phan-tich-so-phan-bat-hanh-kho-dau-va-suc-manh-phan-khang-cua-nhan-vat-mi-trong-vo-chong-a-phu-12670-2

Phân tích số phận bất hạnh, khổ đau và sức mạnh phản kháng của nhân vật Mị trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ

Số phận bất hạnh, khổ đau và sức mạnh phản kháng mạnh mẽ của nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài.

  • Mở bài:

Tô Hoài là một trong những cây đại thụ của nền văn học Việt Nam thế kỉ 20. Ông viết văn, viết khảo luận và nghiên cứu văn hóa. “Tô Hoài như một từ điển sống, một pho sách sống. Ông như cuốn Bách khoa Toàn thư mà không Viện sĩ nào, không Học giả nào có thể sánh được” (Trần Đăng Khoa). Trong số những tác phẩm xuất sắc nhất của ông, ngoài Dế mèn phiêu lưu kí phải kể đến truyện ngắn Vợ chồng A Phủ (trích tập Truyện Tây Bắc – 1952). Truyện kể về cuộc đời và số phận đầy bất hạnh, đau khổ và sức mạnh phản kháng của nhân vật Mị, một người con gái vốn sinh đẹp và tràn đầy ước mơ. Cuộc đời của Mị cũng chính là cuộc đời của người phụ nữ dân tộc miền núi: đau khổ và bế tắc. Đồng thời nhà văn còn mở ra cho họ một con đường với cách mạng, tự giải phóng bản thân minh.

  • Thân bài:

Mở đầu tác phẩm, nhà văn giới thiệu nhân vật Mị hết sức ấn tượng. Đó là một cô gái  “ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa”. Dù làm bất cứ việc gì, Mị “cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Hình ảnh ấy hoàn toàn đối lập khung cảnh đông đúc, tấp nập của gia đình Thống lí Pá Tra.

Đặt Mị bên cạnh tảng đá, cạnh chuồng ngựa gợi cho người đọc về thực trạng của nhân vật. Cô câm lặng và vô cảm chẳng khác gì tảng đá vô tri kia. Thân phận cô cũng chẳng khác gì con vật nuôi trong nhà. Nghệ thuật tạo tình huống đối nghịch “có vấn đề”, khiến người đọc phải tham gia vào hành trình tìm hiểu những bí ẩn của số phận nhân vật.

Số phận bất hạnh và khổ đau của nhân vật Mị được tác giả chú trọng khắc họa đậm nét. Bố mẹ Mị lấy nhau không có tiền cưới phải mượn của Thống lí Pá Tra. Cho đến khi mẹ Mị chết, bố Mị về già cũng chưa trả được nợ. Món nợ truyền kiếp đến lượt Mị phải gánh lấy. Mị bị nhà Thống lí Pá Tra bắt về làm dâu gạt nợ. Bề ngoài là con dâu nhưng thực chất bên trong là con nợ, là một nô lệ lao động đích thực.

Không chấp nhận số phận ấy, Mị đã đề nghị cha để cô đi làm nương để trả nợ. Co van xin cha “đừng bán con cho nhà giàu” nhưng điều đó đã không thành. Thế là Mị  bị bắt về làm dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra. Trong cảnh sống như địa ngục ấy, lúc nào mặt Mị cũng buồn rười rượi. Mị cứ “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Mị không còn ý thức về quyền làm người của mình nữa. Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Sự phản kháng yếu ớt ban đầu đã nhanh chống bị dập tất. Giờ Mị phải chấp nhận số phận của mình: sống kiếp nô lệ đến khi chết đi.

Giờ đây, Mị tưởng mình như là trâu, như là ngựa chư không còn là con người nữa. Mị chỉ “cúi mặt không nghĩ ngợi” . Tâm hồn Mị đã chai sạn, càn khô. Lí trí của Mị “chỉ nhớ đi, nhớ lại những việc giống nhau”. Mị phó mặc cho hoàn cảnh và sống cam chịu. Sống một cuộc sống vô nghĩa. Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện…cả ngày”.

Thực sự, Mị trở thành nô lệ bị đày đoạ, bị hành hạ, bị tước hết mọi quyền sống đến mức bị tê liệt về tinh thần chỉ biết thở dài và buông xuôi mặc cho số phận. Mị bị giam cầm thân xác bởi cường quyền. Nhà văn đã miêu tả căn buồng nơi Mị ở (nơi lui ra, lui vào ) chẳng thật đáng sợ: “một căn buồng kín mít chỉ có một cái cửa sổ, một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”. Nơi ấy chẳng khác gì thứ ngục thất giam cầm tù nhân

Mị còn bị giam cầm cả tinh thần bởi thần quyền. Linh hồn Mị đã bị đem “trình ma” nhà thống lí rồi. Chấp nhận điều đó buộc Mị phải an phận cho số kiếp. Số phận của Mị éo le, đau khổ và đầy tủi nhục. Cô bị tước mất quyền sống, sống cũng như chết. Cô sống vô nghĩa. Mị chính là điển hình cho thân phận của phụ nữ miền núi trong xã hội thời bấy giờ.

Điều cực nhục và đau khổ nhất của Mị là bị tước đoạt cả quyền sống, quyền làm con người tự do. Con nợ thông thường, dù khốn khổ đến mấy vẫn còn hi vọng một ngày nào đó thoát khỏi thân phận con nợ khi đã thanh toán đầy đủ cho chủ nợ. Oái ăm ở chỗ, Mị là con nợ nhưng cũng là con dâu. Là con dâu, linh hồn Mị đã bị đem “trình ma” nhà thống lí rồi. Nghĩa là Mị phải suốt đời ở đấy. Mị không thể chạy đâu cho thoát. Mị sẽ phải kéo lê cái thân phận khốn khổ của mình cho đến tàn đời. Cái nguy cơ biến thành con nợ chung thân, Mị đã linh cảm từ trước. Thế nhưng, cô không thể thoát khói số phận.

Sức mạnh phản kháng trỗi dậy trong tâm hồn héo hon tưởng chừng như đã chết của nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân và khi chứng kiến cảnh A phủ bị trói ngoài sân, trong đêm mùa đông rét buốt.

Sức mạnh phản kháng của nhân vật Mị đã nhiều lần trỗi dậy nhưng nhanh chóng bị dập tắt phũ phàng. Có lẽ, một lần nữa, nó sống lại trong lòng Mị là trong đêm tình mùa xuân năm ấy.

Mùa xuân, Hồng Ngài rộn vang tiếng cười, tiếng nói. Dù không để ý nhưng Mị vẫn nhìn thấy sắc màu của mùa xuân đã tràn về khắp núi rừng và trong bản làng. Mị nghe thấy lấp ló sau núi, tiếng sáo ai đó gọi bạn đi chơi  Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bổi hổi. Rồi Mị ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang thổi trong vô thức:

Mày có con trai con gái rồi
Mày đi làm nương
Ta không có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu.

Tiếng chó sủa xa xa. Những đêm tình mùa xuân đã tới. Tiếng sáo đã vọng vào, lay tỉnh  tâm hồn Mị. Sự hồi sinh của Mị được tác giả miêu tả tinh tế. Tuy nhiên nhà văn đã sử dụng rất nhiều yếu tố bên ngoài tác động vào nhân vật. Trước hết, khung cảnh rộn ràng, tất của nhà thống lí có tác động mạnh mẽ vào tâm trí Mị. Thâu đêm suốt sáng, tiếng chiêng đánh ầm ĩ, tiếng người ốp đồng vẫn còn nhảy lên xuống, run bần bật. Vừa hết bữa cơm lại tiếp ngay bữa rượu bên bếp lửa. là người phải phục vụ cho những cuộc vui điên cuồng ấy, Mị cũng biết ngày xuân đã về. Một nguồn sống âm ỉ thức dậy trong lòng Mị mà chính cô cũng không hề biết.

Lần đầu tiên sau bao nhiêu năm câm lặng, Mị muốn uống rượu. Bởi ngày tết là phải uống rượu. Uống rượu mới vui. Nghĩa là Mị muốn vui, muốn hòa nhập cùng mọi người xung quanh và hòa nhập với cả đất trời. Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát. Nhìn cái cách cô uống rượu cay đắng và khổ tâm vô cùng. Mị không uống rượu. Mị đang uống nỗi hận của mình. Rượu dường như không qua cổ mà đi thẳng vào bụng. Thế nên, Mị không hề cảm nhận thấy vị đắng nồng của nó.

Rồi Mị say. Đây cùng là lần đầu tiên Mị say sau bào nhiêu năm tháng bị đọa đày. Tâm hồn Mị sống lại những ngày trước. Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi. Mùa xuân này, Mị uống rượu bên bếp và thổi sáo. Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị. Ngày ấy, Mị được sống với chính mình: tự do và say mê. Ngày ấy, Mị yêu cuộc sống, trong lòng đầy khát vọng và mơ ước tươi xanh. Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước. Rồi Mị nhận ra Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị vẫn còn trẻ nghĩa là Mị cần phải sống bằng cuộc đời của người trẻ tuổi. Cảm xúc cứ ào ạt trở về trong lòng Mị như một trận cuồng phong tàn phá những gì khô cằn đã chết và bắt đầu tưới tắm làm hồi sinh những mầm sống bắt đầu cựa quậy. Thế rồi, Mị chợt nghĩ Mị muốn đi chơi. Đó là một ý nghĩ táo bạo và liều lĩnh. Bởi ai cho Mị đi chơi. Mị không có quyền đi chơi. Mị là con ngựa, con trâu nhà này, Mị đâu có quyền được đi chơi. Mị là vợ của A Sử rồi, Mị không được đi chơi.

Mị bắt đầu ý thức về nghịch cảnh của mình. Mị so sánh Mị với người khác: “Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày Tết”. Còn Mị không bao giờ được đi chơi. Mị không biết ai có quyền cấm Mị, chỉ biết rằng từ ngày về làm dâu nhà Thống lí là Mị không được đi đâu hết. Rồi ý thức về nỗi khổ: “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không buồn nhớ lại nữa”. Mị cảm thấy điều đó là vô lí nhưng cô không thể nào chống lại được. Bộ mặt bất nhân, tàn bạo của giai cấp thống trị miền núi được được bày rõ ràng trong ý thức đòi quyền sống của nhân vật Mị.

Khát vọng được đi chơi và nhận thức về quyền làm người cũng là sự phản kháng đầu tiên trong ý thức của Mị. Tất cả những yếu tố trên cho thấy một sự hồi sinh trong tâm hồn Mị và cũng là tiền đề cho sự trỗi dậy của Mị sau này. Đó là sự trỗi dậy của lòng ham sống và khát vọng hạnh phúc. Khung cảnh mùa xuân rộn rã, tiếng sáo gọi bạn tình réo rắt, tiếng người ốp đồng, tiếng chiêng, tiếng trống, những bữa rượu cúng ma đón năm mới đó là nét phong tục tập quán của người dân tộc miền núi tây Bắc. Nó biểu hiện một lối sống phóng khoáng, tự do và hồn nhiên của dân tộc Mông- Tây Bắc. Đó đồng thời cũng là những yếu tố tác động âm thầm, đánh thức nỗi căm ghét bất công và tàn bạo cùng ý thức phản kháng lại cường quyền; đánh thức cả niềm khao khát một cuộc sống tự do, hoang dã và hồn nhiên; làm sống dậy cái sức sống ẩn tàng trong tâm hồn Mị.

Nhận thức làm sống dậy tình yêu cuộc sống, thúc đẩy Mị hành động. Đầu tiên, Mị lấy ống mỡ xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa dầu. Mị muốn thắp lên ánh sáng cho căn phòng chật chội và cũng là thắp lên ánh sánh cho cuộc đời tăm tối của mình. Mị quấn lại tóc. Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách mặc vào để chuẩn bị đi chơi. Mị quan tâm đến hình thức của bản thân. Mị muốn làm đẹp, muốn sống đúng nghĩa với những giá trị của bản thân mà bấy lâu chính Mị đã vùi dập, từ bỏ nó.

Thế nhưng, thực tế thật phũ phàng. Ngay trong lúc tâm hồn Mị thức tỉnh thì ác thần của cuộc đời Mị – A Sử – xuất hiện và thẳng tay vùi dập. Hắn tàn nhân và lạnh lùng hỏi: Mày muốn đi chơi à? Rồi không cần Mị phải trả lời, hắn trói Mị vào cột bằng cả một thúng sợi đay. Tóc Mị xoã xuống, A Sử quấn luôn tóc lên cột, làm cho Mị không cúi, không nghiêng được đầu nữa. Trói xong vợ, hắn thắt nốt cái thắt lưng xanh ra ngoài áo rồi tắt đèn, đi ra, khép cửa buồng lại.

Bóng tối lại tràn ngập căn phong nhưng ánh sáng trong tâm hồn Mị vẫn tỏa sáng. Mị quên hẳn mình đang bị trói đi theo những kí ức tươi đẹp thời thanh xuân: “đi theo những cuộc chơi, những đám chơi”. Tiếng sáo vẫn dìu tâm hồn Mị. Hơi rượu cứ nồng nàn. Mị lúc mê, lúc tỉnh. Cơn say ấy cứ kéo dài cho tới khi gần sáng. Những cơn đau đưa Mị trở về với thực tại đắng cay và nghiệt ngã. Mị nghĩa đến cuộc đời người đàn bà như Mị. Đời người đàn bà lấy chồng nhà giàu ở Hồng Ngài thì một đời con người chỉ biết đi theo đuôi con ngựa của chồng. Mị nhớ đến câu chuyện kể về người đàn bà bị trói đến chết trong nhà Thống lí. Rồi Mị thấy sợ. Mị cựa quậy xem mình có còn sống hay chết. Mị sợ chết nghĩa là Mị còn muốn sống nữa. Cô chưa biết là cô sẽ sống vì cái gì nhưng bản năng sống thôi thúc Mị không ngừng đấu tranh vì sự sinh tồn.

Tác giả đã đặt sự hồi sinh của Mị vào tình huống bi kịch: khát vọng mãnh liệt nhưng hiện thực phủ phàng khiến cho sức sống của Mị càng thêm phần dữ dội. Sức sống của con người cho dù bị giẫm đạp, bị trói chặt vẫn không thể chết mà vẫn âm ỉ, tiềm tàng, chỉ gặp dịp là bùng lên. hành động vũ phu của A Sử không  cản được ngọn lửa ham sống  và khát vọng của Mị. Chính khát vọng được sống một cuộc sống đúng nghĩa của nó  khiến Mị không muốn chấp nhận cuộc sống bị chà đạp, lầm than, tủi cực, bị đối xử bất công như một con vật nữa.

Chế độ phong kiến nghiệt ngã và tư tưởng thần quyền có thể giết chết mọi ước mơ, khát vọng và làm tê liệt cả ý thức lẫn cảm xúc con người nhưng từ trong sâu thẳm. Nhưng cái bản chất người vẫn luôn tiềm ẩn và chắc chắn nếu có cơ hội sẽ thức dậy, bùng lên. Và cơ hội ấy cũng đã đến khi Mị chứng kiến cảnh A Phủ, một nô lệ trong nhà thống lý, chỉ vì làm mất con bò mà phải chịu trói đứng trước sân chịu phạt. Chưa bao giờ, sức mạnh phản kháng của nhân vật Mị trỗi dậy mạnh mẽ hơn lần ấy.

A phủ xuất hiện trong nhà thống lý đã lâu nhưng đến bây giờ Mị mới biết. Sáng hôm ấy, cảnh sân nhà thống lí ồn ào, nhốn nháo lạ thường. Đó là cảnh bắt trói A Phủ vì tội đánh bị thương A Sử trong. A Phủ bị bắt làm con ở trừ nợ cho nhà thống lí. Một lần, vì mải mê đi săn, A Phủ đã làm mất một con bò và bị nhà thống lí trói ở trước sân, ngay chỗ gần buồng Mị cho đến khi A Sử và trai làng bắt được con hổ mới tha.

Việc bắt người, đánh người, gạt nợ trong nhà thống lí với Mị đã quá quen thuộc. Mị cũng không nghĩ ngợi nhiều. Mấy đêm nay, Mị vẫn thản nhiên thổi lửa hơ tay. Trước nghịch cảnh khổ đau của người khác, Mị hoàn toàn vô cảm. Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy, với Mị cũng thế thôi. Cái chết cứ lặp đi lặp lại trong nhà này, Mị cũng quen rồi, không còn sợ nữa.

Thế nhưng, tâm hồn Mị chưa hẳn đã hoàn toàn khô kiệt. Trong đó vẫn còn có tình thương, sự đồng cảm và nỗi đau về thân phận con người. Đêm ấy, Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại. Hình ảnh quen thuộc khiến Mị nhớ về đêm Mị bị A Sử trói đứng như thế. Mị nghĩa về người đàn bà bị trói chết trong nhà và biết bao con người khác đã chết như thế. Khi nhận thức đã đủ mạnh mẽ, Mị kết tội: “Chúng nó thật độc ác”.

Đó là lần đầu tiên Mị nhận biết “chúng nó thật độc ác”. Bởi từ trước đến giờ, Mị vẫn mặc nhiên cho rằng mình khổ là vì mình phải trả nợ. Cuộc đời Mị có lí do để chịu khổ. Mị không biết chúng nó thật đọc ác mà chỉ biết việc chúng làm là tuân thủ luật lệ. Bởi thế mà Mị đã nghĩ: “ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi…” Rồi Mị nhân ra điều vô lí: “người kia việc gì mà phải chết thế”

Cuộc đấu tranh nội tâm diễn ra âm thầm nhưng vô cùng mạnh mẽ. Mị đã nhận ra điều bất công của thần quyền và cường quyền bấy lâu đã chà đạp, đè nén và tước đoạt quyền sống, quyền làm người, đẩy cuộc đời của biết bao con người vào khổ đau bất tận, sống không bằng chất. Mị thức tỉnh thực sự. Không chỉ thức tỉnh ở bản thân mà còn thức tỉnh về quyền của con người được sống như chính họ đã được tạo ra. Mị nhận thức rõ sự trói buộc và cưỡng bức của nhà thống lí là vô lí, là bất nhân, là tàn bạo. Mị cần phải làm gì đó. Phải rồi, Mị cần phải làm gì đó để cứu con người khốn khổ kia thoát khỏi cái chết không đáng có.

Ý nghĩ ấy cứ phản phất trong đầu óc Mị. Nó không ngừng kêu gọi và gào thét. Nhưng, ở Mị, Mị chưa biết phải làm gì. Nỗi sợ hãi cố hữu trong lòng Mị vẫn còn quá lớn, đủ sức lấn át tình thương và sự đồng cảm. Mị bắt đầu tính toán: nếu A Phủ trốn thoát, bố con Pá Tra sẽ bảo là Mị đã cởi trói cho nó, Mị liền phải trói thay vào đấy, Mị phải chết trên cái cọc ấy.

Tưởng rằng Mị sẽ thôi, sẽ bỏ cuộc vì chẳng ai muốn chết như thế. Ai cũng cần phải sống dù là sống trong khổ đau.. Nhưng ngược lại, trong tình cảnh này, làm sao Mị cũng không thấy sợ… Mị dũng cảm cầm dao tiến lại cắt từng đoạn dây giải thoát cho A Phủ khỏi những ràng buộc khắc nghiệt ấy. Đến lúc gỡ được hết dây trói ở người A Phủ thì Mị cũng hốt hoảng. Mị sợ vì Mị nghĩ đến cái chết sắp xảy ra với mình sau khi A Phủ chạy đi.

A Phủ chạy đi. Mị đứng lặng trong bóng tối. Nhìn A Phủ chạy đi về với tự do, bất chợt Mị cũng vụt chạy ra. Trời tối lắm. Nhưng Mị vẫn băng đi. Mị đuổi kịp A Phủ, đã lăn, chạy, chạy xuống tới lưng dốc. Trong giây phút khó khăn nhất của cuộc đời, Mị đã vượt qua được nỗi sợ hãi, tự mình tìm về với tự do.

Nhà văn đã rất thành công khi tái hiện tâm trạng của Mị trong lúc cắt dây trói giải thoát cho A Phủ. Trong đầu Mỵ diễn ra bao tâm lý phức tạp: lo lắng, hoảng sợ. Mị sợ mình bị trói thay cái cọc ấy: “phải chết trên cái cọc ấy”. Ngay khi đã chạy theo A Phủ, cái ý nghĩ ấy vẫn còn đeo đuổi Mị “Ở đây thì chết mất”. Nỗi lo lắng của Mị cũng là một khía cạnh của lòng ham sống. Nó đã tiếp thêm cho Mị sức mạnh vùng thoát khỏi số phận

Hành động Mị cắt dây trói giải thoát cho A Phủ là một hành động bất ngờ, quyết liệt, táo bạo và cũng là hành động tất yếu phải làm để cứu người và cứu mình thoát khỏi số phận. Đó là kết quả của một quá trình ngầm phản kháng, của khát vọng tự do ở Mị và cũng là của những người dân lao động vùng cao Tây Bắc

Với nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật một cách sống động và chân thực tác giả đã làm nổi bật được hình tượng nhân vật Mị – một nạn nhân của giai cấp thống trị. Ở họ, bề ngoài lặng lẽ, âm thầm, nhẫn nhục nhưng bên trong tiềm tàng sôi nổi một niềm ham sống, khao khát sống tự do và hạnh phúc đồng thời cũng tiềm ẩn một sức mạnh phản kháng táo bạo, mãnh liệt, dữ dội để đứng lên chống lại cường quyền áp bức, chống lại mọi sự chà đạp, lăng nhục, vật hoá con người để cứu lấy cuộc đời mình.

  • Kết bài:

Vợ chồng A Phủ đặt ra vấn đề số phận con người, những con người dưới đáy của xã hội, những con người bị tước đoạt hết tài sản, bị bóc lột sức lao động và bị xúc phạm nặng nề về nhân phẩm. Số phận bất hạnh, khổ đau và sức mạnh phản kháng của nhân vật Mị cũng là hình ảnh tiêu biểu của người phụ nữ dân tộc miền núi vốn chịu nhiều bất hạnh, khổ đau nhưng tiềm ẩn sức mạnh phản kháng quyết liệt và khát khao hạnh phúc. Giải quyết vấn đề số phận con người, Tô Hoài đã thức tỉnh họ, đưa họ đến với cách mạng và cho họ một cuộc sống mới. Đó cũng chính là giá trị nhân đạo cao cả mà nhà văn đã dồn nén trong tác phẩm này.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang