đặt tên cho dòng sông” cũng thể hiện được niềm biết ơn đối với những con người đã khai phá vùng đất này, bộc lộ niềm tự hào về vẻ đẹp của đất nước.

2. Hình tượng sông Hương.

* Dòng sông thiên nhiên:

Ở thượng nguồn: gợi tả vẻ đẹp của sông Hương ở vùng thượng nguồn vừa hùng vĩ, man dại vừa trữ tình, say đắm lòng người. Nhà văn đã khéo léo so sánh sông Hương với “cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại”, nhân hóa sông Hương thành một thực thể sống động, có hồn: “bản trường ca của rừng già”, “cô gái Di-gan”, “người con gái của rừng già”, “người mẹ phù sa của vùng văn hóa xứ sở”

Từ thượng nguồn đến Huế: Sông Hương trước khi chảy vào thành phố thì “nằm giữa cánh đầu châu hóa đầy hoa dại”. Sông Hương như người con gái lần đầu đến với tình yêu một mặt rất e lệ, một mặt táo bạo chủ động. Vẻ đẹp mơ màng của sông Hương được miêu tả rất rõ nét, có những đường cong mềm mại, quanh co uốn khúc quanh cố đô Huế. Tác giả dành một tình yêu lớn cho dòng sông. Tình yêu ấy khiến ông mơ màng nhận ra bóng dáng của dòng sông giống như tấm lụa trên có thể người thiếu nữ

Trong lòng Huế: Nét đẹp của dòng sông khi chảy vào thành phố có nét khác biệt so với khu chảy ở ngoại ô. Dòng sông trở nên vui tươi nhưng cũng rất êm dịu, như một điệu slow tình cảm của xứ Huế; như một người con gái đắm say tình tứ khi bên người mình yêu, người con gái tài hoa “tài nữ đánh đàn trong đêm khuya”. 

Khi từ biệt Huế ra biển: như một người con gái lưu luyến, thủy chung từ biệt người yêu.

Tác giả chủ yếu cảm nhận vẻ đẹp sông Hương từ góc độ tình yêu khiến sông Hương hiện lên như một người con gái chung tình hết lòng vì tình yêu.

* Dòng sông lịch sử:

– Tên của dòng sông được ghi trong cuốn “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi.

– Sông Hương là một nhân chứng lịch sử của xứ Huế, của đất nước:

+ Là điểm tựa, bảo vệ biên cương thời Đại Việt

+ Thế kỉ XVIII, vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân với tên tuổi người anh hùng Nguyễn Huệ

+ Nó đọng lại đến bầm da, tím máu, “nó sống hết lịch sử bi tráng của thể kỉ XIX”

+ Nó đi vào thời đại của cuộc cách mạng tháng Tám bằng những chiến công rung chuyển

+ Nó chứng kiến cuộc tổng tiến công và nổi dậy màu xuân năm 1968

+ Sông Hương như một công dân có ý thức trách nhiệm sâu sắc với đất nước: “biết hiến đời mình để làm nên chiến công”,…

+ Là một người con gái anh hùng: cùng gắn bó với Huế qua nhiều cuộc chiến đấu anh hùng trong thời kì trung đại, đến cách mạng tháng Tám cũng có nhưng chiến công vang dội,…

* Dòng sông văn hóa:

+ Sông Hương là “người mẹ phù sa của vùng văn hóa xứ sở”: toàn bộ âm nhạc cổ điển Huế, những bản đàn theo suốt cuộc đời Kiều và bản Tứ đại cảnh đều được sinh thành trên sông nước sông Hương.

+ Là người tài nữ đánh đàn trong đêm khuya: không bao giờ lặp lại trong cảm hứng của các thi nhân.

+ Đó là một dòng sông của thi ca gắn với sông Hương và âm nhạc cổ điển Huế. Đó là một dòng sông không bao giờ lặp lại mình

Sông Hương chính là người con gái phóng khoáng, chung thủy trong tình yêu, anh dũng kiên cường trong lịch sử, tài hoa sáng tạo trong âm nhạc, trong văn hóa, khiêm nhường trong đời thường, là hiện thân cho vẻ đẹp người con gái Huế.

