phan-tich-bai-tho-song-cua-xuan-quynh

Dàn bài phân tích bài thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh

Dàn bài phân tích bài thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh

  • Mở bài:

– Xuân Quỳnh (1942- 1988) là một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất của thế hệ các nhà thơ trẻ thời chống Mĩ cứu nước. Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của một phụ nữ nhiều trắc ẩn, vừa hồn nhiên, tươi tắn, vừa chân thành, đằm thắm và luôn da diết trong khát vọng về hạnh phúc đời thường.

– Sóng được sáng tác năm 1967 trong chuyến đi thực tế ở vùng biển Diêm Điền (Thái Bình), là một bài thơ đặc sắc viết về tình yêu, rất tiêu biểu cho phong cách thơ Xuân Quỳnh. Bài thơ là sự cảm nhận về tình yêu từ hình tượng sóng với tất cả những sắc thái, cung bậc (nỗi nhớ, sự thủy chung, trắc trở) và cả khát vọng vĩnh cửu hóa tình yêu của một tâm hồn phụ nữ luôn chân thành, khát khao hạnh phúc. Tình yêu là cái đẹp, cái cao cả giúp con người hoàn thiện và sống chan hòa, có ích giữa cuộc đời.

  • Thân bài:

1. Nhận thức về tình yêu qua hình tượng “sóng” (Hai khổ thơ 1,2):

“Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
(….)
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ “

+ Các tính từ đối lập: dữ dội >< dịu êm; ồn ào >< lặng lẽ. + Liên từ “và” -> liệt kê, gợi sự liên tiếp, cộng hưởng hai tính từ tương phản → Sóng với đặc tính trái ngược, bất thường.

+ Hình ảnh ẩn dụ nhân hóa: Sóng tìm ra bể → Từ bỏ không gian chật hẹp, tầm thường để vươn ra biển lớn, thỏa sức khám phá → Khát khao mạnh mẽ.

+ Các cặp từ chỉ quan hệ thời gian và khẳng định: ngày xưa – ngày sau = vẫn thế → quy luật muôn đời của Sóng cũng như quy luật của tình yêu.

→ “Sóng” và “Em” song trùng, hòa hợp: trạng thái đối lập, nghịch lí; khao khát khám phá, vươn tới một tình yêu lớn lao, cao đẹp. Khát vọng tình yêu luôn trẻ trung.

⇒ Tác giả đưa ra những trạng thái cảm xúc trong hình tượng sóng cũng giống như những cung bậc tình cảm phong phú, những trạng thái cảm xúc đối cực phức tạp của người phụ nữu khi yêu. Qua đó, nhà thơ thể hiện quan niệm mới về tình yêu: yêu là tự nhân thức, là vươn tới cái rộng lớn, cao xa. Qua đó là lời khẳng định khát vọng tình yêu cháy bỏng luôn thường trực trong trái tim tuổi trẻ. 

2. Những suy nghĩ, trăn trở về cội nguồn và quy luật của tình yêu (khổ thơ 3,4,5,6,7):

“Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh, em
(…)
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở “

– Khổ 3,4: “Sóng” và “Em” hòa nhập, tương đồng:

+ Giọng thơ trùng xuống ở khổ 3, dâng lên ở ba câu đầu của khổ 4 và lắng đọng ở câu cuối → nhịp điệu của Sóng.

+ Suy tư, triết lí, khám phá cội nguồn của Sóng và cội nguồn của tình yêu; thôi thúc khám phá sự bí ẩn không cùng của tự nhiên cũng như sự bí ẩn của tình yêu.

+ Câu hỏi tu từ liên tiếp → Khám phá nguồn cội của Sóng, của tự nhiên vô tận, không cùng.

+ Lời thú nhận chân thành: không biết khi nào ta yêu nhau Tình yêu chỉ có thể nhận thức bằng con tim, không thể cắt nghĩa bằng lí trí.

→ Người phụ nữ đang yêu bộc lộ vẻ đẹp nữ tính, dịu dàng, trong sáng, hồn nhiên, chân thành.

⇒ Sử dụng dày đặc các câu hơi tu từ “Từ nơi nào sóng lên?”, “Gió bắt đầu từ đâu?”: thể hiện mong muốn muốn tìm được cội nguồn của tình yêu, lí giải được tình yêu, khát khao hiểu được tình yêu, hiểu được bản thân mình và hiểu được người mình yêu. Thế nhưng tình yêu là bí ẩn, những trạng thái trong tình yêu luôn là những điều khó lí giải.

– Khổ 5:  Nỗi nhớ, lòng thủy chung son sắt của người con gái khi yêu:

+ Sóng và Em hòa nhập, bổ sung thêm “bờ” ; Khổ thơ dài hơn những khổ thơ khác trong bài; Nhịp thơ 2/3; 3/2 nhịp điệu của sóng dạt dào, miên man.

+ Phép liệt kê, lặp cú pháp, nhân hóa, liên tưởng: Sóng dù ở đáy sâu hay bề mặt vẫn ngày đêm không nghỉ vì nhớ bờ → Nỗi nhớ bao trùm không gian, thời gian.

+ Em: nhớ anh cả trong giấc mơ → Sóng và Em hòa nhập; giọng thơ dào dạt, mãnh liệt như những đợt sóng gối
lên nhau, hối hả vươn tới bờ.

– Yêu là nhớ, nỗi nhớ bao trùm không gian, thời gian, thường trực trong cả tiềm thức lẫn vô thức, da diết, cồn cào, lan tỏa, thấm sâu.

Nhận thức về tình yêu bằng sự trải nghiệm, bộc bạch chân thành.

⇒ Trong tình yêu nỗi nhớ là tình cảm chủ đạo. Nỗi nhớ bao trùm cả không gian, thời gian là nỗi nhớ da diết sâu đâm, khôn nguôi. Nhân vật trữ tình “em” hóa thân vào sóng để tự bộc lộ nỗi nhớ da diết, cháy bỏng của mình. Qua đó thể hiện lòng thủy chung, son sắt của người con gái trong tình yêu. Lòng thủy chung là sức mạnh để tình yêu vượt qua mọi khó khăn, thử thách để tới với bến bờ hạnh phúc. Lời khẳng định cho cái tôi của một con người luôn tin tưởng vào tình yêu.

– Khổ 6,7: Sự chung thủy trong tình yêu:

+ Phương bắc >< phương nam → đối lập, không gian xa cách (những thử thách, biến động của cuộc đời)

+ Em một phương (không gian có 4 phương, tình yêu chỉ có một phương)

+ Cách nói ngược hướng (xuôi Bắc ngược Nam) -> nhấn mạnh phương duy nhất – phương Anh → Yêu là thủy chung.

+ Quy luật của Sóng  → hướng vào bờ → hành trình tự nhiên.

+ Hành trình của Sóng – ẩn dụ cho tình yêu của Em: Sự thủy chung sẽ đưa tình yêu cập bến bờ hạnh phúc. Tình yêu vượt qua thử thách, bão tố → tình yêu đích thực.

– Sóng và em song hành, phân tách để chiếu rõ nhau: Yêu là thủy chung, là vượt qua thử thách, bão giông để cập bến bờ hạnh phúc

⇒ Quan niệm tình yêu vừa mang vẻ đẹp truyền thống vừa hiện đại, táo bạo, mạnh mẽ.

3. Khát vọng tình yêu vĩnh hằng, bất diệt (khổ thơ 8,9):

– So sánh “như” : biển rộng >< mây vẫn bay qua + Các cặp quan hệ từ: tuy – vẫn, dẫu – vẫn → đời người là hữu hạn, hạnh phúc là mong manh, thể hiện những suy tư, lo âu, trăn trở trước cuộc đời của nhà thơ -> ẩn chứa lời nhắn nhủ: hãy sống có ý nghĩa, yêu hết mình, đừng để phải hối tiếc.

– Cách nói giả định: “Làm sao được…” + con số ước lệ: “trăm”, “ngàn” + hình ảnh ẩn dụ “sóng”, “biển lớn tình yêu”

→ Khát vọng sống hết mình trong t/y: muốn hóa thân thành sóng để bất tử hóa tình yêu, để hóa thân vĩnh viễn thành tình yêu muôn thuở → một khát vọng lớn lao, cao đẹp → một trái tim chân thành nhưng mãnh liệt với tình yêu.

– Khổ 8: Nhịp thơ chậm, giọng thơ trùng xuống, lắng đọng, suy tư, triết lí; Thủ pháp đối lập, tương phản → Thời gian chảy trôi, đời người ngắn ngủi, tình yêu đẹp nhưng không còn mãi.

