»» Nội dung bài viết:
Phân tích bài thơ “VỘI VÀNG” (Xuân Diệu).
- Mở bài:
– Xuân Diệu là cây bút có sức sáng tạo mãnh liệt, dồi dào, bền bỉ, có đóng góp to lớn trên nhiều lĩnh vực đối với nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông được xem là nhà thơ của tình yêu, của mùa xuân và tuổi trẻ với một giọng thơ sôi nổi, đắm say, yêu đời thắm thiết. Với những khúc tình ca tha thiết, Xuân Diệu đã đem đến cho thơ ca đương đại một sức sống mới, một nguồn cảm xúc mới, thể hiện một quan niệm sống mới mẻ cùng với những cách tân nghệ thuật đầy sáng tạo.
– “Vội vàng” là một trong những tác phẩm tiêu biểu trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 của Xuân Diệu. Bài thơ diễn tả thái độ ham sống đến cuồng nhiệt, nhu cầu hưởng thụ cuộc sống hết mình, một quan niệm nhân sinh tích cực, mới mẻ của nhà thơ.
- Thân bài:
1. Khát vọng sống đắm say, cuồng nhiệt (13 câu thơ đầu).
a. Khát vọng muốn đoạt quyền của tạo hóa (4 câu thơ đầu).
“Tôi muốn tắt nắng đi,
Cho màu đừng nhạt mất;
Tôi muốn buộc gió lại,
Cho hương đừng bay đi”.
– “Tôi muốn”: Tắt nắng, buộc gió. Mục đích: cho hương đừng bay đi , cho màu không nhạt → ý tuởng táo bạo.
– Điệp ngữ “Tôi muốn” kết hợp với động từ “tắt, buộc” diễn tả ước muốn, khát vọng thay đổi quy luật của thiên nhiên → Níu kéo thời gian, ngưng đọng không gian → thể hiện tình yêu cuộc sống mãnh liệt của nhà thơ
→ Cảm nhận về thời gian của Xuân Diệu gắn liền với mùa xuân của thiên nhiên và tuổi trẻ của con người. Đó là cảm nhận của một con người yêu cuộc sông say đắm, thiết tha đến mức phải vội vàng. Tác giả muốn ngự trị thiên nhiên, muốn tước đoạt quyền của tạo hóa để thiên nhiên và thời gian không thay đổi.
b. Cuộc đời tươi đẹp và tình yêu cuộc sống đắm say (câu 5 – câu 13):
“Của ong bướm này đây tuần tháng mật,
(….)
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”.
– Hình ảnh: “Ong bướm”, “tuần tháng mật”, “hoa lá”, “đồng nội xanh rì”, “chim muông”, “bình minh rực rỡ” → Bức tranh mùa xuân rất đẹp, căng tràn nhựa sống →Thiên nhiên, vạn vật có đôi, có lứa . Đó như là thiên đường trên mặt đất.
– Nghệ thuật: Điệp từ, liệt kê, đảo trật tự ngữ pháp, so sánh: “Tháng giêng – một cặp môi gần” → Niềm vui say, ngây ngất của nhà thơ trước cảnh thiên nhiên tươi đẹp, tràn đầy sức sống.
– Xuân Diệu nhìn thiên nhiên qua lăng kính của tình yêu, qua cặp mắt của tuổi trẻ. Nhờ vậy mà thiên nhiên đều nhuốm màu tình tứ, tràn ngập xuân tình. Đó là cái nhìn lấy con người làm chuẩn mực cho cái đẹp
→ Quan niệm nhân sinh tích cực mới mẻ: Thiên đường trên mặt đất là con người trần thế, tình yêu tuổi trẻ.
3. Nỗi boăn khoăn trước thời gian và tuổi trẻ (Câu 14 đến 29).
– Miêu tả thời gian bằng nghệ thuật đối: Xuân đang tới – Xuân đang qua; Xuân còn non – Xuân sẽ già; Xuân hết – Tôi chết → Sự cảm nhận về thời gian của tác giả là thời gian tuyến tính, một đi không trở lại.
