»» Nội dung bài viết:
Phân tích nhân vật Mị để làm rõ ý kiến: Điều kì diệu là dẫu trong cùng cực đến thế nào mọi thế lực của tội ác cũng không giết được sức sống con người. Lay lắt, đói khổ, nhục nhã, Mị vẫn sống, âm thầm, tiềm tàng mãnh liệt.
- Mở bài:
Tô Hoài là cây đại thụ lớn nhất trong nền văn học Việt Nam thế kỷ 20. “Vợ chồng A Phủ” là kết quả của chuyến thực tế lên vùng tây Bắc của nhà văn năm 1952. Tác phẩm là sự phản ánh chân thực và cảm động về nỗi khổ của đồng bào Tây Bắc dưới ách thống trị của thực dân Pháp, đồng thời ngợi ca vẻ đẹp con người nơi đây. Mị là nạn nhân của nạn gá nợ bất công và tàn bạo của bọn phong kiến miền núi ở nước ta trước đây. Qua cuộc đời và số phận của Mị, tác giả đã chứng minh: “Điều kì diệu là dẫu trong cùng cực đến thế nào mọi thế lực của tội ác cũng không giết được sức sống con người. Lay lắt, đói khổ, nhục nhã, Mị vẫn sống, âm thầm, tiềm tàng mãnh liệt”.
- Thân bài:
1. Giải thích ý kiến:
– Lời chia sẻ của chính tác giả Tô Hoài đã bày tỏ sự cảm phục sức sống tiềm tàng mãnh liệt ngay trong hoàn cảnh khốn cùng, bị đày đọa của Mị – nhân vật trung tâm của truyện ngắn Vợ chồng A Phủ. Qua lời chia sẻ, tác giả đã phản ánh cuộc sống khổ nhục của người dân miền núi (cùng cực, lay lắt, đói khổ, nhục nhã, bị đọa đày) qua đó gián tiếp tố cáo chế độ phong kiến thực dân miền núi đày đọa con người.
– Đặc biệt Tô Hoài đề cao bản chất tốt đẹp và khẳng định sức sống ngoan cường, bất diệt (không thể giết được sức sống con người, Mị vẫn sống, âm thầm tiềm tàng mãnh liệt) của người dân miền núi nhất là những người trẻ tuổi. Đó cũng là nội dung chính, chủ đề làm nên giá trị của tác phẩm Vợ chồng A Phủ.
2. Phân tích nhân vật Mị để làm sáng tỏ ý kiến.
– Mị có phẩm chất tốt đẹp:
+ Mị là một thiếu nữ xinh đẹp, tài hoa, hồn nhiên, yêu đời, yêu tự do, ý thức được quyền sống của mình.
+ Phẩm chất tốt đẹp nhất của Mị là giàu lòng vị tha, đức hi sinh: Mị thà chết còn hơn sống khổ nhục, nhưng rồi Mị chấp nhận sống khổ nhục còn hơn là bất hiếu.
– Mị bị cha con thống lí (đại diện cho ách thống trị của phong kiến miền núi) đày đọa về thể xác lẫn tinh thần:
+ Mị là con dâu gạt nợ, sản phẩm cho nạn cho vay nặng lãi của bọn chúa đất miền núi. Mị bị đối xử như một nô lệ, lao động triền miên như một cái máy. Mị sống khổ nhục hơn cả trâu ngựa, thường xuyên bị A Sử đánh đập tàn nhẫn. Mị sống như một tù nhân trong căn buồng chật hẹp, tối tăm.
+ Mị bị thế lực phong kiến thực dân miền núi hù dọa, trói buộc bởi thần quyền (cúng trình ma, nhận ma). Mị muốn sống cũng chẳng được sống cho ra người, muốn chết cũng không xong. “ Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi” dường như Mị đã cam chịu thân phận khốn khổ, sống như cái bóng, như “con rùa nuôi trong xó cửa“. Mị sống mà như chết.
+ Mị còn bị nô dịch về tư tưởng bởi bóng ma thần quyền: “Ta là thân đàn bà, nó đã bắt về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày chết rũ xương ở đây thôi”…
– Nhưng sức sống trong Mị vẫn tiềm tàng mạnh mẽ, không thể bị hủy diệt. Dù trong bất cứ tình huống nào, thế lực phong kiến thực dân miền núi không thể tiêu diệt được sức sống ngoan cường, mãnh liệt luôn tiềm ẩn trong Mị.
+ Sức sống của Mị đã bùng dậy trong đêm tình xuân ở Hồng Ngài:
- Bên trong hình ảnh “con rùa nuôi trong xó cửa“ vẫn đang còn một con người khát khao tự do, khát khao hạnh phúc. Gió rét dữ dội cũng không ngăn được sức xuân tươi trẻ trong thiên nhiên và con người. Tiếng sáo đêm tình mùa xuân tất cả đánh thức tâm hồn Mị. Mị uống rượu để quên hiện tại đau khổ. Mị nhớ lại thời con gái, Mị sống lại với niềm say mê yêu đời của tuổi trẻ. Trong khi đó, tiếng sáo( biểu tượng của tình yêu và khát vọng tự do) từ chỗ là hiện tượng ngoại cảnh đã đi sâu vào tâm tư Mị.
- Mị nhận thức sự tồn tại của bản thân “thấy phơi phới trở lại”, “Mị còn trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi”, với khát khao tự do.
- Tinh thần phản kháng mạnh mẽ: lấy miếng mỡ để thắp sáng lên căn phòng tối. Mị thắp đèn như thắp lên ánh sáng chiếu rọi vào cuộc đời tăm tối. Mị vấn lại tóc, lấy cái váy hoa, nổi loạn muốn “đi chơi tết” chấm dứt sự tù đày.
- Hiện thực không trói được trái tim Mị, khi A Sử trói, lòng Mị vẫn lửng lơ theo tiếng sáo, tiếng hát của tình yêu đến những đám chơi.
- Lúc vùng bước đi nhưng tay chân đau không cựa được, Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa, cô chợt tỉnh trở về với hiện thực. Cả đêm hôm ấy, Mị lúc mê lúc tỉnh, lức đau đớn, lúc nồng nàn tha thiết.
→ Tâm hồn chai sạn của Mị đã sống lại, Mị luôn tiềm tàng sức sống mãnh liệt, sức sống ấy luôn âm ỉ trong lòng người con gái Tây Bắc và chỉ chờ có cơ hội để bùng lên mạnh mẽ. Dù sự nổi loạn của Mị không thể giải thoát số phận cô nhưng đây là nền tảng nhóm lên thêm ngọn lửa sức sống trong cô, để sức sống không lụi tắt hẳn, chuẩn bị cho một sự phản kháng trong tương lai: cắt dây trói cho A Phủ.
– Đỉnh cao của sức sống, khát vọng tự do ngoan cường mãnh liệt là hành động của Mị trong đêm đông cứu A Phủ:
+ Lúc đầu thấy A Phủ bị trói, Mị vẫn thản nhiên. Nhưng khi Mị thấy dòng nước mắt trên má A Phủ, nhớ lại cảnh ngộ của mình trong đêm mùa xuân năm trước, Mị lại biết thương mình và thương cho kiếp người bị đày đọa “có lẽ ngày mai người kia sẽ chết, chết đau, … phải chết”.
+ Mị thấy cái chết sắp tới với A Phủ là uất ức, phi lí. Mị không sợ hình phạt của Pá Tra, ý thức căm thù và lòng nhân ái giúp Mị thắng nỗi sợ hãi, biến Mị thành con người dũng cảm trong hành động cắt dây trói cứu A Phủ. Chính vì bất bình trước tội ác của bọn thống lí, Mị cắt dây đay cởi trói cho A Phủ.
+ Ngay sau đó, Mị đứng lặng trong bóng tối với bao giằng xé trong lòng. Nhưng rồi khát vọng sống trỗi dậy thật mãnh liệt, Mị vụt chạy theo A Phủ, đến với tự do.
– Mị là người con gái lặng lẽ mà mạnh mẽ, tiềm tàng sức sống, hành động của Mị đã đạp đổ cường quyền, thần quyền của bè lũ thống trị miền núi.
→ Với bút pháp hiện thực sắc sảo, nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật tinh tế (đặt nhân vật trong những tình huống độc đáo, nhập thân vào nhân vật, thể hiện tâm trạng khi tuần tự, khi đột biến…) Tô Hoài đã xây dựng thành công nhân vật Mị, thể hiện sâu sắc sức sống âm thầm, tiềm tàng mãnh liệt, không thể bị hủy diệt của con người.
3. Đánh giá, bình luận ý kiến.
– Lời chia sẻ của chính tác giả Tô Hoài về nhân vật Mị đã thể hiện cảm xúc đặc biệt của ông với nhân vật của mình đồng thời cũng bộc lộ sự khám phá, trân trọng ngợi ca sức sống ngoan cường, sức mạnh kỳ diệu của những người dân miền núi dưới ách thống trị đọa đày của bọn quan làng. Văn học gắn bó với đời sống, nhân vật văn học từ cuộc sống bước vào tác phẩm, tác phẩm chính là kết quả của chuyến đi thực tế kéo dài 8 tháng của Tô Hoài với đồng bào các dân tộc Tây Bắc năm 1952. Lời chia sẻ giản dị, xúc cảm về con người và miền đất để thương để nhớ trong Tô Hoài đã chứa đựng thông điệp nghệ thuật đầy ý nghĩa, thể hiện niềm tin bất diệt vào con người, nổi bật giá trị hiện thực, nhân đạo của tác phẩm.
+ Cuộc đời đau khổ, tủi nhục của Mị có ý nghĩa tiêu biểu cho kiếp sống khốn khổ của người dân miền núi dưới ách thống trị của các thế lực phong kiến và thực dân. Điều đó đem lại giá trị hiện thực sâu sắc cho tác phẩm.
+ Nhưng có áp bức có đấu tranh, nhân vật Mị chính là điển hình sinh động cho sức sống tiềm tàng, sức vươn lên mạnh mẽ của con người từ trong hoàn cảnh tăm tối, hướng tới ánh sáng của nhân phẩm và tự do. Thể hiện niềm tin mãnh liệt vào con người, khẳng định sức sống tiềm tàng của con người ngay trong hoàn cảnh khốn cùng, bị đọa đày; khẳng định các thế lực dù tàn bạo đến đâu cũng không thể tiêu diệt được sức sống con người; khát vọng sống của con người là bất diệt, truyện ngắn có giá trị nhân đạo sâu sắc, tiến bộ.
– Ý kiến thể hiện niềm tin của nhà văn vào con người và khát vọng sống mãnh liệt ở họ. Đó là biểu hiện của tư tưởng nhân đạo ở Tô Hoài.
- Kết bài:
Với lớp ngôn ngữ phong phú, cách nói đậm chất miền núi, lối trần thuật linh hoạt với sự dịch chuyển điểm nhìn trần thuật, miêu tả thành công tâm lí nhân vật và hình ảnh thiên nhiên, nhà văn đã khắc họa thành công cuộc đời bi thảm và con đường giải thoát tất yếu của nhân vật Mị. Tác phẩm chứa đựng giá trị nhân đạo sâu sắc: sự cảm thông với số phận đau khổ của những con người chịu áp bức, tố cáo lên án bọn thống trị miền núi, bọn thực dân, ngợi ca vẻ đẹp, sức sống tiềm tàng trong mỗi con người Tây Bắc.
Bài văn tham khảo:
- Mở bài:
Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên nhận xét về văn chương của Tô Hoài: “Văn chương của Tô Hoài thấm đậm chất Kẻ Chợ trong giọng điệu, cái nhìn, nhân vật, phong cảnh. Ông viết nhiều về Hà Nội, cả chuyện xưa và chuyện nay, đã đành. Ngay cả khi ông viết về miền núi, về các chuyện lịch sử, dã sử, về những chuyến đi nước ngoài thì thấp thoáng trong và ngoài trang sách của ông vẫn là tính cách và cốt cách của một nhà văn Kẻ Chợ hóm hỉnh, tinh quái, khôn ngoan, rành đời”. Kỳ thực, tôi rất cảm phục nhận định này khi nói về một tác giả mà bản thân mình rất yêu mến – Tô Hoài. Từ ký ức tuổi thơ với hình ảnh Dế mèn, cho đến khi trường thành được đọc “Vợ chồng A Phủ” tất cả những gì còn lại trong tôi chính là sự thú vị, sự chân thực, dí dỏm trong từng lời văn của ông. Đọc “Vợ chồng A Phủ”, được tìm hiểu về nhân vật Mị, ta càng thêm thấm thía nhận định mà Tô Hoài chia sẻ về đứa con tinh thần của mình: “Nhưng điều kỳ diệu là dẫu trong cùng cực đến thế mọi thế lực của tội ác cũng không giết được sức sống con người. Lay lắt đói khổ, nhục nhã, Mị vẫn sống, âm thầm, tiềm tàng, mãnh liệt.”
- Thân bài:
Tô Hoài – nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Với vốn am hiểu sâu rộng về nhiều lĩnh vực khác nhau, tác giả này thường lựa chọn được những hình ảnh, từ ngữ rất phù hợp để đưa vào trong từng trang văn của mình. Tô Hoài sáng tác nhiều ở các mảng đề tài khác nhau, có thể kể tới như truyện cho thiếu nhi, truyện về Tây Bắc và viết cả về Hà Nội. Nhà thơ Trần Đăng Khoa khi được tiếp xúc với người nghệ sĩ này đã trầm trồ thán phục rằng: “ Tô Hoài là nhà Hà Nội học” bởi những kiến thức mà ông biết không có trong bất cứ một cuốn sách nào, một thư viện nào. Sáng tác nhiều như vậy, nhưng nhà văn này lại dành 1 sự quan tâm đặc biệt cho hình ảnh của người lao động đặc biệt là đồng bào Tây Bắc. Theo như Tô Hoài tâm sự, vì mảnh đất miền Tây đã để thương để nhớ cho ông nhiều quá nên ông đã quyết định quay trở lại đây, trả món ân tình bằng một tập truyện “Tây Bắc” xuất sắc. “Vợ chồng A Phủ” là 1 trong số 3 truyện ngắn in trong tập truyện này. Tác phẩm là thành quả đẹp của chuyến đi thực tế dài 8 tháng vào năm 1952 cùng bộ đội. Thời gian ở đây, được sống, được làm việc, được tiếp xúc đã giúp cho ngòi bút của nhà văn nay có biết bao nhiêu cảm hứng để xây lên những áng văn đẹp và tình cho đời. Không quên sứ mệnh của một nhà văn, Tô Hoài nhìn thấy những con người vất vả, yêu câu chuyện mà họ kể lại viết thành những tác phẩm để đời. “Vợ chồng A Phủ” chính vì lý do đó mà đã thể hiện mạnh mẽ 1 trong những phẩm chất cao đẹp của người lao động – sức sống tiềm tàng. Điều này thật giống với nhận định Tô Hoài đã từng tâm sự: “Nhưng điều kỳ diệu là dẫu trong cùng cực đến thế mọi thế lực của tội ác cũng không giết được sức sống con người. Lay lắt đói khổ, nhục nhã, Mị vẫn sống, âm thầm, tiềm tàng, mãnh liệt.”
Nhận định của nhà văn muốn đề cập tới 2 yếu tố đối lập: Một bên là sự đe dọa thường trực của cường quyền, bạo quyền, thần quyền; bên còn lại là số phận nhỏe bé của những con người lam lũ. Giữa một xã hội đầy những bất công, Tô Hoài lên tiếng thay cho đồng bào dân tộc thấp cổ bé họng, nhận định vừa mang tính chất tố cáo xã hội phong kiến mục ruỗng, vừa mang giá trị tôn vinh vẻ đẹp – sức sống tiềm tàng của con người. Trong cùng cực, đau thương họ vẫn nghĩa về sự sống, dám đấu tranh cho sự sống. Mị là nhân vật điển hình như vậy.
Lật giở từng trang văn của Tô Hoài, ta bắt gặp hình ảnh của nhân vật Mị xuất hiện thầm lặng bên những vật vô tri vô giác. Cách xuất hiện đó thật đặc biệt: “Ai ở xa về có việc vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có 1 cô con gái ngồi quay sợi bên tảng đá, trước cửa cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Đó là sự xuất hiện rất khác lạ của 1 cô gái trẻ. Hình ảnh của 1 con người cô độc, âm thầm, gần như lẫn vào các sự vật vô tri: cái quay sợ, tảng đá, tàu ngựa, … trong khung cảnh đông đúc, tấp nập của nhà quan Thống lí. Là con dâu của một gia đình quyền thế có “nhiều nương ngô, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng”, vậy tạo sao lúc nào cô ấy cũng buồn? Tác giả đã tạo ra tình huống có vấn đề để dẫn dắt người đọc cùng tìm hiểu số phận của nhân vật Mị trong truyện.
Mị là một cô gái có nhiều thiệt thòi nhưng sự thiệt thòi đó không khiến cô đánh mất những ước mơ của mình. Cô là con gái lớn trong một gia đình nghèo ở vùng cao Tây Bắc, mồ côi mẹ từ nhỏ, lớn lên trong vòng tay che chở của cha. Khi lớn lên, Mị trở thành một thiếu nữ xinh đẹp, một bông hoa của núi rừng, đã làm say lòng bao chàng trai Tây Bắc: “Trai đến đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị”. Mị có tài thổi sáo bằng lá, thổi kèn lá hay như thổi sáo, khiến cho trai làng “ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”. Những tháng năm tuổi trẻ, Mị cũng đã có 1 tình yêu đẹp cho riêng mình. Là một cô gái toàn vẹn cả sắc lẫn tài như vậy, lẽ ra cô phải được hưởng một cuộc sống hạnh phúc. Thế nhưng, chỉ vì món nợ truyền kiếp, món nợ tiền kiếp từ ngày cha mẹ mới lấy nhau để lại, Mị đã trở thành cô con dâu gạt nợ không công cho nhà thống lí. Thẳng A Sử – con trai nhà Thống lí lừa bắt Mị, buộc người con gái đẹp Tây Bắc trẻ trung thành cô con dâu gạt nợ không công cho nhà địa chủ.
Ban đầu cô phản kháng: “Có đến hàng mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc”. Mị đã định ăn lá ngón tự tử. Trước khi chết cô đã về lạy cha, nhưng lời kêu van thống thiết của người cha già đã khiến Mị phải nuốt nỗi cay đắng, tủi nhục vào lòng, đành quay trở lại nhà Thống lí. Thương người cha già, Mị không còn ý định tự tử nữa. Hành động dám chết khi cảm thấy cuộc đời của mình không còn bất cứ ý niệm nào là 1 trong những biểu hiện của lòng ham sống vô tận. Thế nhưng, Mị lại không thể can đảm làm điều mình muốn làm. Người cha trước mặt Mị khiến cô biết mình chưa thể buông bỏ mọi chuyện khi chưa làm tròn chữ hiếu. Mị quay lại, chấp nhận cuộc sống làm thân trâu ngựa. Hành động dám sống ngay cả khi cuộc đời không còn ý niệm cũng là một điều đáng lưu ý khi tìm hiểu về nhân vật này. Sự sống có lẽ được nảy mầm từ đây.
Quãng đời của Mị sống với A Sử là những ngày vất vả, đau khổ. Cuộc sống của cô ngày càng đau khổ, ngày càng vất vả, nghiệt ngã. Mị đã trở thành nô lệ, bị chiếm đoạt sức lao động, nhan sắc và cuộc đời. Mị như một công cụ lao động cho nhà Thống lí Pá Tra. Cuộc sống của Mị gắn chặt với các sự vật vô tri. Càng ngày Mị càng ít nói “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Bây giờ Mị không nghĩ đến chuyện chết nữa vì đã quen với cái khổ rồi và cho rằng mình còn sống mà như đã chết, bởi cuộc sống chẳng còn nghĩa lí. Đời Mị cứ thế lặng lẽ trôi đi. Cái ác của bọn Thống lí đã giết chết phần tốt đẹp trong con người Mị. Mị bị đày đọa đến mức tinh thần phản kháng cũng dần tê liệt. Tiếng thở dài của cô thể hiện thái độ buông xuôi, phó mặc cho số phận. “Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa…”. Con trâu, con ngựa nhà giàu đêm còn được nghỉ, còn cô không lúc nào ngớt việc.
Bị biến thành một thứ công cụ lao động là nỗi cực nhục mà Mị phải chấp nhận và chịu đựng. Nhưng sự ê chề của kiếp sống nô lệ chưa dừng lại ở đó, Mị còn phải chịu sự cầm tù kéo dài về tinh thần. “Ở cái buồng Mị nằm, kín mít, có một chiếc của sổ, một lỗ vuông bằng bàn tay…”. Cô sống vô cảm, chai lì, không còn ý thức về khổ đau, thời gian, tình yêu, khát vọng và cuộc sống. Đã bao năm rồi, Mị không biết đến mùa xuân, không đi chơi tết. Đó là cuộc sống chết về tinh thần, sống như một cái xác không hồn ở chốn địa ngục, trần gian. Mị cứ sống như thế, thân phận của 1 cô con dâu gạt nợ không công, bị chà đạp về cả thể xác và tâm hồn.
Là con dâu trong nhà Thống lí Pá Tra bị đày đọa, bóc lột sức lao động, cầm tù về tinh thần nhưng từ sâu trong lòng Mị vẫn ấp ủ một ngọn lửa khát vọng sống, tự do, chỉ chờ cơ hội là trỗi dậy mạnh mẽ. Sức sống tiềm tàng của Mị được ví như một mầm cây xanh non, chỉ đợi cơn mưa đi ngang qua sẽ bung nở thành cây đời xanh tươi. Và cây đời đó đã thực sự nảy mầm trong đêm tình mùa xuân.
Sự hồi sinh của nhân vật Mị được tác giả miêu tả sâu sắc và tinh tế. Những yếu tố bên ngoài tác động vào tâm lí nhân vật như khung cảnh mùa xuân, tiếng sáo gọi bạn tình, men rượu đã thức tỉnh tất cả cảm xúc của Mị: căm ghét sự bất công, tàn bạo, khao khát một cuộc sống tự do, hạnh phúc.
Mùa xuân đến với Hồng Ngài. Một mùa xuân hiện ra với màu sắc, âm thanh: tiếng sáo, tiếng khèn,… Không khí nồng nàn, vui tươi của mùa xuân như được tăng thêm bởi bữa rượu ngày Tết ở nhà Thống lí với tiếng chuông đánh ầm ĩ,… Năm nay, nghe được tiếng lòng của những người ham sống, nên có lễ đất trời đã có những biến chuyển khác thường. Mùa xuân đến sớm, gió rét dữ dội, khung cảnh trước mặt vừa sôi động, vừa bình yên. Mị cảm nhận được mùa xuân đang về, nhưng những cảm nhận ấy còn mơ hồ. Mị nghe thấy tiếng sáo xa xa, những đêm tình mùa xuân đã tới. Đột nhiên, Mị nhẩm theo lời bài hát của người đang thổi. Sau bao nhiêu năm câm lặng, Mị đã cất lên những lời thì thầm mùa xuân đầu tiên.
“Ngày Tết, Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát”. Mị đang sống trong một trạng thái khác thường. Men rượi làm cho Mị lâng lâng say, nhưng tâm hồn cô thì từ từ thức tỉnh. Cái cách uống rượu “ực từng bát” khiến ta nghĩ như thể Mị đang cố uống cạn những cay đắng, uất hận của phần đời đã qua. Hơi men của rượu đã đưa tâm hồn Mị đi theo tiếng sáo, nó khiến cô nhớ lại những kỉ niệm đẹp của thời con gái,… Người ta thường uống rượu để say, nhưng Mị uống rượu để nhớ. Nhớ lại quá khứ có nghĩa là Mị đã thoát ra khỏi tình trạng sống mà như đã chết. Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng vui sướng như những đêm Tết ngày trước. Mị nhận ra mình còn trẻ lắm và cô muốn đi chơi. Sức sống bấy lâu nay bị đè nén, giờ đây trỗi dậy mạnh mẽ, không gì ngăn nổi.
Xuất hiện trong tâm trí Mị đầu tiên là một ý nghĩ lạ lùng mà rất chân thật. “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không buồn nhớ lại nữa”. Nghịch lí trên cho thấy khi niềm khao khát sống được khơi lên, nó sẽ trở thành một mãnh lực xung đột gay gắt với trạng thái vô nghĩa của thực tại. Mị đã ý thức được thực tại của mình. Đó là biểu hiện của lòng khát khao sống mãnh liệt.
Trong khi đó, tiếng sáo gọi bạn tình cứ thôi thúc, mời gọi. Tiếng sáo là biểu tượng về khát vọng tình yêu. Tiếng sáo được miêu tả song hành với diễn biến tâm trạng Mị. Nó chính là ngọn gió thổi bùng lên đốm lửa vẫn đang cháy âm ỉ trong lòng cô gái khao khát tình yêu. Tiếng sáo đầy ám ảnh đã nhập vào thế giới tâm hồn Mị. Giờ đây tâm hồn Mị đang rập rờn tiếng sáo.
Sức sống trỗi dậy trong tâm hồn Mị như những đợt sóng ào ạt. Hành động Mị vào phòng lấy mỡ thắp nến cho sáng có nghĩa là Mị đang soi sáng tâm hồn mình để tìm lối thoát. Con người đích thực trong Mị đã sống lại, hòa lẫn với con người thực tại khiến tâm hồn cô chập chờn bất định. Dường như không đếm xỉa gì đến những xiềng xích tàn bạo của nhà Thống lí Pá Tra, Mị hành động như một con người tự do theo suy nghĩ, cảm xúc của mình. Cô quấn lại tóc, rút cái váy hoa trên vách, sửa soạn đi chơi Tết.
Giữa lúc khát vọng sống của Mị trỗi dậy mãnh liệt nhất thì cũng là lúc nó bị vùi dập phũ phàng nhất. A Sử đi chơi về, thấy Mị có ý định đi chơi xuân liền đánh Mị, trói đứng Mị vào cột nhà khiến cô không thể cúi, nghiêng đầu được. Sau đó thổi tắt ngọn đèn và đóng sầm cửa lại. Thằng a Sử nó muốn dìm Mị vào trong bóng tối, muốn dập tắt mong muốn hồi sinh của Mị. Thế nhưng, A Sử chỉ trói được thể xác của Mị, nhưng không trói được tâm hồn của Mị. “Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi”. Tâm hồn Mị vẫn đi theo tiếng sáo và quên nỗi đau thể xác. Đến khi cô muốn “vùng bước đi” thì mới biết mình đang bị trói, tay chân đau nhức, Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa. Nhưng vào khuya, cô lại quên ngay hiện tại và bồi hồi sống lại cùng tiếng sáo. Mị “lúc mê, lúc tỉnh”. Những ký ức tươi đẹp, những đau đớn của hiện tại. Mị khóc mà nước mắt chẳng thể lau. Cứ thế đến hết đêm cho đến khi trời tang tảng sáng lúc nào cũng không biết. Mị bàng hoàng tỉnh và thấy im ắng, không biết có chuyện gì xảy ra nữa. Mị chợt nhớ lại câu chuyện mà người ta hay kể ở nhà Thống lí Pá Tra, ngày xưa có một người vợ chết vì bị chồng trói trong nhà ba ngày. Nghĩ thế, Mị sợ lắm. Cô còn thử cựa quậy xem mình còn sống hay đã chết. Đây là một trong những chi tiết thể hiện lòng ham sống mãnh liệt của người con gái này dù trong cảnh đói khổ, lay lắt, nhục nhã.
Tô Hoài đã đặt sự hồi sinh của Mị bên cạnh tình huống đầy bi kịch: khát vọng sống mãnh liệt và hiện thực phũ phàng, nhưng sức sống của Mị lại càng dữ dội hơn. Nhà văn muốn khẳng định con người có sức sống mãnh liệt cho dù bị đày dọa, dẫm đạp đến thế nào.
Thế rồi sau đêm mùa xuân, Mị thậm chí còn câm lặng hơn lúc trước, quay lại với cuộc sống đọa đầy của mình và chấp nhận nó như những điều bình thường. Chuyện sẽ không có gì khác nếu như đêm mùa đông đó không xảy ra. Quả thực, nói như nhà văn Tô Hoài, dẫu cho có đau đớn, nhục nhã thế nào, sức sống tiềm tàng của Mị vẫn luôn âm thầm trôi chảy, chị đợi cơ hội là bùng lên thành đám cháy lớn, giải phóng cho chính mình.
Mùa đông trên núi cao dài và lạnh, Mị chỉ có bếp lửa là người bạn duy nhất của mình. Mị có thói quen sưởi lửa hàng đêm dù rất nhiều lần thằng A Sử nó về nhìn thấy Mị sưởi lửa nó đã đạp Mị ngả dụi xuống đất. Nhưng Mị không bỏ được. Bếp lửa đối với người con gái này không chỉ là công cụ sưởi ấm mà quan trọng hơn đó còn là người bạn sưởi ấm tâm hồn của Mị trong những năm tháng đầy chai sạn này. Đêm hôm đó, cũng nhờ bếp lửa, Mị nhìn thấy giọt nước mắt của A Phủ – Chàng trai gạt nợ cho nhà thống lý có thể ngày mai, ngày kia sẽ chết.
Chỉ vì đánh a Sử để bảo vệ thanh niên làng, A Phủ trở thành người làm gạt nợ không công cho nhà Thống lý để trả hết số nợ sau 1 vụ xử kiện đầy oan uổng diễn ra tại nhà Thống lý. Từ khi đi ở trừ nợ cho nhà quan Thống lí Pá Tra, A Phủ làm “phăng phăng”, việc gì cũng làm tốt cả. Nhưng sơ ý, vì mải mê bẫy nhím nên hổ đã bắt mất một con bò. A phủ không trốn tránh trách nhiệm mà đã dũng cảm nhận lỗi và xin Pá Tra cho mượn súng để đi bắn hổ nhưng bị từ chối. Suốt mấy ngày đêm, anh bị cha con Thống lí Pá Tra trói đứng vào một cây cột trong góc nhà chờ chết. Người con trai dũng mãnh ấy đã lâm vào tình cảnh tuyệt vọng. Nhưng cuộc sống của anh chưa hẳn đã dừng lại tại đây. A Phủ đã được Mị cắt dây cởi trói và cứu thoát.
Ban đầu chứng kiến cảnh A Phủ bị trói, Mị vẫn hoàn toàn vô cảm “thản nhiên ngồi thổi lửa, hơ tay”. Bởi ở nhà Thống lý, việc người bị trói cho đến chết là chuyện xảy ra hàng ngày. Cộng thêm với việc bản thân Mị trong hoàn cảnh lúc bấy giờ cũng đã vô cảm, Mị quá khổ, nên không thể nào thấu được cho mỗi khổ của người khác. Nhưng vào một đêm Mị tỉnh dậy sưởi lửa, cô nhìn thấy một dòng nước mắt chảy trên má A Phủ đen và xám lại. Đó là khoảnh khắc cô nhớ lại đêm tình mùa xuân của mình, khi cô cũng bị trói đứng, nước mắt lăn xuống mà không thể nào lau đi. Từ thương mình, tới thương người, Mị cảm thấy thương A Phủ, cảm nhận được sự tàn ác của nhà Thống lí Pá Tra. “Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết…”. “Chúng nó thật độc ác…”. “Người kia việc gì mà phải chết thế”. Mị nhớ lại đời mình, lại tưởng tượng cảnh A Phủ tự trốn thoát. Nghĩ thế, “Mị cũng không thấy sợ….”. Lòng thương người đã cho cô dũng cảm để cắt dây cởi trói cho A Phủ. Ban đầu, cô sợ mình phải đứng thế vào chỗ đó và “Mị đứng lặng trong bóng tối”. Nhưng sức sống mãnh liệt đã khiến cô có đủ dũng cảm chạy theo A Phủ, trốn khỏi Hồng Ngài đến Phiềng Sa và giác ngộ cách mạng. Hành động của Mị hoàn toàn là tự phát. Cô cởi trói cho A Phủ cũng chính là giải thoát cho cuộc đời mình. Đó là quy luật tất yếu của nhận thức “tức nước vỡ bờ”.
Hành động cầm dao cắt đứt dây mây đầy dứt khoát, thể hiện cho lòng ham sống của cô gái này đã thực sự bùng cháy thành ngọn lửa. Sau vài giây ngây người ra, Mị đã quyết định chạy theo A Phủ lao vào bóng tối. Kể từ đây, những áp chế về cường quyền, bạo quyền và thần quyền đều ở lại. Mị muốn được giải thoát. Hành động giải thoát cho người nhưng cũng chính là giải thoát cho mình. Diễn biến tâm trạng của nhân vật Mị quả thực rất đúng với nhận định của nhà văn Tô Hoài: “Nhưng điều kỳ diệu là dẫu trong cùng cực đến thế mọi thế lực của tội ác cũng không giết được sức sống con người. Lay lắt đói khổ, nhục nhã, Mị vẫn sống, âm thầm, tiềm tàng, mãnh liệt.”
Mị là một cô gái trẻ đẹp, bị đẩy vào hoàn cảnh bi đát, phải sống triền miên trong đau khổ khiến cô dần tê liệt. Nhưng trong Mị vẫn tiềm tàng về sức sống, nó đã thức dậy và giúp cô có hành động táo bạo giải thoát cho cuộc đời mình. Cô có đời sống nội tâm âm thầm nhưng mạnh mẽ. Trước những thế lực của tội ác: cường quyền, bạo quyền và ngay cả những áp chế về thần quyền, con người ta vẫn sẵn sàng bước qua, hướng tới sự tự do, giải phóng cho chính cuộc đời của mình.
- Kết bài:
Qua việc miêu tả số phận và cuộc đời của nhân vật Mị, cách kể chuyện tự nhiên, sinh động, hấp dẫn; ngôn ngữ hồn nhiên, giàu hình ảnh; nghệ thuật xây dựng nhân vật, phân tích tâm lí tinh tế, miêu tả phong tục tập quán đặc sắc… Nhà văn Tô Hoài đã làm sống lại quãng đời tăm tối, tủi cực của người dân miền núi Tây Bắc dưới ách thống trị dã man của bọn chúa đất, thực dân phong kiến. Từ đó làm sáng tỏ nhận định: “Nhưng điều kỳ diệu là dẫu trong cùng cực đến thế mọi thế lực của tội ác cũng không giết được sức sống con người. Lay lắt đói khổ, nhục nhã, Mị vẫn sống, âm thầm, tiềm tàng, mãnh liệt.” Mị và “Vợ chồng a Phủ” sẽ còn sống mãi trong trái tim độc giả như cách mà miền Tây và vẻ đẹp con người mảnh đất này đã sống mãi trong trái tim và tâm hồn của Tô Hoài.
Xem thêm: