Phân tích nhân vật A Phủ trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”
- Mở bài
Cuộc sống của đồng bào dân tộc miền núi Tây Bắc đã khơi nguồn cảm hứng sáng tạo để Tô Hoài hình thành Truyện Tây Bắc trong đó có Vợ chồng A Phủ. Vợ Chồng A Phủ đã đặt ra vấn đề về số phận con người, những con người bị bóc lột cả về thể xác lẫn tâm hồn. Một trong những số phận đầy bất hạnh đó chính là nhân vật A Phủ.
- Thân bài
A Phủ có một cuộc đời đầy khổ đau tủi nhục. Ngay từ nhỏ, A Phủ đểu mồ côi cha mẹ. Năm đó, làng Háng -Bla phải một trận bệnh đậu mùa. Anh của A Phủ, em A Phủ chết, bố mẹ A Phủ cũng chết. Chỉ còn sót lại có một mình A Phủ. Cuộc đời A Phủ từ đó bơ vơ vất vưởng.
Cũng chỉ vì cái đói, vì miếng ăn mà A Phủ bị người ta bắt đem đổi lấy thóc. Có một người trong làng vì đói quá đã nhẫn tâm bắt A Phủ đem xuống bán đổi lấy cắp của người Thái dưới cánh đồng. Nhưng với bản tính ngang bướng, A Phủ tìm cách trốn lên núi và lưu lạc đến Hồng Ngài. Từ đó A Phủ sống một cuộc sống phiêu bạt. Cuộc đời anh không nhà cửa, không ruộng nương, phải đi làm thuê hết nhà này đến nhà khác.
Năm tháng qua đi, chẳng bao lâu A Phủ đã biết hết các công việc. Cuộc sống đã rèn luyện A Phủ thành một con người vững chãi. A Phủ biết đúc lưỡi cày, lưỡi cuốc, lại cày giỏi và săn bò tót rất bạo. A Phủ lại rất khỏe, chạy nhanh như ngựa, con gái trong làng nhiều người mê. Có người còn khen rằng: “đứa nào được A Phủ cũng bằng con trâu tốt trong làng”.
Tuy nghèo khó, khổ cực nhưng A Phủ cũng sống đầy khát khao. Ngày Tết đến, A Phủ chẳng có quần áo mới như nhiều trai khác, A Phủ chỉ có độc một chiếc vòng vía lằn trên cổ, A Phủ cũng cứ cùng trai làng đem sáo, khèn, con quay và quả pao, quả yến đi tìm người yêu ở các làng trong vùng. Anh ung dung tự tại giữa cuộc sống đầy khắc nghiệt chốn Hồng Ngài.
Thế nhưng, vận rủi đã đến với anh và chuyển hướng cuộc đời anh đến chỗ thảm khốc. Vì xích mích với đám trai làng trong lúc đi chơi, A Phủ đã đánh A Sử, con trai thống lí Pá Tra đến chảy máu. Hành động bột phát ấy đã mang tai họa đến với A Phủ. Anh bị đám trai làng bắt trói và đưa về nhà thống lí để chịu tội.
Từ một thanh niên tự do bỗng dưng A Phủ trở thành nô lệ. Cuộc đời nhân vật A Phủ là điển hình của cảnh áp bức bóc lột ở chốn Hồng Ngài. Bọn thống trị dựa vào đầu óc mê tín của người dân, lợi dụng cường quyền và thần quyền để áp bức, bóc lột sức lao động của họ.
Qua cảnh sử kiện tại nhà thống lý, Tô Hoài đã cho người đọc thấy được bộ mặt dã man tàn bạo của bọn thống trị miền núi. Bọn thống trị bằng sức mạnh của mình đã chà đạp lên quyền sống của con người, tước đoạt ở họ quyền làm người tự do. Không những thế, chúng còn hành hạ thân xác con người tàn tệ như đối xử với thú vật.
A Phủ bị bắt khiêng về ném xuống nhà như một con vật. Thế rồi suốt từ trưa đến chiều, thâu đêm đến sáng hôm sau, bọn chức dịch lợi dụng việc sự kiện kéo đến ăn cỗ và thi nhau hút thuốc phiện. Còn A Phủ suốt đêm đó phải quỳ giữa nhà chịu đòn. Cứ sau một đợt hút thuốc phiện lại một lần A Phủ bị đánh. Mặt A Phủ sưng lên, môi và đuôi mắt dập chảy máu. A Phủ đau lắm nhưng không biết kêu ai. Anh chỉ có một mình, còn bọn chúng thì quá đông. Anh là kẻ có tội, còn bọn chúng dựa vào cả cường quyền, lẫn thần quyền để khuất phục, chế ngự và hành hạ anh. Mọi người biết nhưng không ai nói gì, làm gì. Vì họ cũng tin vào thứ cường quyền và thần quyền ấy.
Cuối cùng A Phủ bị phạt vạ một trăm đồng bạc trắng. A Phủ không có tiền nộp nên phải ở làm kẻ lao động trừ nợ cho nhà thống lí. bản án ấy được khẳng định qua lời của tên thống lí: “bao giờ có tiền giả thì tao cho mày về, chưa có tiền giả thì tao bắt mày ở lại làm con trâu, con ngựa cho nhà tao. Đời mày, đời con, đời cháu mày tao cũng bắt thế, bao giờ hết nợ tao mới thôi”.
Đau đớn hơn đó là khi A Phủ phải đứng lên cầm con dao, ra chọc tiết, làm thịt lợn để làm cỗ hầu chính những kẻ đã biết anh thành nô lệ. Như vậy, sống trong hoàn cảnh mà mọi quyền lực đều nằm trong tay giai cấp thống trị, số phận của những người dân nghèo thật bi thảm. Họ có thể bị đánh đập dã man, bị chết bất cứ lúc nào.
Cuộc đời A Phủ từ đây rơi vào bóng tối cùng cực. A Phủ chính thức trở thành nô lệ, là công cụ lao động trong nhà thống lý Pá Tra. Quanh năm suốt tháng anh chỉ làm việc quần quật chỉ một thân một mình. A Phủ hết đốt rừng, cuốc nương rồi lại săn bò tót, bẫy hổ, chăn ngựa. Quanh năm một thân một mình, rong ruổi ngoài gò, ngoài rừng. Anh chìm ngập trong cả núi công việc, không bao giờ ngơi tay. Cả ngày mữa lẫn ngày nắng người ta thấy lúc nào A Phủ cũng phải làm việc. Lâu dần anh quên cả ý nghĩa của sự tồn tại bản thân, quên hẳn những khát khao của tuổi trẻ.
Tưởng chừng số phận đã an bài số phận A Phủ sẽ là người nô lệ suốt đời suốt kiếp. Rồi anh sẽ chết khi không còn sức lực để làm việc nữa. Thân xác anh sẽ trở về với đất. Cái tên A Phủ sẽ không còn ai nhắc đến. Thế nhưng, một sự việc xảy đến, một lần nữa, cuộc đời A Phủ lại chuyển hướng. Bánh xe số phận lại gập ghềnh.
Lần đó, chỉ do mãi mê bẫy dím mà anh để hổ bắt mất bò. Mất một con bò khiến cho thống lý Pá Tra vô cùng giận dữ. Nó trói đứng A Phủ vào cột suốt mấy ngày mấy đêm phải chịu đói, chịu rét cho đến khi A Sử và bọn trai làng giết được con hổ ấy thì chúng mới tha cho anh. Với sức của A Sử và bọn trai làng nghiện hút, A Phủ không tin chúng sẽ bắt được con hổ. A xin đi bắt hổ nhưng chúng không chịu. Chúng lo sợ anh sẽ bỏ trốn. Và thiếu chút nữa A Phủ đã phải trả giá bằng cả tính mạng của mình nếu không được Mị giải thoát.
Thông qua biểu phản ánh số phận đầy đau thương của nhân vật A Phủ, nhà văn tố cáo mạnh mẽ giai cấp thống trị độc ác đồng thời bày tỏ niềm đồng cảm sâu sắc đối với người dân nghèo. Trong con người của A Phủ, người đọc còn cảm nhận được ở anh những phẩm chất tốt đẹp. Đó là sự ý thức của A Phủ về quyền làm người. Ngay từ nhỏ A Phủ đã thể hiện sự dũng cảm của mình. A Phủ không chấp nhận sống dưới cánh đồng thấp nên đã trốn lên núi cao. Còn khi bị bọn A Sử phá đám trong buổi chơi tết, A Phủ để xông ra đánh A Sử mà không hề nghĩ rằng đó là con quan: “A Phủ sốc tới, nắm có vòng cổ (dấu hiệu con nhà quan) kéo dập đầu xuống, xé vai áo,đánh tời tấp”.
Khi bị bắt, bị đánh đập, A Phủ không hề kêu van. Anh không hề van xin mà lì như tượng đá. Ngay cả khi làm mất bò, A Phủ thản nhiên vác nữa con bò còn lại về ném xuống gốc đào trước cửa. Anh không chấp nhận chịu trói mà đòi lấy súng để đi bắn hổ. Anh nói dõng dạc: “cho tôi đi. Được con hổ ấy còn nhiều hơn con bò, cho tôi khỏi tội”. Đó là anh tự tin vào bản thân. Bị thống lý trói đúng vào cột, đến đêm A Phủ tìm cách nhay đứt hai vòng dây. Phải chăng, đó chính là ý thức của sự phản kháng trong con người A Phủ.
Khi được Mị giải thoát, dù chân khụy xuống, không bước đổi nhưng đứng giữa ranh giới của sự sống và cái chết A Phủ đã quật sức vùng lên chạy. Anh còn cứu thoát cả cuộc đời nô lệ của Mị. Sự vùng lên tự giải thoát cho chính mình của A Phủ (và Mị) tiêu biểu cho sự vươn lên của đồng bào dân tộc miền núi. Cho dù đó chỉ là sự tự phát nhưng đó là tiền đề cho sự vươn tới ánh sáng của Đảng ở chặng đời sau này của A Phủ.
Mặc dù không được Tô Hoài dành cho nhiều trang viết nhưng nhân vật A Phủ cũng thể hiện sự thành công của nhà văn trong bút pháp khắc họa nhân vật. Thông qua việc phản ánh số phận của A Phủ, nhà văn còn lên tiếng tố cáo tội ác của giai cấp thống trị phong kiến miền núi đồng thời bộc lộ tấm lòng nhân đạo sâu sắc của mình.
Qua cuộc đời và số phận của nhân vật A Phủ, truyện thể hiện lòng yêu thương, sự đồng cảm sâu sắc với thân phận đau khổ của người lao động nghèo miền núi. Nhà văn trực tiếp phê phán quyết liệt những thế lực chà đạp con người. Truyện khẳng định niềm tin vào vẻ đẹp tâm hồn, sức sống mãnh liệt và khát vọng hạnh phúc cháy bỏng của con người. Dù trong hoàn cảnh khắc nghiệt đến mức nào, con người cũng không mất đi khát vọng sống tự do và hạnh phúc.
- Kết bài:
Tác phẩm Vợ chồng A Phủ đặt ra vấn đề số phận con người, những con người dưới đáy xã hội, những con người bị tước đoạt hết tài sản, bị bóc lột sức lao động và bị xúc phạm nặng nề về nhân phẩm. Thông qua cuộc đời đầy khổ đau, tủi nhục và sức mạnh vươn lên của nhân vật A Phủ và nhân vật Mị, nhà văn Tô Hoài đã đã chỉ ra con đường giải thoát cho người dân tộc miền núi. Muốn vượt lên sức mạnh của cường quyền và thần quyền chỉ có một cách là tìm đến ánh sáng của cách mạng, làm cách mạng và tự giải phóng mình ra khỏi ách thống trị, làm chủ cuộc sống của chính mình.