– Điệp từ “nghĩa là”: Niềm vui tan biến, thay vào đó là hiện thực phũ phàng vì thiên nhiên trở thành lực lượng đối kháng với con người: “Lượng trời chật” >< “Lòng tôi rộng”; “Xuân tuần hoàn” >< “Tuổi trẻ không hai lần thắm lại”; “Còn trời đất” >< “Chẳng còn tôi mãi”.
– Tác giả bâng khuâng nuối tiếc tất cả bởi xuân mãi tuần hoàn còn tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại.
→ Sự thức tỉnh sâu sắc của tác giả với mỗi cá nhân: Hãy trân trọng, nâng niu những tháng năm của tuổi trẻ. Hãy sống hết mình, sống thật có nghĩa và tận hưởng những gì mà thiên nhiên ban tặng .
4. Lời kêu gọi tận hưởng cuộc sống (Câu 30 đến hết).
– Điệp ngữ “Ta muốn” lặp lại 5 lần .
– Động từ : “ôm, riết”, “say”, “thâu”, “cắn”…
– Liệt kê: “ta muốn…“…..
→ Sự gấp gáp, vội vàng trong tâm hồn tác giả – sợ sắc xuân tàn phai – yêu mùa xuân tới mức cuồng si: “Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi”.
– Câu thơ thể hiện một tình yêu cuồng si. Tác giả muốn níu kéo, giữ chặt lại không muốn nó qua đi. Níu kéo sắc xuân, tình xuân là níu kéo vẻ đẹp cho muôn đời .
– Cách thay đổi đại từ nhân xưng: “Tôi” → “Ta”.
+ “Tôi”: Nhân danh chung chung.
+ “Ta“: Nhân danh riêng biệt.
→ Khẳng định cái tôi duy nhất của Xuân Diệu.
“Ta là một, là riêng, là thứ nhất
Không có ai bè bạn nổi cùng ta”
– Quan niệm sống mới mẻ của tác giả là yêu cuộc sống trần thế xung quanh và tìm thấy, trong đó biết bao điều hấp dẫn, đáng sống, biết tận hưởng những gì mà cuộc sống ban tặng. Từ đó, càng thêm yêu mùa xuân và tuổi trẻ, những gì đẹp nhất của cuộc sống con người. Đó là quan niệm sống rất người mang ý nghĩa tích cực và có giá trị nhân văn sâu sắc.
5. Nghệ thuật biểu hiện:
– Sự kết hợp giữa mạch cảm xúc và mạch luận lí.
– Cách nhìn, cách cảm mới và những sáng tạo độc đáo về hình ảnh thơ.
– Sử dụng ngôn từ; nhịp điệu dồn dập, sôi nổi, hối hả, cuồng nhiệt.
→ Những cách tan của thơ mới được thể hiện một cách sáng tạo và táo bạo qua ngòi bút của Xuân Diệu: từ cảm hứng, ý tưởng thơ cho đến hình ảnh, nhịp điệu, ngôn từ… tất cả đều in dấu ấn phong cách Xuân Diệu.
- Kết bài:
– “Vội vàng” diễn tả thái độ ham sống đến cuồng nhiệt, nhu cầu hưởng thụ cuộc sống hết mình. Bài thơ cho thấy một cảm quan nghệ thuật rất đẹp, rất nhân văn, một giọng thơ sôi nổi, dâng trào và lôi cuốn, hấp dẫn. Có chất xúc giác trong thơ. Cách dùng từ rất bạo, cách cấu trúc câu thơ, đoạn thơ rất tài hoa. “Vội vàng” là thi phẩm tiêu biểu nhất cho Thơ mới và nền thơ lãng mạn 1932-1941. Xuân Diệu xứng đáng với danh hiệu một nhà thơ lớn, một nghệ sĩ lớn, một nhà văn hóa lớn.
* Tham khảo:
Cảm nhận bài thơ “Vội vàng” (Xuân Diệu)
- Mở bài:
Xuân Diệu là nhà thơ lớn của phong trào Thơ mới 1930-1945 và của nền văn học Việt Nam thé kỷ XX. Với những sáng tác đỉnh cao mang phong cách riêng độc đáo, ông được mệnh danh là “nhà thơ mới nhất”. Bài thơ “Vội vàng” được in trong tập “Thơ thơ” (1938) đã thể hiện thành công tiếng lòng yêu đời và khát khao sống mãnh liệt và quan điểm sống tích cực, hiện đại của nhà thơ Xuân Diệu, đồng thời là sự kết hợp giữa cảm xúc và triết lí, cùng những sáng tạo độc đáo về nghệ thuật.
- Thân bài:
Niềm say đắm trước vẻ đẹp của mùa xuân trên trần thế:
“Tôi muốn tắt nắng đi,
Cho màu đừng nhạt mất;
Tôi muốn buộc gió lại,
Cho hương đừng bay đi.
Của ong bướm này đây tuần tháng mật,
Này đây hoa của đồng nội xanh rì,
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si,
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi.
Mỗi sáng sớm thần Vui hằng gõ cửa;
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa;
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”.
Thể thơ ngũ ngôn, nghệ thuật điệp ngữ, điệp cấu trúc “tôi muốn”, giọng thơ sôi nổi, qua đó thể hiện khát vọng muốn đoạt quyền của tạo hóa cháy bỏng, tha thiết, một khát vọng kì lạ bởi tác giả muốn níu giữ hương sắc, vẻ đẹp của cuộc đời, muốn níu kéo thời gian để bất tử hóa vẻ đẹp của mùa xuân.
Bức tranh thiên nhiên mùa xuân hiện ra với vẻ đẹp tươi mới, đó là một vẻ đẹp ngay trong chính trần gian này. tất cả đều ở trạng thái quyến rũ nhất và say sưa nhất: “của ong bướm này đây tuần tháng mật, “này đây hoa của đồng nội xanh rì”, “này đây lá của cành tơ phơ phất”,.. tất cả đều rất tươi mới và chân thực. “và này đây ánh sáng chớp hàng mi”, ánh sáng như phát ra từ đôi mắt của người thiếu nữ khi nàng chớp hàng mi, gợi một vẻ đẹp ngây thơ, trong lành. Nghệ thuật so sánh cái vô hình với cái hữu hình “tháng giêng ngon như một cặp môi gần” gợi sự quyến rũ, ngọt ngào và đắm say, cho thấy niềm say mê đến vồ vập của thi sĩ trước cuộc đời. qua đó, thấy được quan niệm thẩm mĩ mới mẻ của xuân diệu: con người là chuẩn mực cái đẹp khi ở độ tuổi thanh xuân.
Hai câu thơ cuối giọng thơ lắng xuống. Ngay trong sung sướng, thi nhân đã bắt đầu phải vội vàng, đang trong hạnh phúc đã thấy mầm móng của ly biệt.
Nuối tiếc trước dòng thời gian chảy trôi:
“Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất;
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật.
Không cho dài thời trẻ của nhân gian,
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại!
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;
Mùi tháng năm đều rớm vị chi phôi,
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt…
Con gió xinh thì thào trong lá biếc,
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?
Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…”
Ba câu đầu sử dụng lối nói định nghĩa “xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua/ xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già/ mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất”. Nếu các nhà thơ xưa thường nhìn thời gian theo một vòng tuần hoàn thì xuân diệu lại nhìn thời gian ở một thế chảy trôi, thời gian một đi mà không quay trở lại “mau với chứ thời gian không đứng đợi/ mau với chứ vội vàng lên với chứ”. Ông ý thức được rằng mùa xuân của cuộc đời đi qua thì cuộc đời cũng qua mau bởi tuổi xuân là tuổi đẹp nhất, có ý nghĩa nhất trong cuộc đời của con người. Đây thực chất là sự ảnh hưởng của tư duy pháp.
Ý thức được về sự chảy trôi của thời gian, xuân diệu cảm thấy bâng khuâng và tiếc nuối. thi nhân hình dung cả một cuộc chia ly đầy ắp đất trời, thấm đượm tháng năm “mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi/ khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt”. “Mùi tháng năm” là nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác, cho thấy sự tương giao trong cách cảm nhận. cuộc chia ly ấy như thấm cả vào những thứ vô hình, khi xuân qua đi thì cỏ cây, con người đều buồn: sông núi thì “than thầm”, gió thì “hờn”.
Khát khao sống mãnh liệt:
“Mau đi thôi! mùa chưa ngả chiều hôm,
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều;
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chuếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
– Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”
Giọng thơ hối hả, sôi nổi, hối hả, cuồng nhiệt được tạo nên bởi những câu cảm thán thể hiện sự giục giã. Nghệ thuật điệp cấu trúc, điệp từ, liệt kê tạo cho những câu thơ nhịp điệu nhanh, mạnh như một làn song trào dâng cảm xúc. động từ “ôm”, “say”,.. thể hiện khát khao , sự cuồng nhiệt muốn giao cảm với cuộc đời. nhà thơ xưng “tôi” thể hiện một khát vọng cá nhân mãnh liệt, táo bạo. ở đây, thi sĩ lại xưng “ta” để như mở rộng lòng mình với cuộc đời. “ta” ở đây chính là sự mở lòng, mở rộng tấm lòng với cuộc đời, với nhân sinh.
Lời giục giã “mau đi thôi” làm cho câu thơ mang một ngữ điệu mới, khác hẳn với câu thơ cổ: ngữ điệu nói. trong thơ cổ, lỡi lẽ thường phải rất chắt lọc, còn Xuân Diệu lại sử dụng những từ ngữ được lặp đi lặp lại rất nhiều lần. Ta cảm nhận như dòng cảm xúc của nhà thơ đang tuôn trào vượt ra ngoài từ ngữ. giọng thơ thể hiện tâm trạng vội vàng phù hợp với những hành động gấp gáp của thi nhân. hình ảnh thơ mơn mởn với mây đưa gió lượn, cánh bướm, cây, cỏ rạng, ánh sáng,… Điệp ngữ “ta muốn” thể hiện một khát vọng cháy bỏng. nhà thơ như muốn tận hưởng cuộc đời và sự quý giá của cuộc sống nơi trần gian. với xuân diệu, mùa xuân là một màu hồng nồng ấm, muốn cắn vào trái chín mùa xuân, trái chín cuộc đời. Nhà thơ như đang say men cảm xúc với cuộc đời. sống “vội vàng” ở đây không phải là lối sống gấp chỉ biết hưởng thụ hôm nay mà bỏ qua ngày mai mà đó là một lối sống tích cực, cho thấy môt khát vọng sống mãnh liệt, yêu cuộc sống của thi nhân.
- Kết bài:
“Vội vàng” của Xuân Diệu là một bài thơ rất mới, mới về cả cách nhìn nhận, quan niệm thẩm mỹ, cho đến cách truyền tải cảm xúc, triết lý nhân sinh, tất cả đều được tác giả thể hiện một cách tinh tế, cũng vừa độc đáo với lối thơ tự do, khuynh hướng lãng mạn kiểu Pháp, cùng với hệ thống từ ngữ phong phú giàu sức gợi. Tác phẩm không chỉ bộc lộ những quan niệm mới mẻ về mùa xuân, tình yêu và tuổi trẻ, mà còn mang đến cho người đọc cách nhìn nhận về cuộc sống, về việc tìm kiếm hạnh phúc, cũng như cách trân trọng và sống một cuộc đời có ý nghĩa, để tuổi xuân không bị lãng phí trong nhiều tiếc nuối.
Tham khảo:
Cảm nhận quan niệm sống của Xuân Diệu qua bài thơ “Vội vàng”
- Mở bài:
Trong cuốn “Thi nhân Việt Nam”, nhà phê bình Hoài Thanh ca ngợi Xuân Diệu là “nhà thơ mới nhất trong các nhà Thơ mới”. Quả thực, Xuân Diệu đã bước vào thi đàn Việt Nam như một cơn gió đầu mùa tươi trẻ, tràn đầy sức sống của một con người mới, một thế hệ mới. Bài thơ “Vội vàng” là thi phẩm xuất sắc, thể hiện sâu sắc phong cách thơ Xuân Diệu. Bài thơ bộc lộ nét đẹp của một quan niệm nhân sinh mới: sống tự giác và tích cực, sống với niềm khao khát phát huy hết giá trị bản ngã, tận hiến cho cuộc đời và cũng là một cách tận hưởng cuộc đời.
- Thân bài:
Sống vội vàng chỉ là một cách nói. Trong cốt lõi, đây là một quan niệm sống mới mang ý nghĩa tích cực nhằm phát huy cao độ giá trị của cái Tôi cá nhân trong thời hiện đại. Quan niệm sống nói trên được diễn giải qua một hệ thống cảm xúc và suy nghĩ mang màu sắc “ biện luận” rất riêng của tác giả. Với Xuân Diệu, cuộc đời như một thiên đường trên mặt đất. Mở đầu bài thơ là một khổ ngũ ngôn thể hiện một ước muốn kì lạ của thi sĩ:
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất;
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi”.
Thức nhận được sự trôi chảy vô biên của thời gian, nhà thơ như cảm thấy sợ hãi và khao khát níu giữ được nó để tận hưởng vẻ đẹp đích thực của cuộc sống. Thi sĩ muốn đoạt quyền tạo hoá, muốn đi ngược lại sự vận động của thiên nhiên, muốn tự mình nắm giữ điều chỉnh thời gian, bởi một người như Xuân Diệu sống để yêu và yêu để sống thì thời gian mà tự nhiên định sẵn từ ngàn xưa đến nay không thể nào đủ. Bằng việc sử dụng những động từ mạnh “tắt”, “buộc”, Xuân Diệu như muốn lưu giữ lại cái khoảnh khắc của tuổi xuân, muốn thời gian ngưng đọng lại, muốn và muốn như vậy mới có đủ thời gian để thỏa mãn lòng khao khát trong tâm hồn nhà thơ. Lần đầu tiên trong thơ ca hiện đại lại có một quan niệm về thời gian một cách ráo riết như Xuân Diệu.
Thiên đường cuộc sống của Xuân Diệu nơi trần gian thật mới mẻ!Trong quan niệm của người xưa, đời là chốn bụi trần, cuộc đời là bể khổ. Đấy là lý do vì sao lánh đời nhiều khi đã trở thành một cách thế sống mà cả tôn giáo cũng như văn chương đều chủ trương vẫy gọi con người trên hành trình đi tìm sự an lạc tâm hồn. Cũng chẳng phải ngẫu nhiên, đạo Phật tô đậm vẻ đẹp của cõi Tây Phương cực lạc; văn học cổ Trung Quốc cũng như văn học trung đại Việt Nam đều đề cao tâm lý hoài cổ, phục cổ, khuyến khích xu hướng tìm về với những giá trị trong quá khứ vàng son một đi không trở lại như đi tìm một thiên đường đã mất.
Xuân Diệu thuộc thế hệ những người trẻ tuổi ham sống và sống sôi nổi, họ không coi lánh đời là một xu thế mang ý nghĩa tích cực mà ngược lại, họ không ngần ngại lao vào đời. Và thật ngạc nhiên, nhờ tuổi trẻ, họ phát hiện ra cuộc đời thực chất không phải là một cõi mông lung, mờ mờ nhân ảnh, cũng chẳng phải là cái bể khổ đầy đoạ con người bằng sinh, lão, bệnh, tử … những định mệnh đã hàng ngàn năm ám ảnh con người mà trái lại, là cả một thế giới tinh khôi, quyến rũ. Tất cả đều hiện hữu, tất cả đều gần gũi, đầy ắp, ngay trong đời thực và trong tầm tay với:
“Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi buổi sớm thần vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”.
Bức tranh thiên nhiên mùa xuân tươi đẹp và tràn đầy sức sống được tác giả cảm nhận bằng mọi giác quan, bằng cả tâm hồn của một thi sĩ. Trong cái nhìn mới mẻ, say sưa thi nhân vồn vã liệt kê bao vẻ đẹp của cuộc đời bằng hàng loạt đại từ chỉ trỏ này đây làm hiện lên cả một thế giới thật sống động. Hơn thế, cõi sống đầy quyến rũ ấy như đang vẫy gọi, chào mời bằng vẻ ngọt ngào, trẻ trung: đây là tuần tháng mật để dành cho ong bướm, đây là hoa của đồng nội (đang) “xanh rì, đây là lá của cành tơ phơ phất và khúc tình si kia là của những lứa đôi.
Có lẽ trước Xuân Diệu trong thơ Việt Nam chưa có cảm giác “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”. Nó là cảm giác của ái ân tình tự. Cảm giác ấy đã làm cho người ta thấy tháng giêng mơn mởn non tơ đầy một sức sống thanh tân kia mà sao quyến rũ – tháng giêng mang trong nó sức quyến rũ không thể cưỡng được của một người tình rạo rực đắm say. Thế giới này được Xuân Diệu cảm nhận theo một cách riêng. Nó bày ra như một thiên đường trên mặt đất, như một bữa tiệc lớn của trần gian. Được cảm nhận bằng cả sự tinh vi nhất của một hồn yêu đầy ham muốn, nên sự sống cũng hiện ra như một thế giới đầy xuân tình. Cái thiên đường sắc hương đó hiện ra trong Vội vàng vừa như một mảnh vườn tình ái, vạn vật đương lúc lên hương, vừa như một mâm tiệc với một thực đơn quyến rũ, lại vừa như một người tình đầy đắm say. Xuân Diệu hưởng thụ thiên nhiên như hưởng thụ ái tình. Yêu thiên nhiên mà thực chất là tình tự với thiên nhiên.
Tuy nhiên, trong ý thức mới của con người thời đại về thời gian, khi khám phá ra cái đẹp đích thực kia của đời cũng là lúc người ta hiểu rằng điều tuyệt diệu này có số phận thật ngắn ngủi, mong manh và sẽ nhanh chóng tàn phai vì theo vòng quay của thời gian có cái gì trên đời là vĩnh viễn?
“Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già”.
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật Không cho dài thời trẻ của nhân gian Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại!
Niềm ám ảnh về sự chảy trôi vô tình của thời gian khiến cái nhìn của thi nhân về thế giới bỗng đổi khác, tất cả đều nhuốm màu của âu lo, bàng hoàng, thảng thốt. Đấy là lý do vì sao mạch cảm xúc trong đoạn thơ bỗng liên tục thay đổi : từ việc xuất hiện các kiểu câu định nghĩa, tăng cấp : “nghĩa là (3lần/3dòng thơ), để định nghĩa về mùa xuân và tuổi trẻ, mà thực chất là để cảm nhận về hiện hữu và phôi pha, đến ý tưởng ràng buộc số phận cá nhân mình với số phận của mùa xuân, tuổi xuân nhằm thổ lộ niềm xót tiếc cái phần đẹp nhất của đời người, cuối cùng cất lên tiếng than đầy khổ não: “Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất!”
Con người thời trung đại hình như yên trí với quan niệm thời gian tuần hoàn với cái chu kỳ bốn mùa, cũng như cái chu kì ba vạn sáu ngàn ngày của kiếp người. Con người hiện đại sống với quan niệm thời gian tuyến tính, thời gian như một dòng chảy mà mỗi một khoảnh khắc qua là mất đi vĩnh viễn. Cho nên Xuân Diệu đã nồng nhiệt phủ định “còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi”.
Thi sĩ lại cảm nhận về không gian và thời gian đầy sự lạ hóa:
“Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt”
Là người đã tiếp thu ở mức nhuần nhuyễn phép “tương giao” của lối thơ tượng trưng, Xuân Diệu đã phát huy triệt để sự tương giao về cảm giác để cảm nhận và mô tả thế giới. Thời gian được cảm nhận bằng khứu giác: “Mùi tháng năm” – thời gian của Xuân Diệu được làm bằng mùi hương, bằng mùi vị. Niềm xót tiếc cứ thế tuôn chảy miên man trong hàng loạt câu thơ và khắc nghiệt với bất công đã trở thành một quan hệ định mệnh giữa tự nhiên với con người. Nỗi cay đắng trước sự thật đó được triển khai trong những hình ảnh và ý niệm sắp xếp theo tương quan đối lập giữa : lòng người rộng” mà lượng trời chật; Xuân của thiên nhiên thì tuần hoàn” mà tuổi trẻ của con người thì chẳng hai lần thắm lại. Cõi vô thuỷ vô chung là vũ trụ vẫn còn mãi vậy mà con người, sinh thể sống đầy xúc cảm và khao khát lại hoá thành hư vô. Điều “ bất công” này thôi thúc cái tôi cá nhân đi tìm sức mạnh hoá giải.
Từ nỗi ám ảnh về số phận mong manh chóng tàn lụi của tuổi xuân, tác giả đề ra một giải pháp táo bạo. Con người không thể chặn đứng được bước đi của thời gian, con người chỉ có thể phải chạy đua với nó bằng một nhịp sống mới mà nhà thơ giục giã:
“Mau đi thôi! Màu chưa ngã chiều hôm
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê hương sắc của thời tươi
-hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi”
Ta có thể nghe thấy giọng nói, nghe thấy cả nhịp đập của con tim Xuân Diệu trong đoạn thơ ấy. Nó hiện ra trong những làn sóng ngôn từ đan chéo nhau, giao thoa và song song vỗ vào tâm hồn người đọc. Cái điệp ngữ “ta muốn” được lặp đi lặp lại với mật độ thật dày và cũng thật đích đáng. Nhất là mỗi lần điệp lại đi liền với một động thái yêu đương mỗi lúc một mạnh mẽ, mãnh liệt, nồng nàn: ôm – riết – say – thâu – cắn. Những chữ “và” hiện diện cần cho sự thể hiện nguyên trạng cái giọng nói, cái khẩu khí của nhà thơ. Nó thể hiện đậm nét sắc thái riêng của cái tôi Xuân Diệu. nghĩa là thể hiện một cách trực tiếp, tươi sống cái cảm xúc tham lam đang trào lên mãnh liệt trong lòng ngực yêu đời của thi sĩ !
Không phải ngẫu nhiên mà Xuân Diệu được Hoài Thanh nhận xét là “nhà thơ mới nhất của phong trào thơ Mới”. Ngoài những sự mới lạ trong nội dung đề tài, Xuân Diệu còn có những bước đi táo bạo trong việc cách tân nghệ thuật. Với “Vội Vàng”, bài thơ có sự kết hợp giữa hai yếu tố trữ tình , chính luận. Yếu tố trữ tình được bộc lộ ở những rung động mãnh liệt bên cạnh những ám ảnh kinh hoàng khi phát hiện vè số phận mong manh của cái đẹp, của tình yêu và tuổi trẻ trước sự hủy hoại của thời gian. Mạch chính luận là hệ thống lập luận, lí giải về lẽ sống vội vàng , thông điẹp mà Xuân Diệu muốn gửi đến cho độc giả được trình bày theo lối quy nạp từ nghịch lí mâu thuẫn đến giải đáp. Bên cạnh đó, Xuân Diệu còn thành công trong việc tạo ra cú pháp mới của câu thơ, cách diễn đạt mới, hình ảnh và ngôn từ mới.
Có thể nói Xuân Diệu qua bài thơ này không chỉ “sống” hay “ham sống” mà là “say mê sống”. Sống mãnh liệt sống hối hả, sống gấp để tận hưởng vẻ đẹp của trần gian. Đó là một nhân sinh quan lành mạnh. tuy chưa phải là lối sống cao đẹp nhất, nhưng đó là một lối sống tích cực, sống trong ý thức phát huy hết giá trị của tuổi trẻ và cũng là của cái tôi. Bài thơ là nhịp đập gấp gáp trước thanh sắc trần gian một ngày xuân của một trái tim chưa bao giờ chán sống!
- Kết bài:
Nhà thơ Thế Lữ trong lời tựa cho tập “Thơ Thơ” của Xuân Diệu đã có nhận xét khá tinh tế: “Xuân Diệu là một người của đời, một người ở giữa loài người. lầu thơ của ông xây dựng trên đất của một tấm lòng trần gian”. Đã mấy mươi năm Xuân Diệu giã từ chúng ta vào cõi hư vô, nhưng tấm lòng trần gian của ông thì vẫn còn lưu mãi với các thế hệ. Hẳn những ai yêu cuộc sống, yêu thơ Xuân Diệu chắc không khỏi những rung động trước những cảm xúc mãnh liệt tâm tình của tác giả qua bài thơ “Vội vàng” gắn với những niềm khát khao giao cảm với trời đất, với con người trong mùa xuân diệu kì!