– Khổ 9: Khao khát tình yêu vĩnh hằng. Hòa nhập tình yêu cá nhân vào tình yêu nhân loại → Tình yêu mang tính nhân văn sâu sắc.

⇒ Sự nhạy cảm và lo âu của tác giả về cuộc đời trước sự trôi chảy của thời gian “Cuộc đời tuy dài thế … Mây vẫn bay về xa”. Thể hiện sự băn khoăn, khắc khoải của nhân vật trữ tình muốn được hóa thành “trăm con sóng nhỏ” để muôn đời vỗ mãi vào bờ. Đó khát khao của nguời phụ nữa được hòa mình vào cuộc đời, được sống hết lòng với biển tình yêu.

3. Nghệ thuật biểu hiện.

– Thể thơ năm chữ tạo âm điệu sâu lắng, dạt dào như âm điệu của những con sóng biển và cũng là sóng lòng của người phụ nữ khi yêu.

– Cách ngắt nhịp linh hoạt, phóng túng;

– Cách gieo vần, phối âm độc đáo, giàu sức liên tưởng;

– Giọng thơ vừa thiết tha, đằm thắm; vừa mãnh liệt, sôi nổi; vừa hồn nhiên, nữ tính.

– Xây dụng hình tượng ẩn dụ (sóng) vừa mang nghĩa thực vừa mang nghĩa tượng trưng.

– Nghệ thuật nhân hóa, đối lập,…

  • Kết bài:

– Hình ảnh sóng đôi sóng và em. Xây dựng hình ảnh ẩn dụ – với hình tượng sóng, vừa mang nghĩa thực, vừa mang nghĩa ẩn dụ. Thể thơ năm chữ, nhịp điệu thơ đa dạng, linh hoạt tạo nên âm hưởng của những con sóng: lúc dạt dào sôi nổi, lúc sâu lắng dịu êm rất phù hợp với việc gởi gắm tâm tư sâu kín và những trạng thái tình cảm phức tạp của tâm hồn. Cấu trúc bài thơ được xác lập theo kiểu đan xen giữa hình tượng sóng-bờ, anh-em cũng góp phần làm nên nét đặc sắc cho bài thơ.

– Bài thơ là tiếng lòng của người phụ nữ trong tình yêu luôn thiết tha, nồng nàn, chung thủy, muốn vượt lên thử thách của thời gian và sự hữu hạn của đời người. Từ đó cho thấy tình yêu là một thứ tình cảm cao đẹp mà con người cần có và luôn hướng tới.


Dàn bài 2:

  • Mở bài:

Xuân Quỳnh có cuộc đời bất hạnh, luôn khát khao tình yêu, mái ấm gia đình và tình mẫu tử. Thơ Xuân Quỳnh là tiếng nói của người phụ nữ giàu yêu thương, khát khao hạnh phúc đời thường, bình dị, nhiều âu lo, day dứt, trăn trở trong tình yêu. Bài thơ “Sóng” được sáng tác năm 1967 trong chuyến đi công tác vùng biển Diêm Điền. Trước khi Sóng ra đời, Xuân Quỳnh đã phải nếm trải những đổ vỡ trong tình yêu. Đây là bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ và phong cách thơ Xuân Quỳnh. Tác phẩm được in trong tập Hoa dọc chiến hào (1968).

  • Thân bài:

– Âm điệu bài thơ “Sóng” là âm điệu, của những con sóng ngoài biển khơi, lúc ào ạt, dữ dội lúc nhẹ nhàng, khoan thai. Âm điệu đó được tạo nên bởi: Thể ngũ ngôn với những câu thơ được ngắt nhịp linh hoạt.

– Bài thơ có hai hình tượng là “sóng” và “em” – lúc phân tách, soi chiếu vào nhau, lúc nhập hòa làm một trong một cái tôi trữ tình duy nhất là Xuân Quỳnh.

* Khổ  thơ 1:

“Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể”

+ Sóng hiện ra với những đối cực Dữ dội >< Dịu êm; ồn ào >< lặng lẽ như những cung bậc tâm trạng của người phụ nữ khi yêu.

+ Sóng khát khao thoát khỏi giới hạn chật hẹp (sông) để tìm ra “bể” như người phụ nữ khát khao tìm đến những chân trời đích thực của tình yêu.

* Khổ thơ 2 :

“Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ”

+ Từ ngàn, triệu năm qua, con sóng vẫn thế như từ ngàn, triệu năm qua, tình yêu vẫn là một khát vọng cháy bỏng trong trái tim con người, nhất là tuổi trẻ.

+ Đó cũng là khát vọng cháy bỏng trong trái tim không bao giờ thôi khát khao yêu đương của nhân vật trữ tình trong bài thơ.

* Khổ thơ 3, 4:

“Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên?

Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu?
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau”

+ Không thể truy nguyên nguồn gốc của sóng cũng như tình yêu của con người. Đó mãi mãi là bí ẩn diệu kì, là sức hấp dẫn mời gọi của tình yêu. Không thể cắt nghĩa tình yêu và cũng chẳng nên cắt nghĩa tình yêu bởi rất có thể khi ta biết yêu vì lẽ gì thì cũng là lúc tình yêu ra đi.

+ Người phụ nữ, nhân vật em trong bài thơ cũng không thể cắt nghĩa được tình yêu. Một sự bất lực đáng yêu của một trái tim yêu không chỉ đòi hỏi cảm xúc mà còn đòi hỏi nhận thức mãnh liệt.

* Khổ thơ 5:

“Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”

+ Con sóng, dù ở trạng thái nào (trong lòng sâu, trên mặt nước, ngày hay đêm), đều thao thức một nỗi niềm “nhớ bờ”. Nỗi nhớ choán cả không gian, thời gian.

+ Tình yêu của người phụ nữ trong bài thơ cũng vậy. Hạt nhân của nó là nỗi nhớ, một nỗi nhớ cồn cào, da diết, nỗi nhớ chiếm cả tầng sâu, chiều rộng và trải dài theo thời gian, lúc hiện hữu, khi lắng sâu, lúc ý thức, khi nằm ngoài sự kiểm soát của ý thức.

* Khổ thơ 6, 7:

“Dẫu xuôi về phương bắc
Dẫu ngược về phương nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh – một phương

Ở ngoài kia đại dương
Trăm nghìn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở”

+ Cũng như sóng chỉ có một hướng đích duy nhất là bờ, em chỉ có phương anh làm điểm đến, bất chấp cuộc đời có nhiều trái ngang.

+ Sự thuỷ chung của sóng với bờ hay cũng chính là sự chung thuỷ của em với anh. Nếu nỗi nhớ làm thành biểu hiện nồng nàn, sôi nổi của tình yêu thì sự thuỷ chung lại là phần đằm sâu trong trái tim người phụ nữ.

* Khổ thơ 8, 9:

“Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa

Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ”

+ Sự sống, tình yêu ở thời đại nào cũng luôn hữu hạn trong tương quan với cái vô thuỷ, vô chung, vô cùng, vô tận của thiên nhiên, vũ trụ. Trước cái vĩnh hằng của tạo hoá, trước dòng chảy vô hồi, vô hạn của cuộc đời, tình yêu của con người mãi mãi chỉ là “bóng câu qua cửa sổ”. Đó là cảm thức về thời gian. Dường như càng yêu mãnh liệt, càng khát khao gắn bó, con người càng hay nghĩ về thời gian. Người phụ nữ đang cháy bóng khát khao yêu và được yêu trong Sóng cũng không phải là ngoại lệ.

+ Vậy, chỉ có một cách duy nhất để tình yêu trường tồn với thời gian, để trái tim yêu được đập mãi. Đó là “Làm sao được tan ra – Thành trăm con sóng nhỏ – Giữa biển lớn tình yêu – Để ngàn năm còn vỗ”. Đó là khát vọng được vĩnh cửu hoá tình yêu, được hòa tình yêu của mình vào khối tình chung của nhân loại, như con sóng hòa vào đại dương mênh mông, bất tận.

4. Nghệ thuật:

– Nhịp điệu độc đáo, giàu sức liên tưởng: thể thơ năm chữ, cách ngắt nhịp, gieo vần, nối khổ linh hoạt

– Giọng điệu tha thiết chân thành, ít nhiều có sự phấp phỏng lo âu.

– Xây dựng hình tượng sóng như một ẩn dụ nghệt thuật về tình yêu của người phụ nữ.

– Kết cấu song hành: sóng và em.

  • Kết bài:

– Sóng là bài thơ tình đặc sắc. Bài thơ là sự khám phá những khát vọng tình yêu của trái tim người phụ nữ chân thành, giàu khao khát nhưng cũng rất tự nhiên.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang