Phân tích hình tượng nhân vật Mị
I. Mở bài:
– Tô Hoài là một trong những cây bút lớn nhất của nền văn học Việt Nam thế kỉ XX. Sáng tác của Tô Hoài thể hiện vốn hiểu biết phong phú về đời sống và phong tục, chất tạo hình và chất thơ qua miêu tả và kể chuyện đầy thú vị. Là một nhà văn viết truyện về miền núi rất thành công. Ông là nhà văn đa phong cách, ông viết ở thể loại nào cũng để lại dấu ấn riêng của mình. Văn phong cũng giống như tính cách của ông luôn điềm đạm, giản dị, trong sáng, đầy cảm xúc, hóm hỉnh với nhiều triết lí thâm trầm.
– Vợ chồng A Phủ (1952) là một trong ba tác phẩm (Vợ chồng A Phủ, Mường Giơn và Cứu đất cứu mường) in trong tập Truyện Tây Bắc, là kết quả của chuyến đi cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc năm 1952. Đây là chuyến đi thực tế dài tám tháng sống với đồng bào các dân tộc thiểu số từ khu du kích trên núi cao đến những bản làng mới giải phóng của nhà văn.
– Hình tượng nhân vật Mị: Nhân vật Mị là biểu tượng đẹp cho sức sống tiềm tàng của người phụ nữ bị áp bức.
II. Thân bài:
1. Lai lịch xuất thân.
– Mị sinh ra từ cửa con nhà nghèo, mồ côi mẹ từ nhỏ, gia đình Mị nghèo từ trong “trứng nước” vì hàng năm phải làm một nương ngô để trả nợ cho nhà thống lí Pá Tra vì khi bố mẹ Mị cưới nhau đã vay của nhà Pá Tra.
– Năm nay qua năm khác, lãi mẹ đẻ lãi con, đến lúc Mị 18 tuổi mà nợ nhà thống lí vẫn chưa trả xong.
2. Ngoại hình, tính cách.
– Mị là cô gái Hmông xinh đẹp, thùy mị, nết na, hiếu hạnh và yêu đời, hồn nhiên và vui sống.
– Ở tuổi đôi mươi, Mị đẹp như bông hoa ban, hoa đào ở núi rừng Tây Bắc, Mị đã làm xiêu lòng biết bao chàng trai Mông: “Trai làng đến nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị nằm”.
– Mị thổi kèn lá cũng hay như thổi sáo, có biết bao nhiêu chàng trai ngày đêm say mê đi theo tiếng sáo của Mị.
3. Mị với thân phận “Con dâu gạt nợ” – hiện thân cho những đau khổ của người dân miền núi.
a. Mị hiện thân cho những đau khổ về thể xác:
– Mị bị bốc lột sức lao động tàn nhẫn:
+ Mị trở thành con dâu gạt nợ vì phải trả món nợ truyền kiếp từ đời cha mẹ để lại, Mị đã lớn mà nợ vẫn chưa trả xong.
+ Mị trở thành người nô lệ trong nhà thống lí từ khi về làm dâu, Mị trở thành công cụ lao động biết nói mà không dám nói, bị hành hạ, bị tước hết mọi quyền sống, làm việc mọi lúc, mọi nơi.
+ Mị bị bóc lột sức lao động đến tận cùng, mỗi năm, mỗi mùa, mỗi tháng phải làm đi làm lại những việc giống nhau và không được nghỉ ngơi: “Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, đến mùa thì đi nương bẻ bắp…”.
+ Mị trên danh nghĩa là một con dâu nhưng thực chất là 1 người nô lệ, thậm chí không bằng con trâu, con ngựa nhà thống lí Pá Tra: “Con ngựa, con trâu làm còn có lúc đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi đầu vào làm cả ngày lẫn đêm”.
– Mị bị đánh đập hết sức dã man:
+ Ngày Tết, Mị không được đi chơi, bị A Sử trói đứng vào cột trong buồng tối, A Sử trói Mị bằng cả thúng dây đay, A Sử trói luôn cả tóc Mị, đóng sầm cửa và bỏ đi chơi.
+ Khi thức cả đêm để thoa thuốc cho A Sử, vì mệt quá nên ngủ thiếp đi, Mị bị A Sử đạp thẳng vào mặt.
+ Những đêm mùa đông trên Hồng Ngài rất dài và lạnh, mỗi đêm Mị phải trở dậy sớm để thổi lửa sưởi ấm, lúc đó A Sử đi chơi về liền đánh Mị ngã xuống bếp.
b. Mị hiện thân cho những đau khổ về tinh thần:
– Mỗi ngày, Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa, Mị đã mất hết ý thức của sự phản kháng, sống cam chịu, nhẫn nhục, những việc Mị làm là hành động theo thói quen chứ không phải là ý thức.
– Tác giả cắt nghĩa: “Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi” để minh giải tình trạng bị đày đoạ đến mức bị tê liệt về tinh thần và dẫn tời tiếng thở dài buông xuôi phó mặc cho hoàn cảnh: Bây giờ thì Mì tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa…
– Căn buồng Mị nằm như một địa ngục trần gian: “Ở buồng Mị nằm kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng. Mị cứ nghĩ rằng mình cứ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì thôi”.
– Mị bị bắt về nhà thống lí Pá Tra theo tập tục cúng trình ma và bị trói chặt cuộc đời ở đây, bị vùi dập bởi sức mạnh của “thần quyền và cường quyền”.
c. Sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị: Sự trỗi dậy của sức sống tiềm tàng về hạnh phúc và tình yêu của Mị.
* Sức sống tiềm tàng của Mị trong đêm tình mùa xuân:
– Những yếu tố về ngoại cảnh
+ “Những chiếc váy hoa đã đem phơi trên mỏm đá, xòe như bướm sặc sỡ, hoa thuốc phiện vừa nở trắng lại đổi ra màu đỏ au, đỏ thậm rồi sang màu tím man mác”.
+ “Đám trẻ đợi tết chơi quay cười ầm trên sân chơi trước nhà”
+ “Ngoài đầu núi lấp ló có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi. Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bổi hổi”.
– Diễn biến tâm trạng Mị trong đêm tình mùa xuân:
+ “Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bổi hổi. Mị ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang thổi”. Sau bấy nhiêu năm sống trong đau đớn, nô lệ và tủi nhục, lần đầu tiên tiếng sáo ấy lại lên lỏi vào sâu thẳm trong tiềm thức đã tê liệt của Mị để đánh thức niềm yêu đời, khát khao sống của Mị.
+ Hành động Mị uống rượu: “Mị lén lấy hũ rượu, uống ực từng bát”. Cách Mị uống “ực” từng bát thì đây không còn là uống nữa mà Mị đang nuốt cay đắng, tủi nhục vào trong lòng. Men rượu đã đưa Mị từ cõi quên trở về với cõi nhớ, từ vô thức trở về với ý thức, Mị trẻ đẹp, ngày xưa mùa xuân Mị cũng uống ượu và thổi sáo, có biết bao nhiêu chàng trai ngày đêm say mê đi theo Mị.
+ Dấu hiệu đầu tiên của việc sống lại đó là Mị nhớ lại quá khứ, nhớ về hạnh phúc ngắn ngủi trong cuộc đời tuổi trẻ của mình và niềm ham sống trở lại: “Mị còn phơi phới trở lại, lòng đột nhiên vui sướng như những đêm đến ngày trước”. “Mị còn trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ lắm. Mị muốn đi chơi”. Mị đã ý thức được tình cảnh đau xót của mình: “Nếu có nắm lá ngón trong tay Mị sẽ ăn cho chết”…
+ Từ những sôi sục trong tâm tư đã dẫn Mị tới hành động “lấy ống mỡ xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa dầu”. Mị muốn thắp lên ánh sáng cho căn phòng bấy lâu chỉ là bóng tối. Mị muốn thắp lên ánh sáng cho cuộc đời tăm tối của mình.
+ Hành động này đẩy tới hành động tiếp: Mị “quấn tóc lại, với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách”.
+ Mị đang chuẩn bị sắm sửa để đi chơi nhưng rồi bị A Sử cấm cho đi chơi hắn cột Mị vào nhà cột cả tóc lên khiến Mị không ngẩng đầu lên được đó là một hành động mất hết nhân tính, Mị vẫn đang du mình trong đêm xuân những tiếng ngựa ngoài kia làm cho Mị tỉnh giấc nàng đã trở lại với hiện tại, một hiện tại đau khổ và phải chịu đau thương cả về thể xác lẫn tinh thần.
* Sức sống tiềm tàng của Mị trong đêm mùa đông cởi trói cho A Phủ:
– Những yếu tố tác động:
+ Đó là những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn, Mị thường trở dậy rất sớm để thổi lửa hơ tay, nếu không có bếp lửa chắc Mị đã chết héo từ lâu. Ngọn lửa là người bạn, ngọn lửa đã sưởi ấm Mị trong mùa đông lạnh lẽo.
+ Đêm nào cũng vậy, Mị dậy sớm thổi lửa hơ tay, thấy A Phủ bị trói đứng ở cột nhưng Mị vẫn bình thản một cách đến lạ lùng, đến nhẫn tâm.
+ Mị hoàn toàn thay đổi khi ngọn lửa bùng sáng lên, ngọn lửa không chỉ sưởi ấm trái tim, tâm hồn Mị băng giá nguội lạnh mà khi ngọn lửa bùng sáng lên thì cũng là lúc Mị nhìn thấy dòng nước mắt của A Phủ: “Một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”.
+ Giọt nước mắt của A Phủ làm Mị nhớ lại giọt nước mắt của mình ngày trước. Từ thương mình đến thương người. Mị đang chất vấn với thực tại bạo tàn và bất công. Khi người đàn bà vốn cam chịu mà ném vào bóng tối một câu như thế là khởi đầu cho một sự nổi loạn.
– Diễn biến tâm lí và hành động:
+ Trước cảnh A Phủ bị trói, ban đầu Mị hoàn toàn vô cảm: “Mị vẫn thản nhiên thổi lửa hơ tay”, vì những cảnh tượng ấy đã diễn ra trong nhà Thông lí thường xuyên.
+ Nhưng “Mị lé mắt trông sang…một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”, giọt nước mắt tuyệt vọng của A Phủ đã giúp Mị nhớ lại mình, nhận ra mình, xót xa cho mình và thương người đồng cảnh. Lòng thương người trắc ẩn và tình giai cấp đã khiến Mị có hành động mạnh bạo: Cắt dây cởi trói cứu A Phủ.
+ Hệ quả tất yếu là Mị phải chạy trốn theo A Phủ, vì Mị biết: “Ở đây thì chết mất”.
+ Cắt dây cởi trói cứu A Phủ và cùng A Phủ chạy trốn khỏi Hồng Ngài của Mị là hành động vùng dậy tự phát của người nô lệ miền núi cao Tây Bắc, phản ứng lại đối với sự cai trị tàn bạo của bọn thống trị, nhằm mục đích tự giải phóng.
III. Kết bài:
Nhân vật Mị trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài là một hình ảnh tượng trưng cho vẻ đẹp và sức sống tiềm tàng của người phụ nữ bị áp bức. Với tình cảm gắn bó tha thiết và đôi mắt thấu hiểu của mình Tô Hoài không chỉ phản ánh hiện thực xã hội đầy khắc nghiệt mà còn thông qua đó bộc lộ những vẻ đẹp tiềm ẩn trong từng nhân vật, mà ở Mị là vẻ đẹp tài năng, nhan sắc, nhân cách, sự khao khát tự do mãnh liệt, tình yêu cuộc sống tha thiết, sự phản kháng mạnh mẽ đối với những bất công mà cô phải gánh chịu, để tự giải thoát cho chính bản thân và cả người khác. Thông qua hình tượng nhân vật Mị, tác giả đã tố cáo tội ác của thế lực phong kiến, thực dân tàn bạo áp bức bóc lột, đọa đày người dân nghèo miền núi.
Bài văn tham khảo:
Nếu như tác phẩm Dế mèn phiêu lưu kí của Tô Hoài mang một giọng hồn nhiên trong sáng thì tác phẩm Vợ chồng A Phủ của ông mang lại màu sắc dân tộc đậm đà, chất thơ chất trữ tình thấm đượm. Qua tác phẩm, nhà văn đã dựng nên một bức tranh hiện thực của hai cuộc đời: Mị và A Phủ, những bức tranh đó cũng chứa chan một tấm lòng nhân đạo của Tô Hoài.
Mị là một cô gái xinh đẹp trẻ trung, nhưng lại mang một kiếp sống nghèo của kẻ “thấp cổ bé họng”. Cha mẹ cô không thể trả nổi món nợ nhà thống lí thế là món nợ ấy truyền sang Mị. Tên thống lí tàn bạo ấy lại muốn bắt Mị làm “con dâu gạt nợ”. Mà quan đã muốn là trời muốn, cô Mị về làm dâu nhà quan mà trong lòng mang một mối uất ức không thể giãi bày. Tiếng làm dâu nhưng lại là một thứ nô lệ không hơn không kém, cô mất tất cả quyền sống, quyền được xem là một con người. Ngày trước dẫu nghèo nhưng được tự do, yêu đời, giờ đây vẫn nghèo vẫn cực nhọc lại nhục nhã chịu kiếp sống nô lệ.
Qua kiếp sống của Mị, nhà văn bộc lộ một tấm lòng thương người, chua xót cho số phận con người, và cũng qua đó Tô Hoài đã vạch trần cái bản chất bóc lột của giai cấp thống trị. Người ta dùng cái thế lực và tiền bạc “cướp người đàn bà đem về trình ma”, thế là người đàn bà cũng bị cái “ma” vô hình trói cả cuộc đời trong nhà ấy, “chỉ còn biết chờ ngày rũ xương ở đây thôi”.
Mị đã khổ nhiều rồi, trong cái địa ngục trần gian ấy, lại càng khổ hơn khi phải chấp nhận mình là kiếp trâu kiếp ngựa. Cả những con người cứng rắn, có lẽ không khỏi động lòng khi đọc đến câu “Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa”… Khổ mà đến “quen” rồi quả thật ý thức con người đã bị tê liệt, đã mất đi cái “yếu tố xã hội” để được xem là con người. Chuỗi ngày cực nhục đã cướp đi của Mị sức sống tài năng , cướp đi những thất vọng tuổi trẻ những “lúc hồi hộp chờ đợi người yêu”. Lúc nào và bao giờ cũng thế, công việc cứ nối tiếp nhau vẽ ra trước mặt Mị, cứ những công việc quen thuộc làm đi làm lại “Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, đến mùa thì đi nương bẻ bắp… Bao giờ cũng thế, suốt năm suốt đời như thế”. Khổ quá, cái khổ cứ chực bóp nát cuộc đời Mị, thế sao Mị không tự tử chết đi cho rồi? Không được bởi “Mị chết thì bố Mị còn khổ hơn bao nhiêu lần bây giờ. Mị đành trở lại nhà thống lí”.
Cuộc sống trong cái địa ngục khủng khiếp đã bào mòn đi trái tim yêu đời của Mị, giờ đây nó đã trở nên trơ lì, chai sạn. Mị chỉ còn biết vùi đầu vào công việc : “Mị cúi mặt, không nghĩ ngợi nữa” “ càng ngày mị càng không nói, cứ lùi lũi như một con rùa nuôi trong xó cửa”. Thế giới của Mị thu vào một “ cái buồng kín mít, chỉ có chiếc cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”. Ý thức đã hoàn toàn biến dạng, Mị nhìn ra cuộc đời bằng ô cửa sổ, mà lại chẳng biết gì ngoài ấy thì có phải Mị đã quên mình là con người! Rõ ràng Tô Hoài đã tuân thủ nguyên tắc biện chứng của chủ nghĩa hiện thực một cách nghiêm ngặt: hoàn cảnh đã tác động vào tính cách Mị. Vợ chồng A Phủ chính là một bản cáo trạng đanh thép kết án những bọn cường hào thống lí và Tô Hoài đã mở rộng tấm lòng mình để bao bọc, che chở, bênh vực cho những người phụ nữ miền núi chịu hai tầng bóc lột.
Bức tranh hiện thực được hoàn chỉnh hơn với sự xuất hiện của A Phủ, một chàng trai khỏe mạnh cường tráng, trung thực. Chỉ vì những cuộc ẩu đả thường tình mà A Phủ bị đưa ra xử kiện thật là vô lí. Nhưng vấn đề ở chỗ: Người đúng là con dân còn kẻ sai là con quan, hơn nữa, quan lại là người xử kiện. Như thế chẳng biết “công lí” có còn ngự trị nơi quan đường? Chỉ biết rằng A Phủ đang là một con chim xoãi cánh trong bầu trời tự do bỗng chốc bị nhốt trong lồng, bị trở thành nô lệ. Dường như cuộc đời A Phủ có lặp lại ít nhiều những biến thái của cuộc đời Mị. Đó là số phận chung cho những người miền núi thời bấy giờ.
Nhắc đến tác phẩm, người ta nhắc đến tính hiện thực và giá trị nhân đạo. Hiện thực mà chỉ bằng tố cáo phê phán thì còn khiếm khuyết, “nhân đạo” mà chỉ có yêu và ghét thì chưa phải là nhân đạo. Nhà văn cần phải hiểu nhân vật và tìm ra con đường tất yếu mà nhân vật phải đi. Tính cách nhân vật phát triển theo hoàn cảnh và được Tô Hoài phân tích theo con đường phát triển của tâm lí nhân vật. Thiết nghĩ đây mới là giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo độc đáo của tác phẩm.
Nhân cách Mị bị chôn vùi trong cái địa ngục trần gian là hợp lí, sống cho ra người thì không sống được muốn chết cũng không chết được. Có phải Mị đã ở cái trạng thái “sống dở chết dở”. Rồi Mị phải quen, phải chịu đựng, và trở nên chai lì như một cỗ máy. Liệu Mị có còn lối thoát? Nếu như có một hoàn cảnh đã làm tê liệt ý thức con người thì sẽ có một hoàn cảnh để vực dậy trong lòng họ một sức sống. Nghe như mơ hồ nhưng đó là sự thực. Khi chứng kiến A Phủ bị trói, lúc đầu “Mị thản nhiên thổi lửa hơ tay… nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy cũng thế thôi”. Nhưng “dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại của A Phủ” chính là “hoàn cảnh” đã giúp Mị sống dậy. “Lúc ấy đã khuya. Trong nhà đã ngủ yên Mị trở dậy thổi lửa. Ngọn lửa bập bùng sáng lóe Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở.Một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”.
Mị bắt gặp dòng nước mắt ấy và nhớ về mình, Mị cũng phải trói đứng thế kia và Mị cũng khóc “nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ không biết lau đi được”. Dòng nước mắt là sự đồng cảm giữa hai con người. Dòng nước mắt của A Phủ đã làm bỏng rát vết thương trong lòng Mị. Tất cả thôi thúc Mị cởi trói cho A Phủ và cả hai người “lẳng lặng đỡ nhau lao chạy xuống dốc núi”. Họ đến lập nghiệp ở Phiềng Sa. Thế rồi chẳng bao lâu sau, cái đồn Tây, lại lù lù xuất hiện, cha con thống lí lại vào ở đó. Trước mắt hai người chỉ còn một sự lựa chọn: trở về kiếp sống nô lệ hoặc chống kẻ thù. Cách mạng rồi sẽ đến với họ và họ sẽ trở thành người của cách mạng.
Muốn phân biệt giữa giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo là điều không phải dễ. Thực ra, cả hai hòa quyện vào nhau, đan xen vào nhau. Có ghét nhà văn mới tố cáo bọn thống lí Pá Tra, có thương cảm nhà văn mới viết được những câu văn đầy xúc động, có hiểu nhà văn mới đi sâu vào cuộc sống tâm lí con người. Và Tô Hoài có thông cảm với nhân vật lắm mới có thể xét đoán tinh tế cuộc sống tinh thần của Mị. Những ngày tháng đầu tiên ở nhà thống lí Mị cứ khóc có đến hàng mấy tháng, thế rồi định ăn lá ngón để tự tử vì không chịu nhục. Nhưng vẫn cố sống, sống một cách gượng gạo vì chữ hiếu. Mị nghèo vật chất nhưng không nghèo tình thương, lòng Mị vẫn âm ỉ một khao khát sống khao khát được tự do. Nếu như nhà văn lạnh lùng theo chủ nghĩa hiện thực khách quan thì làm sao nhà văn nắm bắt được cái khoảnh khắc ngắn ngủi nhưng vẫn “tồn tại đời đời” ấy.
Rõ ràng nhà văn Tô Hoài tuân theo chủ nghĩa hiện thực nhưng ông tin rằng hoàn cảnh dẫu có khắc nghịêt vẫn không thể vùi dập hoàn toàn nhân tính. Hoàn cảnh tác động tính cách nhưng không giết chết tính cách. Trải qua hơn nửa thế kỉ, tác phẩm vẫn còn còn nguyên giá trị hiện thực và nhân đạo cao cả của nó. Vì vậy truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” mới mãi mãi đọng lại trong lòng người đọc.