Phân tích bài thơ “Chiều tối” của Hồ Chí Minh.
- Mở bài:
“Chiều tối” (Mộ) là bài thớ thứ 31 của tập “Nhật ký trong tù”, một tập thơ xuất sắc của Hồ Chí Minh. Cảm hứng sáng tác của bài thơ được gợi lên trên đường chuyển lao từ Tĩnh Tây đến Thiên Bảo vào cuối thu.
- Thân bài:
1. Hai câu đầu: Bức tranh thiên nhiên.
* Câu 1: “Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ”.
– Lúc hoàng hôn, không dùng từ ngữ tả cảnh chiều nhưng người đọc vẫn cảm nhận được khung cảnh vào buổi chiều à tài năng của nhà thơ.
– Hình ảnh cánh chim mỏi mệt bay về rừng tìm nơi chốn ngủ hoà trộn màu sắc cổ điển và hiện đại.
+ Màu sắc cổ điển thể hiện ở thể thơ tứ tuyệt, hình ảnh ước lệ, tượng trưng, nghệ thuật điểm xuyết quen thuộc trong thơ ca trung đại.
+ Màu sắc hiện đại: lấy sự vận động của con làm hình tượng thơ, lấy con người làm đối tượng trung tâm cho bức tranh thiên nhiên.
– Nếu trong thơ xưa gắn với bóng chiều những nơi vô định à sự xa xăm, chia lìa, phiêu bạt, sự tan biến vào hư vô thì hình ảnh thơ trong bài thơ này có mục đích có phương hướng, điểm dừng rõ ràng. Thế giới siêu hình thu về với thực tại trong ánh mắt trìu mến. Miêu tả trạng thái vận động bên ngoài đối lập cảm nhận trạng thái ở bên trên. Như vậy, thế giới vận động có sự tương đồng với cảnh ngộ và tâm hồn của Bác. Bắc dành tình yêu thương vô bờ với mọi vật trên thế gian.
* Câu 2: “Cô vân mạn mạn độ thiên không”.
– Hình ảnh chòm mây cô đơn trôi lững lờ trên tầng không vừa cổ điển vừa hết sức hiện đại.
+ Màu sắc cổ điển: thi liệu quen thuộc trong thơ Đường. Ý thơ biểu đạt cô đơn giữa bầu trời, phiêu diêu, khắc khoải, hư vô. “Mạn mạn” à thần thái của cảnh, phong thái của người trong khoảnh khắc thi sĩ.
+ Màu sắc hiện đại: cô đơn, lẻ lợi nhấn mạnh không gian lửng lờ à càng cô đơn lẻ loi hơn, gợi sự liên tưởng tương đồng với cảnh ngộ của Bác, mất phương hướng.
– Bức tranh tâm cảnh không còn là ngoại cảnh.
+ Tù nhân mỏi mệt, cô đơn.
+ Sự mất phương hướng vô định của chòm mây.
+ Tình yêu thiên nhiên của thi nhân.
+ Bản lĩnh kiên cường của người chiến sĩ.
2. Hai câu cuối: Bức tranh sinh hoạt của con người.
– Hình ảnh con người trở thành trung tâm của bức tranh.
– Thiếu nữ xóm núi đang xay ngô à tỏa sáng lấp lánh vẻ đẹp:
+ Vẻ đẹp của tuổi trẻ: “Thiếu nữ” là biểu hiện của sức sống căng tràn.
+ Vẻ đẹp của công việc lao động bình dị, đời thường: gắn liền với công việc khỏe khoắn, chạy đua với thời gian; Điệp ngữ vòng “ma bao túc” liên hoàn nhịp nhàng không dứt của công việc xay ngô thể hiện phẩm chất người lao động: cần cù, cần mẫn.
+ Quan điểm mỹ học mới mẻ: Giữa con người và thiên nhiên: con người xuất hiện ở rừng, chiều tối. Con người trở thành hình ảnh trung tâm, không tan biến giữa thiên nhiên.
– Nét vẽ cổ điển: bút pháp dùng sáng nói tối, dùng hình ảnh lò than rực hồng để tái hiện bóng tối đang sập xuống, lò than sẽ nổi bật đỏ hẳn, rực sáng.
– Nét vẽ hiện đại: “hồng” là nhãn tự của bài thơ, sức nặng dồn vào từ “hồng” chuyển từ thời gian buổi chiều à buổi tối, từ lạnh lẽo à ấm áp do lò than, tình người, từ cô đơn à sum vầy. Từ nỗi buồn sang niềm vui, từ bóng tối sang ánh sáng, nhân sinh quan tích cực.
- Kết bài:
Bằng bút pháp gợi tả thiên nhiên, kết hợp hài hòa màu sắc cổ điển và hiện đại, bài thơ vẽ nên bức tranh thiên nhiên và bức tranh sinh hoạt ấm áp, tràn đầy sức sống, qua đó thể hiện vẻ đẹp tâm hồn, hướng về sự sống và ánh sáng, lạc quan gắn với nhân ái.
Tham khảo:
Phân tích bài thơ “Chiều tối” của Hồ Chí Minh.
- Mở bài:
Hồ Chí Minh là nhà lãnh tụ vĩ đại, nhà quân sự thiên tài, nhà ngoại giao kiệt xuất, nhà văn, nhà thơ xuất sắc, anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. Tập thơ “Nhật kí trong tù” là một viên kim cương chói lọi trong bầu trờ văn học cách mạng Việt Nam thế kỉ 20. Tác phẩm được viết dưới dạng một cuốn nhật ký bằng thơ ghi lại những chặng đường giải lao đầy gian nan vất vả của người tù. Nhưng bằng bản lĩnh thép, tinh thần thép Người đã vượt qua hoàn cảnh tù đày để hướng về ánh sáng. Bài thơ “Chiều tối” là một trong những sáng tác tiêu biểu nhất của tập “Nhật ký trong tù”. Tác phẩm được xem là áng thơ tuyệt bút, vừa mang phong vị vừa cổ điển vừa hết sức hiện đại, được Người làm trên đường chuyển lao từ Tĩnh Tây đến Thiên Bảo:
“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa từng không
Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng”.
- Thân bài:
Bài thơ mở đầu bằng bức tranh thiên nhiên buổi chiều tà trên đường Bác bị giải lao. Chỉ vài nét chấm phá, hai câu đầu của bài thơ đã để lại một tiểu họa về cảnh thiên nhiên vùng sơn cước ở thời điểm “chiều tối” mang phong vị cổ điển rõ nét.
“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa từng không”
Thiên nhiên hiện lên với hai nét chấm phá: cánh chim và áng mây mang màu sắc cổ thi rõ nét. Hai hình ảnh ấy tạo nên bầu không gian khoáng đãng, cao rộng, thể hiện điểm nhìn lên của tác giả “luôn ngẩng cao đầu trong hoàn cảnh tù đày”. Buổi chiều ấy dường như ta đã bắt gặp đâu đó trong thơ xưa: “Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà” hay “Chiều tà bảng lảng bóng hoàng hôn” (Bà Huyện Thanh Quan). Cánh chim và chòm mây vốn là những thi liệu rất quen thuộc trong thơ cổ thường dùng để miêu tả cảnh chiều tối như một bút pháp miêu tả thời gian. Lý Bạch trong bài thơ “Độc Tọa Kính Đình san” cũng đã từng viết:
“Chúng điểu cao phi tận
Cô vân độc khứ nhàn”
(Chim trời bay đi mất
Mây lẻ trôi một mình)
Điều mới mẻ có tính hiện đại ở đây là nếu như trong thơ cổ, cánh chim thường bay về chốn vô tận vô cùng, vô định, gợi cảm giác xa xăm, phiêu dạt, chia lìa, mang cái buồn thương u uẩn thì cánh chim trong thơ Bác lại gần gũi yêu thương hơn bao giờ hết. Nó chỉ là cánh chim tìm về tổ ấm sau một ngày dài mỏi mệt kiếm ăn. Cái hay nằm ở chỗ, nhìn cánh chim bay mà thấy được “quyện điểu”, thấy được trong dáng bay của cánh chim có sự mỏi mệt của nó. Nghĩa là nhà thơ nhìn thấy được sự vận động bên trong của cánh chim kia. Đây chính là tình cảm nhân đạo của Hồ Chí Minh.
Cái nhìn ấy thể hiện tình cảm nhân ái bao la của Người đối với cảnh vật. Đúng như Tố Hữu đã từng viết “Bác ơi tim Bác mênh mông thế/ Ôm cả non sông mọi kiếp người”. Qua bài thơ Chiều tối, ta thấy thêm một nét nghĩa mới: người tù dường như cũng đồng cảm với cánh chim kia, Người như cũng muốn được dừng chân sau một ngày đày ải “Năm mươi ba cây số một ngày/ Áo mũ dầm mưa rách hết giày”.
Cùng với “quyện điểu quy lâm” (chim mỏi tìm về rừng), là “cô vân mạn mạn” (chòm mây trôi nhẹ nhàng). Bài thơ dịch khá uyển chuyển, nhưng đã làm mất đi vẻ lẻ loi, trôi nổi, lững lờ của đám mây. Người dịch đã bỏ sót chữ “cô” và chưa thể hiện được hết nghĩa của hai từ láy “mạn mạn”. Căn cứ vào phần nguyên âm ta thấy, hình ảnh đám mây cô đơn, lẻ loi đang chầm chậm trôi qua bầu trời. Nó không chỉ làm cho bầu trời thêm cao, thêm khoáng đãng mà còn gợi lên nỗi buồn bâng khuâng của người tù nơi đất khách quê người. Nhưng buồn mà không bi lụy, không hiu hắt như trong thơ cổ điển.
Mặc dù câu thơ dịch: “Chòm mây trôi nhẹ giữa từng không” chưa được sát nghĩa nhưng dù sao cũng thấy cái hay riêng của nó. Chòm mây trôi nhẹ nhàng, nhàn tản như chính tâm hồn người tù chiến sĩ ung dung tự tại, bị giải tù mà như đang thưởng ngoạn cảnh trời chiều và thả tâm hồn thi sĩ chứ không còn là cảnh tù đày mệt mỏi nữa. Qua đó ta thấy tác giả không hề để lộ cái mệt mỏi, cô đơn của chính mình.
Nhìn chung, hai câu đầu bài thơ có phảng phất nỗi buồn của lòng người, của tâm trạng người tù nhưng cảnh buồn mà không chút bi lụy. Những buổi chiều như vậy, đâu có thiếu trong văn chương cổ kim; nhưng nếu cảnh ấy qua cái nhìn của một Lý Bạch tiêu diêu, một Khuất Nguyên u uất chắc chắn sẽ đầy ảm đạm, thê lương. Còn ở đây, nếu không rõ xuất xứ, nhiều người sẽ lầm tưởng “Mộ” (Chiều tối) là bài thơ của thời Thịnh Đường.
Cảnh chiều tà nơi vùng sơn cước có chút hiu hắt vắng lặng gợi lên cái bâng khuâng man mác trong lòng người đọc nhưng sự biến chuyển của hai câu sau nhanh chóng xóa đi cái hiu hắt vốn có của núi rừng. Đó chính là lúc mà đôi mắt yêu thương và trái tim nhân ái bao la của Người bắt gặp vẻ đẹp của con người lao động:
“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng”
(Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hông)
Câu thơ nguyên bản “sơn thôn thiếu nữ” dịch là “cô em xóm núi” đứng trên bình diện nghĩa của từ thì không có gì sai. Nhưng câu thơ dịch đã không thể hiện được cái nhìn trân trọng của nhân vật trữ tình đối với con người; giọng điệu trang trọng của câu thơ nguyên tác không hiện diện trong lời thơ dịch.
Hình ảnh người phụ nữ nhưng thơ Bác lại viết về người dân lao động với cái nhìn trân trọng yêu thương mang niềm vui của tấm lòng nhân đạo. Hai chữ “thiếu nữ” gợi lên vẻ trẻ trung, tươi tắn của cô gái cùng với hoạt động xay ngô đã làm hiện lên vẻ đẹp khỏe khoắn, nhịp nhàng trong lao động. Hình ảnh này đã làm xôn xao cả buổi chiều cô quạnh mang đến cho bức tranh thơ sức sống và niềm vui lan tỏa.
Việc đặt hình ảnh “sơn thôn thiếu nữ” ở vị trí trung tâm của bức tranh phong cảnh chiều tối đã làm cho bức tranh thiên nhiên trở thành bức tranh về cuộc sống con người. Sự chuyển đổi ấy thể hiện một khuynh hướng vận động của hình tượng thơ và quan điểm nhân sinh của Bác. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, Hồ Chí Minh cũng gắn bó với cuộc sống con người nơi trần thế đặc biệt là cuộc sống nhân dân lao động”.
Tính hiện đại ở đây nữa chính là nghệ thuật biểu hiện. Tài hoa của Người là ở chỗ tả cảnh thiên nhiên, tả cảnh chiều tối mà không phải dùng đến một tính từ chỉ thời gian nào. Cả bài thơ không hề có chữ tối nào cả mà người đọc vẫn nhận ra chữ tối. Người dùng ánh lửa đỏ để thể hiện thời gian (trời có tối mới nhìn thấy lò than rực hồng). Hơn nữa, người đọc còn cảm nhận được bước đi của thời gian từ chiều đến tối. Cô gái xay ngô từ khi trời còn ánh sáng; xay xong thì trời đã tối.
Điệp ngữ liên hoàn (điệp ngữ vòng) “ma bao túc – bao túc ma hoàn” đã cho ta cảm nhận được thời gian đang vận động đang xoay theo từng vòng quay của cối xay ngô. Phải chăng Hồ Chí Minh đã có một phát hiện mới trong bút pháp tả thời gian. Rõ ràng, ngay cả khi tả cảnh chiều tối, thơ Hồ Chí Minh vẫn có sự vận động từ bóng tối ra ánh sáng. Vòng quay của chiếc cối chấm dứt, công việc kết thúc (bao túc ma hoàn) thì lò than cũng vừa đỏ (lô dĩ hồng), ánh lửa đỏ ấm nồng xuất hiện thật bất ngờ, tỏa sáng vào đêm tối xua tan đi cái lạnh lẽo hiu hắt của núi rừng. Đó cũng là lúc mà cô gái kia được quây quần bên mâm cơm ấm cúng của gia đình.
Chữ “hồng” nằm ở cuối bài thơ nhưng có một vị trí đặc biệt. Trong nghệ thuật Đường thi, chữ hồng được xem là nhãn tự là con mắt thần. Nó tạo nên cái thần thái đặc biệt cho bài thơ. Hoàng Trung Thông nhận xét rằng: “Với một chữ “hồng”, Bác đã làm sáng rực lên toàn bộ bài thơ, đã làm mất đi sự mệt mỏi, sự uể oải, sự vội vã, sự nặng nề đã diễn ra trong ba câu đầu, đã làm sáng rực lên khuôn mặt của cô em sau khi xay xong ngô tối.
Chữ “hồng” trong nghệ thuật thơ đường người ta gọi là “con mắt thơ” (Thi nhãn hoặc là nhãn tự). Với chữ “hồng” đó có ai còn cảm giác nặng nề, mệt mỏi, nhọc nhằn nữa đâu, mà chỉ thấy màu đỏ đã nhuốm lên cả bóng đêm, cả thân hình, cả lao động của cô gái đáng yêu kia. Đó là màu đỏ tình cảm Bác”.
Như vậy chữ “hồng” rất xứng đáng là “ông thánh thứ hai mươi tám” của bài thơ. Ánh hồng ấy không chỉ tỏa ra từ chiếc bếp lửa bình dị của một “sơn thôn thiếu nữ” mà chủ yếu được tỏa ra từ tấm lòng nhân ái, tinh thần lạc quan của Hồ Chí Minh. Về nét nghĩa khác, chữ “hồng” còn là biểu hiện của cuộc vận động từ bóng tối ra ánh sáng. Thơ Hồ Chí Minh bao giờ cũng vậy, luôn hướng về ánh sáng. Trong bài thơ Tảo giải, chữ Hồng ấy cũng đã từng xuất hiện:
“Phương Đông màu trắng chuyển sang hồng
Bóng tối đêm tàn sớm sạch không”
Chữ hồng ấy với chữ hồng trong “Chiều tối” có cùng một nét nghĩa là chỉ ánh sáng, chỉ niềm vui, sự lạc quan của người tù. Con đường cách mạng Việt Nam cũng vậy đi từ trong đêm trường nô lệ, đi trong chông gai để đến với con đường vinh quang.
“Đầu tường sớm sớm vầng dương mọc,
Chiếu cửa nhà lao, cửa vẫn cài;
Trong ngục giờ đây còn tối mịt,
Ánh hồng trước mặt đã bừng soi”.
(Nhật ký trong tù)
Thành công của bài thơ chính là yếu tố cổ điển kết hợp với hiện đại, sử dụng hình ảnh thơ giản dị, mộc mạc. Ngoài ra, thành công của bài thơ còn là bút pháp tả cảnh ngụ tình, lấy động tả tĩnh, các biện pháp tu từ như: điệp ngữ vòng, ẩn dụ, bút pháp miêu tả thời gian.
- Kết bài:
Bài thơ “Chiều tối” để lại trong lòng độc giả vẻ đẹp về một bức tranh thiên nhiên vùng sơn cước qua những nét vẽ vừa cổ thi vừa hiện đại. Bài thơ đã làm người đọc xúc động trước tình cảm nhân ái bao la của người tù chiến sĩ cộng sản Hồ Chí Minh dù trong hoàn cảnh tù đày nơi đất khách quê người nhưng Người vẫn vượt lên trên tất cả mọi sự khổ đau, đọa đày vè thể xác để đưa đến cho người đọc những vần thơ tuyệt bút.