»» Nội dung bài viết:
Phân tích truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân (dưới góc độ thi pháp).
Tiếp cận truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân từ góc độ thi pháp học, cần thiết phải thật sự chú ý đến phương diện quan niệm nghệ thuật về con người, vì đó là một trong những kênh dẫn quan trọng để khám phá vẻ đẹp của tư tưởng và nghệ thuật của thiên truyện đặc sắc này.
Trong Vợ nhặt, Kim Lân quan niệm những giá trị tinh thần cao đẹp, mà ở đây là vẻ đẹp tình người, lòng vị tha, nhân ái, bao dung sẽ làm sáng lên hình ảnh con người, vinh danh giá trị con người và cứu rỗi khổ đau và bất hạnh cho con người. Để hiện thực hóa quan niệm đó, các nhân vật trong truyện được đặt trên cái nền của không gian bi thương, cô liêu, đói khát, chết chóc trong thời gian bi đát của kiếp mưu sinh ở hoàn cảnh khó khăn tột cùng của xã hội. Nhân vật còn được đẩy đến điểm mút tận cùng của bi kịch, để từ đó làm bật lên những vẻ đẹp nhân văn còn tiềm ẩn trong lòng người dân Việt ngay cả khi ở trong những hoàn cảnh khốn cùng nhất.
Nhân vật người vợ nhặt được đặt ở lằn ranh mỏng manh giữa sự sống và cái chết, nên khi được nhân vật Tràng mời ăn với cách nói lấp lửng nửa đùa nửa thật, đã quên mất lòng tự trọng mà ăn mấy bát bánh đúc liền một hơi. Thế nhưng, khi theo Tràng về làm vợ, nhiều giá trị của con người được khôi phục: Thị trở nên e ấp, bẽn lẽn, xấu hổ và không kém phần tế nhị trong ứng xử với gia đình chồng.
Nhân vật anh cu Tràng được nhìn trong sự phối hợp giữa thô kệch và trác việt của hình thức bên ngoài, dung mạo, hoàn cảnh sống với tấm lòng, tình cảm vô tư, vị tha. Tình cảm của Tràng, nhân tính và ứng xử của người vợ nhặt, lòng bao dung và trắc ẩn của bà cụ Tứ trong mối liên hệ với nhau làm nên bài ca về tình người và lẽ sống.
Quan niệm đó thể hiện rõ trong kết cấu nghệ thuật, từ xây dựng đặc điểm hình tượng nhân vật cho đến việc phối kết các tình tiết quan trọng. Dụng ý nghệ thuật đó được thể hiện ngay trong cả tiêu đề tác phẩm, như là một phân hệ và là điểm khởi đầu mở ra một dấu hỏi mà tác phẩm sẽ trả lời.
Nhan đề tác phẩm là “Vợ nhặt” có kết cấu từ khá độc đáo. Mối quan hệ giữa hai hình vị vợ và nhặt là quan hệ chính – phụ. Trong đó, hình vị nhặt (vốn từ nguyên là động từ) đã chuyển loại thành tính từ, nêu bật lên được tính tư tưởng và thẩm mỹ của hình tượng với tính nhân văn đã được hàm chứa trong đó. Mặt khác, kiểu kết cấu tiêu đề là “Vợ nhặt” chứ không phải là nhặt vợ chú tâm đến vấn đề thân phận con người chứ không phải hành vi, và là tình huống bất thường trong quan niệm và ứng xử văn hóa truyền thống đẹp đẽ của người Việt vốn đề cao vai trò và vị thế nhất vợ nhì giời của người vợ trong văn hóa trọng tình, trọng đức, trọng văn và trọng nữ.
Trong kết cấu hình tượng, nhà văn chú ý hài kết hai mặt thô kệch và trác việt, phàm tục và tinh tế, tình huống và bản chất. Điều đó được thể hiện trong cả ba nhân vật là cu Tràng, người vợ nhặt, và với mức độ nhất định ở bà cụ Tứ. Với người vợ nhặt, nhân vật này không được gắn cho một cái tên nào cả. Lỗi tại nhà văn hay dụng ý nghệ thuật? Vì sao và hiệu quả? Thực ra thì đây là dụng ý nghệ thuật của nhà văn và mặt khác, chịu sự qui chiếu của tình huống hiện thực. Trong hoàn cảnh ấy, việc đặt cho người vợ nhặt ấy một cái tên là thừa và không phù hợp, một khi cái chết đã phà hơi lên dáng hình rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, gầy sọp hẳn đi và nét chết đã xuất hiện bảng lảng trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt của thị. Đặc điểm này mang lại hiệu quả thẩm mỹ đặc biệt: Tình cảnh thương tâm và bi đát này không phải chỉ là riêng đối với người đàn bà khốn khổ và tội nghiệp ấy.