3. Hình tượng cái tôi tác giả.

– Quan sát dòng sông trên nhiều góc độ khác nhau, miêu tả dòng sông trên nhiều phương diện.

– Là nhà văn có những liên tưởng, so sánh, độc đáo, lối viết tài hoa, uyên bác.

– Là cái tôi nghệ sĩ có tình yêu tha thiết, say đắm với thiên nhiên Huế và đất nước.

4. Đặc sắc nghệ thuật.

– Sử dụng từ ngữ đặc sắc, văn phong tao nhã.

– Thể loại bút kí mềm mại, giàu sức biểu cảm.

– Văn phong hướng nội, súc tích, tinh tế và tài hoa

– Sức liên tưởng phong phú, vốn hiểu biết phong phú trên nhiều lĩnh vực

– Ngôn ngữ phong phú, giàu hình ảnh, giàu chất thơ, sử dụng các biện pháp tu từ (so sánh, nhân hóa…)

– Có sự kết hợp hài hòa giữa cảm xúc và trí tuệ, chủ quan và khách quan

III. Kết bài:

Với văn phong hướng nội, súc tích, hình ảnh giàu sức liên tưởng, ngôn ngữ phong phú, giàu chất thơ,… bài kí cho chúng ta cảm nhận sâu sắc vẻ đẹp của dòng sông Hương thơ mộng, trữ tình, cái nôi của nền văn hóa Huế. Sông Hương thực sự trở thành “gấm vóc” của giang sơn tổ quốc.Bài kí góp phần bồi dưỡng tình yêu, niềm tự hào đối với dòng sông và cũng là với quê hương, đất nước.

Bài văn tham khảo:

I. Nhận xét về nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường.

– Nhà văn Nguyễn Tuân: Ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường có “rất nhiều ánh lửa”.

– Nhà nghiên cứu Trần Đình Sử: “Bút ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường là một cuộc đi tìm cội nguồn, một sự phát hiện bề dày văn hoá và lịch sử của các điều kiện đời sống… Văn anh giàu những tư liệu lấy từ sử sách tri thức khoa học và huyền thoại kí ức cá nhân loé lên những ánh sáng bất ngờ… Cái mới của Hoàng Phủ Ngọc Tường là khám phá bình diện văn hoá với tư liệu lịch sử phong phú và một tâm hồn Huế nồng nàn”.

–  Nhà văn Nguyên Ngọc: Trong một cuốn sách gần đây của anh, viết và in ngay giữa những ngày anh đang vật lộn với cơn bệnh nặng-chứng tỏ ở anh một đức tính dũng cảm và một nghị lực phi thường của một người lao động nghệ thuật-anh tự coi mình là “người ham chơi”. Quả thật, anh là một người ham sống đến mê mải, sống và đi, đi để được sống, với đất nước, với nhân dân, với con người, đi say mê và say mê viết về họ…

– Nhà thơ Hoàng Cát: Hoàng Phủ Ngọc Tường có một phong cách viết bút ký văn học của riêng mình. Thế mạnh của ông là tri thức văn học, triết học, lịch sử, địa lý sâu và rộng, gần như đụng đến vấn đề gì, ở thời điểm nào và ở đâu thì ông vẫn có thể tung hoành thoải mái ngòi bút được…

– Nhà thơ Ngô Minh: Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trong số rất ít nhà văn viết bÚt ký nổi tiếng ở nước ta vài chục năm nay. BÚt ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường hấp dẫn người đọc ở tấm lòng nhân văn sâu sắc, trí tuệ uyên bác và chất Huế thơ huyền hoặc, quyến rũ. Đó là những trang viết tài hoa, tài tử, tài tình…Thực ra, bút ký Hoàng Phủ Ngọc Tường chính là những áng thơ văn xuôi cuốn hÚt người đọc…thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường là vẻ đẹp của nỗi buồn hoài niệm, những day dứt triết học, từ sâu thẳm thời gian, sâu thẳm đất đai vọng lên trong tâm khảm người đọc. Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo cho rằng thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường thấm đẫm “triết học về cái chết…thơ anh buồn mỗi nỗi buồn đứt ruột…Đấy là thơ của cõi âm”… Đó là một nhận xét xác đáng.

– Trên báo mạng vnexpress: Dường như trong suốt cuộc đời mình, Hoàng Phủ Ngọc Tường bị ám ảnh bởi hoa. Điều đó, dÙ Cuộc đời lận đận những ngày tù Cộng với những năm tháng bôn ba khắc nghiệt của chiến tranh vẫn không tước đoạt nổi của ông…Ông viết rất nhiều về hoa và đặc biệt, ông bị ám ảnh bởi sắc diện phÙ dung.

II. Sông Hương qua bút kí Hoàng Phủ Ngọc Tường.

– Với tất cả vẻ đẹp của tự nhiên, dòng sông Hương lặng lờ đã đi vào những trang văn, những áng thơ, trở thành biểu tượng đẹp đẽ của xứ Huế. Một trong số đó có bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường.

Trong bút ký Ai đã đặt tên cho dòng sông?, với tất cả tình yêu của một người con xứ Huế, với sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và tính trữ tình, với một vốn kiến thức phong phÚ Về triết học, văn hóa, lịch sử, địa lí và bằng một lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm và tài hoa, Hoàng Phủ Ngọc Tường thực sự đã làm sống dậy toàn bộ vẻ đẹp tình tứ, quyến rũ của dòng sông Hương.

Sông Hương từ góc nhìn địa lí.

Sông Hương bắt nguồn từ dãy núi Trường Sơn, với hai dòng chính, đó là dòng Tả Trạch và dòng Hữu Trạch. Hai dòng này gặp nhau tại ngã ba Bằng Lãng. Từ Bằng Lãng đến cửa sông Thuận An, sông Hương dài 33 km và chảy rất chậm, bởi vì mực nước sông ở đây không cao hơn mấy so với mực nước biển. Từ nguồn về, sông Hương chảy quanh các chân núi, xuyên qua các cánh rừng rậm của hệ thực vật nhiệt đới. Con sông chảy chậm qua các làng mạc như Kim Long, Nguyệt Biều, Vĩ Dạ, Gia Hội, Bao Vinh… Hai bên bờ sông gồm thành quách, cHùa chiền, tháp và đền đài.

Trong bài bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? Hoàng Phủ Ngọc Tường, một mặt trung thành với việc tái hiện chính xác thực tại, trên cơ sở những hiểu biết thấu đáo về đặc điểm địa lí của sông Hương, nhưng mặt khác, nhà văn cũng đã làm cho hình tượng sông Hương sống dậy cụ thể, sinh động và rất có hồn nhờ những sáng tạo đặc sắc trong nghệ thuật liên tưởng, so sánh, ẩn dụ, nhân hóa… và bằng một lối hành văn đậm chất trữ tình.

Mở đầu bài bút kí, sông Hương hiện hình ở nơi thượng nguồn với vẻ đẹp thơ mộng nhưng rất hùng vĩ: Trước khi về đến vùng châu thổ êm đềm, nó đã là một bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như những cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn, và cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi của hoa đỗ quyên rừng.

Ở nơi khởi nguồn của dòng chảy, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã ví sông Hương với một hình ảnh mang nhiều sức gợi – bản trường ca của rừng già. Hình ảnh so sánh ấy được đặt trong một câu văn dài, được chia làm nhiều vế, có sử dụng thủ pháp điệp cấu trúc (rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn/ mãnh liệt qua những ghềnh thác/ cuộn xoáy như những cơn lốc…) vừa để gợi dậy cái dư vang của trường ca, vừa tạo nên âm hưởng hùng tráng, mạnh mẽ của con sông giữa rừng già.

Nơi đây, sông Hương còn được hình dung như một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại với bản lĩnh gan dạ, tâm hồn tự do và trong sáng. Cô gái ấy, dòng sông ấy thật đẹp, một vẻ đẹp quyến rũ và đắm say.

Ở góc nhìn khác, sông Hương ở thượng nguồn còn được Hoàng Phủ Ngọc Tường ví như người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở. Với biện pháp nhân hóa này, người con xứ Huế đã xem sông Hương như một đấng sáng tạo góp phần tạo nên, gìn giữ và bảo tồn văn hóa của một vùng thiên nhiên, xứ sở. Đây là một phát hiện độc đáo về sông Hương chỉ có thể có ở một người gắn bó và am tường về mảnh đất cố đô.

Như vậy, bằng tình yêu và niềm tự hào với dòng sông quê hương, với trí tưởng tượng phong phú Và khả năng khám phá tài tình, độc đáo, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã miêu tả dòng sông Hương ở khúc thượng nguồn trong vẻ đẹp hoang dại, nguyên sơ và đầy cá tính.

Trước khi đi tới nơi gặp thành phố tương lai của nó, sông Hương đã phải vượt qua một hành trình đầy gian truân và thử thách với những núi Ngọc Trản, những đồi Tam Thai, Lựu Bảo, Thiên Mụ… Nhưng chính trong thủy trình không bằng phẳng ấy, qua cách miêu tả tài hoa và cái nhìn phát hiện của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương lại có cơ hội phô khoe tất cả những vẻ đẹp của mình, từ những đường cong tuyệt mĩ trên thân hình mềm mại, kiều diễm, cho đến những đắm đuối, nồng nàn trong tâm hồn người con gái đang khát khao tìm đến tình yêu.

Người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại sau khi được đánh thức đã chuyển dòng một cách liên tục, vòng giữa khÚC quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm. Trong hành trình qua điện Hòn Chén; vấp Ngọc Trản, qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ để xuôi dần về Huế, có khi người ta nhìn thấy dòng sông mềm như tấm lụa. Soi bóng xuống dòng sông là những mảng phản quang nhiều màu sắc, “Sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”…

Có thể thấy, bằng một lối hành văn uyển chuyển, ngôn ngữ đa dạng và giàu hình ảnh, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã diễn tả một cách sinh động và hấp dẫn từng bước đi của sông Hương. Mỗi đường đi nước bước của nó gắn với những địa danh khác nhau của xứ Huế đã được nhà văn giành cho một cách diễn đạt riêng. Hoàng Phủ Ngọc Tường không chỉ tái hiện lại một cách chân thực dòng chảy tự nhiên trên bản đồ địa lí của dòng sông Hương mà quan trọng hơn là đã biến thủy trình ấy thành một hành trình của người con gái đẹp. Nhờ đó mà cùng với hành trình về xuôi của sông Hương, người đọc được đi từ hết phát hiện này sang ngạc nhiên khác.

Sau khi trải qua một cuộc tìm kiếm có ý thức, sông Hương đã đến được với thành phố thân yêu của mình. So với thủy trình ở thượng lưu và ở ngoại vi thành phố Huế, đến đây, sông Hương đã mang những vẻ đẹp mới, độc đáo và hiếm thấy ở các dòng sông khác trên thế giới.

Ngay khi giáp mặt thành phố ở Cồn Giã Viên, sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến; đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu. Cùng với những nhánh sông đào mang nước sông Hương tỏa đi khắp phố thị, lại thêm hai hòn đảo nhỏ trên sông đã làm giảm hẳn lưu tốc của dòng nước, khiến cho sông Hương khi qua thành phố đã trôi đi chậm, thực chậm, cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh. Từ đặc điểm địa lí này, Hoàng Phủ Ngọc Tường bỗng nhận ra cái lặng lờ của sông Hương khi ngang qua thành phố, nó như điệu slow tình cảm giành riêng cho Huế. Điệu chảy lững lờ ấy bởi nó quá yêu thành phố của mình, nó muốn được nhìn ngắm nhiều hơn nữa thành phố thân thương trước khi phải chia xa.

Viết về sông Hương giữa lòng thành phố, Hoàng Phủ Ngọc Tường không quên những nét đẹp văn hóa gắn liền với dòng sông thơ mộng này. Một trong số đó là những đêm trình diễn âm nhạc cổ điển Huế. Ở góc nhìn âm nhạc này, tác giả gọi sông Hương là người tài nữ đánh đàn lÚC đêm khuya. Toàn bộ nền âm nhạc ấy, trong cảm nhận của tác giả, chỉ thực sự là nó khi sinh thành trên mặt nước của Hương Giang trong một khoang thuyền nào đó, giữa những tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya.

Khi rời khỏi kinh thành, sông Hương chếch về hướng chính bắc, chảy vòng qua đảo Cồn Hến, xuôi về Vùng ngoại ô Vĩ Dạ, rồi đổi dòng, rẽ ngoặt sang hướng đông tây, đi qua một góc của thành phố Huế ở thị trấn Bao Vinh xưa cũ. Từ đặc điểm địa lí này, qua con mắt của người nghệ sĩ, sông Hương lại hiện lên như một cô gái với nỗi niềm vương vấn trước lúc chia xa. Có khi, nó ôm lấy đảo Cồn Hến quanh năm mơ màng trong sương khói, đang xa dần thành phố để lưu luyến ra đi giữa màu xanh biếc của tre trúc và của những vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ; có lúc, như sực nhớ lại một điều gì chưa kịp nói, nó đột ngột đổi dòng, rẽ ngoặt sang hướng đông tây để gặp lại thành phố lần cuối.

Ở ngã rẽ cuối cùng của sông Hương, từ Vĩ Dạ đến thị trấn Bao Vinh xưa cũ được Hoàng Phủ Ngọc Tường nhìn như một cuộc gặp gỡ thực bất ngờ biết bao. Tác giả còn gọi đấy là nỗi vương vấn, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu. Liên tưởng sâu xa hơn, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã hình dung giống như nàng Kiều trong đêm tình tự, ở ngã rẽ này, sông Hương đã chí tình trở lại tìm Kim Trọng của nó, để nói một lời thề trước khi về biển cả: “Còn non, còn nước, còn dài, còn về, còn nhớ…”. Đây đúng là một phát hiện, một tưởng tượng thú Vị, độc đáo của người con xứ Huế về dòng sông quê hương mình.

Miêu tả sông Hương trong thủy trình từ thượng lưu về thành phố Huế rồi đổ ra biển, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tiếp cận dòng sông từ nhiều không gian và thời gian khác nhau. Ở mỗi góc độ, nhà văn đã phát hiện ra những vẻ đẹp riêng, độc đáo, mới lạ và thể hiện một cảm nghĩ sâu sắc về con sông đã trở thành biểu tượng của Huế. Từ mỗi góc nhìn, qua giọng điệu thiết tha, say đắm trong mỗi trang văn, chúng ta có thể dễ dàng nhận ra tình cảm yêu mến, gắn bó sâu nặng và cả niềm tự hào của nhà văn về vẻ đẹp của sông Hương, vẻ đẹp tự nhiên và mang đậm màu sắc văn hóa của dòng sông quê hương.

Sông Hương trong lịch sử và thơ ca.

Tùy bút Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường không chỉ đem lại cho người đọc những hiểu biết về sông Hương trên phương diện địa lí, mà còn giúp chúng ta hiểu hơn về lịch sử gắn với một dòng sông, với một thành phố; nhận ra vẻ giản dị của con sông trong cuộc sống đời thường; thấy được sức sống của nó trong cảm hứng thi ca.

Sông Hương và thành phố Huế từng có một bề dày lịch sử hết sức oai Hùng. Thuở còn là dòng sông biên thùy xa xôi của đất nước các vua Hùng, sông Hương đã sống những thế kỉ vinh quang với nhiệm vụ lịch sử của nó. Qua những thế kỉ trung đại, dòng sông viễn châu mang tên Linh Giang đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía nam Tổ quốc Đại Việt.

Thế kỉ mười tám, nó vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ. Ở thế kỉ mười chín, sông Hương sống hết lịch sử bi tráng với máu của những cuộc khởi nghĩa. Từ đấy, sông Hương đã đi vào thời đại Cách mạng tháng Tám bằng những chiến công rung chuyển. Và cùng với sự cổ vũ nồng nhiệt giành cho nó trong mùa xuân Mậu Thân, Huế đã nhận được những lời chia buồn sâu sắc nhất của thế giới về sự tàn phá mà đế quốc Mĩ đã chụp lên những di sản văn hóa của nó.
Trong lịch sử, sông Hương thật hùng tráng, nhưng trong đời thường dòng sông ấy lại mang một vẻ đẹp thật giản dị. Khi nghe lời kêu gọi của Tổ quốc, sông Hương biết cách tự hiến đời mình làm một chiến công, nhưng khi cuộc sống đời thường, nó lại làm một người con gái dịu dáng của đất nước. Con sông ấy mang cái dáng dấp, vẻ đẹp của đất nước và con người Việt Nam suốt mấy nghìn năm qua – Đạp quân thù xuống đất đen/ Súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa (Nguyễn Đình Thi).

Với tất cả vẻ đẹp độc đáo và đa dạng của một con sông không bao giờ tự lặp lại mình nên sông Hương có khả năng khơi nguồn cảm hứng cho người nghệ sĩ, đặc biệt là các nhà thơ. Bởi vậy, đã có một dòng thi ca về sông Hương. Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng đã phát hiện ra, mỗi nhà thơ đều có một khám phá riêng về dòng sông ấy: từ xanh biếc thường ngày, nó bỗng thay màu thực bất ngờ, “Dòng sông trắng – lá cây xanh” trong cái nhìn tinh tế của Tản Đà, từ tha thướt mơ màng nó chợt nhiên hùng tráng lên “như kiếm dựng trời xanh” trong khí phách của Cao Bá Quát; từ nỗi quan hoài vạn cổ với bóng chiều bảng lảng trong hồn thơ Bà Huyện Thanh Quan, nó đột ngột khởi thành sức mạnh phục sinh của tâm hồn, trong thơ Tố Hữu…

III. Kết luận:

“Ai đã đặt tên cho dòng sông?” có thể xem là thành quả kết tinh và tổng hòa đẹp đẽ của một tình yêu say đắm đối với dòng sông, với quê hương xứ sở và tài năng của một cây bút giàu trí tuệ, am hiểu sâu rộng về văn hóa, lịch sử, địa lí và văn chương cùng một sức liên tưởng, tưởng tượng phong phú, độc đáo của một nhà văn chuyên về bút kí – Hoàng Phủ Ngọc Tường. Dưới con mắt khám phá của nhà văn xứ Huế này, những góc nhìn đa sắc về sông Hương đã dẫn người đọc vào hành trình khám phá với nhiều bất ngờ, thú Vị. Mỗi trang văn đều được dệt nên bởi một kho từ vựng phong phú, uyển chuyển và rất giàu hình ảnh.
Giọng văn đầy biến hóa, khi tha thiết, ngân vang, khi bâng khuâng, xao xuyến, khi dịu dàng, đằm thắm. Đó thực sự là dòng cảm xúc tuôn chảy đầu ngọn bút trước vẻ đẹp của quê hương đất nước. Tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường là ở chỗ, nhà văn đã truyền được cảm xúc của mình vào trong từng từ ngữ, từng hình ảnh, từng câu văn, để từ đó nối kết, lan tỏa cảm xúc tới người đọc. Sức sống của một tác phẩm văn học, thực sự phải bắt nguồn từ xúc cảm và thăng hoa cùng tài năng nghệ thuật.

Xem thêm:

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.