Trong nghệ thuật kết cấu tính cách hình tượng người vợ “nhặt”, sự tham gia của các nét trái ngược vừa thể hiện các điểm nhìn đa dạng của nhà văn, vừa lột chân được bản chất của con người hiển lộ trong những tình huống và cảnh ngộ của hiện thực. Vấn đề này thể hiện qua hai điểm nhìn ở hai thời gian và không gian khác nhau: trước và sau khi người đàn bà ấy thành vợ anh Tràng.
Ở điểm nhìn thứ nhất, trước khi trở thành vợ anh Tràng, người vợ nhặt được nhìn trong một chuỗi hành vi qua hai lần gặp Tràng. Lần thứ nhất, cô ả ấy xuất hiện trong đám mấy chị ngồi vêu ra trước cửa nhà kho. Và thị cũng không phải là người chủ động làm quen với Tràng khi nghe câu hò Muốn ăn cơm trắng mấy giò này!/ Lại đây mà đẩy xe bò với anh, nì! của anh ta, mà là bị mấy cô gái đồng cảnh ngồi cùng đẩy vai cô ả này ra với hắn. Và cô ả này cũng nhanh chóng cong cớn đối đáp với Tràng; giọng đùa cợt: Này, nhà tôi ơi, nói thật hay nói khoác đấy? Rồi lon ton chạy lại đẩy xe cho Tràng, lại còn tình tứ liếc mắt, cười tít. Nhưng lần gặp thứ hai thì đã khác, bấy giờ thị chủ động chứ không phải bị bạn bè đẩy ra gặp
Tràng như lần đầu và với thái độ gay gắt, dữ dằn chạy sầm sập đến, giọng điệu sưng sỉa lên án Tràng rằng Điêu! Người thế mà điêu! Lô gic như thế là phù hợp trong diễn tiến tâm lý và tính cách nhân vật, bởi lúc này, thị đang đứng bên bờ vực cái chết với hình vóc tàn tạ đến mức khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt. Do vậy, khi được Tràng mời ngồi xuống ăn miếng trầu thì thị cong cớn bộc trực trả lời Có ăn gì thì ăn, chả ăn giầu, và khi được mời muốn ăn gì thì ăn, thị như người chết đuối vớ được cọc, hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên, rồi thị cắm đầu ăn một chập bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì.
Tiếp theo, hành vi của thị theo Tràng về làm vợ chỉ sau câu nói có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về như đùa của Tràng đã chuyển tình huống ứng xử của thị sang một bình diện khác: Thị là một người vợ, vợ của người chồng mà trước đó thị chỉ mới gặp và đối đáp có hai lần, hai lần nhưng không tình tứ, lãng mạn, tán tỉnh, thậm chí ngay cả tên chồng thị cũng chưa biết.
Ở điểm nhìn thứ hai, bắt đầu khi người đàn bà không tên ấy thành người vợ nhặt của Tràng cho đến kết truyện, chân dung và tính cách thị có những điểm khác biệt với trước. Đó là, nếu trong giai đoạn trước, thị thô lỗ, sỗ sàng, phàm tục, trơ trẽn, thì bây giờ thị ý tứ, ngượng ngùng, e thẹn trong ý thức mới và ứng xử mới trong vai trò một người vợ, người con dâu. Thị biết chào mẹ chồng lễ phép U đã về ạ, và khi tưởng mẹ chồng mình chưa nghe thì chào lại. Đặc biệt, khi được mẹ chồng cảm thông và thương xót, cho phép ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân, thì thị vẫn khép nép đứng nguyên chỗ cũ. Sau đó thì khẽ khàng và khiêm cung, ý tứ ngồi xuống mép giường.
Sau đêm tân hôn đặc biệt ấy, từ sáng sớm, thị bắt tay vào thực thi những việc thuộc thiên chức của một người con, người vợ trong gia đình một cách chu toàn. Bây giờ, thị đã khác biệt với trước, Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không còn vẻ gì chao chát chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh.
Với nhân vật Tràng, tác giả thiên truyện cũng thể hiện hai điểm nhìn cơ bản trong chuỗi hành vi, ngôn từ và ứng xử của nhân vật này: trước và sau khi có vợ. Trước khi có vợ, Tràng là người đàn ông có dáng dấp thô mộc, ngôn từ bông lơn và có khi dung tục. Nhưng từ khi có vợ, Tràng chuyển hẳn thành người đứng đắn, tử tế trong quan niệm sống, trong ngôn từ và ứng xử, đến mức, bây giờ hắn mới thấy hắn nên người.
Với bà cụ Tứ, tính cách không có sự thay đổi đột biến như người vợ nhặt, cũng không có sự biến chuyển như nhân vật Tràng, mà có sự diễn biến về tâm lý trong hoàn cảnh bất ngờ mình có cô con dâu. Từ chỗ phấp phỏng bước theo con vào trong nhà trước tình huống thái độ khác lạ của Tràng so với mọi lần, rồi ngạc nhiên khi thấy có người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình, và bà cụ sớm hiểu ra sự thật sau lời giải thích ngắn gọn của Tràng. Tâm lý bà cụ Tứ chuyển biến nhanh chóng sang trạng thái thương cảm, ngậm ngùi, khóc cho cảnh
ngộ và tình thương: Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt.
Cái nhìn của tác giả về nhân vật này không chú tâm vào sự chuyển biến tâm trạng, mà xoáy sâu vào các biểu hiện của tình yêu thương con người, lòng nhân ái, bao dung cùng nỗi âu lo và thương cảm cho vợ chồng Tràng trong gia cảnh của nhà mình trước hiện thực khốn khó, bi thương.
Nhìn chung, điểm đặc biệt trong thi pháp xây dựng kết cấu hình tượng nhân vật trong truyện “Vợ nhặt” là từ chỗ tạo ra tình huống truyện độc đáo, vừa đặc thù nhưng cũng rất điển hình cho số phận người dân nghèo Việt Nam trong hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ, nhà văn dẫn dắt lộ trình số phận ba nhân vật chính theo những lối riêng, nhưng tiến đến gặp nhau tại một điểm chung. Tại điểm chung đó, trong sự giao hòa của ba số phận, ánh sáng của vẻ đẹp nhân ái, bao dung, cao thượng và vị tha đã bừng sáng lên, vinh danh cho phẩm giá con người Việt Nam.
Tham khảo:
Dàn bài phân tích truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân.
- Mở bài:
– Kim Lân là là một trong số ít những nhà văn viết ít nhưng thành công lớn. Ông am hiểu sâu sắc cảnh ngộ và tâm lí của những người nông dân nghèo. Bởi thế, ông đã viết về cuộc sống và con người nông thôn bằng tình cảm, tâm hồn của một người vốn là con đẻ của đồng ruộng. Nhân vật của ông là những người nông dân chất phác, hiền hậu và khao khát cuộc sống bình yên.
– Truyện Vợ nhặt có tiền thân là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” – tác phẩm được viết ngay sau Cách mạng tháng Tám nhưng còn dở dang và bị mất bản thảo. Hoà bình lập lại (1954), dựa trên một phần cốt truyện cũ, Kim Lân đã viết truyện Vợ nhặt. Tác phẩm được in trong tập “Con chó xấu xí” (1962).
- Thân bài:
– Vợ nhặt ra đời vào năm 1954 phản ánh tình trạng thê thảm của làng quê Việt Nam trong nạn đói năm 1945. Câu chuyện kể về việc anh Tràng-một chàng trai xấu xí nhưng tốt bụng nhặt được vợ giữa những ngày đói. Tràng là một người lao động ngèo ở xóm ngụ cư. Giữa lúc nạn đói tràn tới, người chết như ngã rạ Tràng lại nhặt được vợ chỉ nhờ 4 bát bánh đúc. Tràng đưa người vợ nhặt về giới thiệu với mẹ. Bà cụ Tứ – mẹ Tràng sau phút ngỡ ngàng, tủi thân, tủi phận đã nén chặt những nỗi lo mà động viên đôi vợ chồng trẻ. Sau đêm tân hôn, người đàn bà chao chát, đanh đá-vợ Tràng-trở thành người vợ hiền lành đảm đang cùng với mẹ chồng quét dọn nhà cửa với hi vọng cuộc sống tốt đẹp hơn. Tràng thấy mình trưởng thành và gắn bó với gia đình hơn. Bữa cơm ngày đói thật thê thảm nhưng họ ăn thật ngon và gieo vào lòng nhau nhiều hi vọng. Đặc biệt là hình ảnh những người đi phá kho thóc Nhật trên đê Sộp luôn hiện lên trong đầu Tràng. Một dự cảm cho ngày mai tươi sáng hơn.
1. Ý nghĩa nhan đề “Vợ nhặt”:
– Vợ: biểu tượng cho mái ấm hạnh phúc gia đình, có ý nghĩa lớn lao, mang vai trò thiêng liêng, trách nhiệm cao cả. Nhặt: hành động quá đỗi rẻ rúng đến tầm thường như việc nhặt một món đồ người ta đã vứt bỏ, một thứ gì đó rơi rớt, vô giá trị.
– Nhan đề gợi tình huống éo le, kích thích trí tò mò người đọc. Thông thường, người ta có thể nhặt thứ này, thứ khác, chứ không ai “nhặt vợ”. Bởi dựng vợ gả chồng là việc lớn, thiêng liêng, có ăn hỏi, có cưới xin theo phong tục truyền thống của người Việt, không thể qua quýt, coi như trò đùa.
– “Vợ nhặt” là điều trái khoáy, oái ăm, bất thường, vô lí. Song thực ra nó lại rất có lí. Vì đúng là anh Tràng đã nhặt được vợ thật. Chỉ một vài câu bông đùa của Tràng mà có người đã theo về làm vợ. Điều này đã thực sự khiến một việc nghiêm túc, thiêng liêng trở thành trò đùa và ngược lại, điều tưởng như đùa ấy lại chính là sự thực. Từ đây, bản thân nhan đề tự nó đã gợi ra cảnh ngộ éo le, sự rẻ rúng của giá trị con người. Chuyện Tràng nhặt được vợ đã nói lên tình cảnh thê thảm và thân phận tủi nhục của người nông dân nghèo trong nạn đói khủng khiếp năm 1945.
2. Tình huống truyện độc đáo, giàu tính nhân văn.
– Tình huống truyện: Anh Tràng vừa nghèo, vừa xấu lại là dân ngụ cư thế mà lấy được vợ ngay giữa lúc đói khát, ranh giới giữa sự sống và cái chết hết sức mong manh.
– Tình huống lạ, độc đáo: Người như Tràng mà lấy được vợ, thậm chí có vợ theo. Thời buổi đói khát này, người như Tràng nuôi thân chẳng xong mà dám lấy vợ. Chẳng phải thế mà việc Tràng có vợ đã tạo ra sự lạ lùng, ngạc nhiên với tất cả mọi người trong xóm ngụ cư, với bà cụ Tứ, thậm chí đã có những thời điểm chính Tràng cũng chẳng thể nào tin được vào điều đó.
– Tình huống truyện không chỉ tạo ra một hoàn cảnh “có vấn đề” cho câu chuyện mà còn nén trong đó ý đồ nghệ thuật của nhà văn đồng thời gợi mở các khía cạnh giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm.
3. Hình ảnh các nhân vật.
a. Nhân vật Tràng:
– Tràng là người dân lao động nghèo, “nhặt” được vợ trong thời buổi đói khát:
+ Bản thân anh là dân ngụ cư, dân ăn nhờ, ở đậu.
+ Tràng sống với mẹ già trong một căn nhà rúm ró trên bãi đất hoang mọc lổn nhổn những búi cỏ dại.
+ Hoàn cảnh xuất thân: Khó lấy được vợ.
– Tuy nhiên, giữa cái khung cảnh tối sầm lại vì đói khát, Tràng bỗng nhiên “nhặt” được vợ. Cuộc gặp gỡ giữa Tràng và người đàn bà không tên diễn ra thật chóng vánh chỉ qua hai lần gặp mà chỉ gặp ở đường và chợ để rồi “nên vợ, nên chồng”:
+ Lần gặp thứ nhất: Trên đường kéo xe thóc lên tỉnh, Tràng hò chơi cho đỡ mệt nhưng không ngờ, thị ra đẩy xe cho anh và còn liếc mắt cười tít nữa. Tràng thích lắm vì từ khi cha sinh mẹ đẻ đến giờ mới có một người con gái cười với hắn tình tứ đến như thế.
+ Lần gặp thứ 2, ở quán nước ngoài chợ: Ban đầu, Tràng không nhận ra vì thị khác quá, trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn hai con mắt. Khi nhận ra rồi, trong lời đáp “ăn gì thì ăn, chả ăn giầu” Tràng sẵn sàng đãi thị bốn bát bánh đúc. Sau khi ăn xong Tràng nói đùa tiếp ai ngờ thị vui vẻ chấp nhận theo Tràng về nhà làm vợ.
– Niềm hạnh phúc khi có vợ:
+ Tràng khi đưa vợ về qua xóm ngụ cư: Tâm trạng của anh hôm nay phớn phở, cười tủm tỉm, hai con mắt thì sáng lên lấp lánh, trước ánh mắt nhìn đầy tò mò và ngạc nhiên của người dân trong xóm, trước những lời xì xào bàn tán của người dân trong xóm, Tràng rất hãnh diện, rất đắc ý, mặt cứ vênh lên như thể chứng tỏ với mọi người là Tràng đã có vợ.
+ Tràng khi đưa vợ về đến nhà: Hành động xăm xăm nhấc tấm phên rách ra và câu nói “Không có người đàn bà nhà cửa ra thế đấy” ta hiểu rằng có vợ rồi người đàn ông ăn nói cục cằn kia bỗng văn hóa hẳn lên.
→ Có thể nói, Kim Lân đã rất chú ý miêu tả diễn biến tâm trạng của Tràng từ khi có vợ. Có rất nhiều lần Kim Lân nhắc đến nụ cười của Tràng để nhấn mạnh đến niềm khát khao hạnh phúc, khát khao mái ấm gia đình để thách thức với cái đói đang tung lưới bủa vây.
– Tràng có nhiều thay đổi trong buổi sáng ngày hôm sau:
+ Tràng thấy mình như bước ra từ một giấc mơ, trong người “êm ái lửng lơ”.
+ Trước mặt anh mọi thứ đều thay đổi: Nhà cửa sân vườn hôm nay đều được quét tước sạch sẽ; mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt ở góc nhà đã thấy đem ra sân hong; hai cái ang nước vẫn để khô cong dưới gốc cây ổi giờ đã kín nước đầy ăm ắp. Rõ ràng những cảnh tượng rất đỗi bình thường ấy cũng đã làm cho anh cảm động, hạnh phúc với anh thật giản dị.
+ Từ buổi sáng đó, anh mới thấy mình nên người. Anh nghĩ đến tương lai, đến sự sinh sôi nảy nở của hạnh phúc để rồi vui sướng, phấn chấn tràn ngập trong lòng.
+ Và người vợ nhặt của Tràng hôm nay cũng khác lắm. Đó là một người đàn bà hiền hậu, đúng mực, không có vẻ gì chao chát, chỏng lỏn nữa.
+ Tràng thấy “thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một nguồn vui sướng, phấn chấn tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này”. Nguồn vui ấy như tia nắng, như ánh bình minh đem sinh khí đến cho cuộc sống vốn đang ngập tràn sự chết chóc của cái đói tung lưới bủa vây.
+ Và trong bữa cơm đầu tiên, bữa cơm của 3 con người đang khốn khổ vì cái đói, tràn ngập sự đầm ấm, hoà hợp.
– Hình ảnh khép lại tác phẩm trong óc Tràng là hình ảnh lá cờ đỏ và đoàn người đói đi trên đê Sộp: Gợi cho người đọc nghĩ về Việt Minh, về Cách mạng tháng Tám vĩ đại, về sự vùng dậy của những người dân khốn khổ, đập tan xiềng xích, giành lại cơm áo, giành lại sự sống cho bản thân, giành lại độc lập tự do cho dân tộc. Vì thế, kết thúc của tác phẩm đã gieo vào lòng người đọc một niềm tin mãnh liệt, gieo một hạt giống hi vọng mãnh liệt vào tâm hồn Tràng, gia đình anh và tất cả bạn đọc chúng ta.
→ Cuộc sống của Tràng hoàn toàn thay đổi tích cực hơn kể từ khi gặp Thị. Tác giả ngợi ca hình ảnh đẹp qua cách hành xử và tâm hồn của những con người trong nghịch cảnh nghèo đói.
b. Nhân vật Thị – người vợ “nhặt”:
– Cũng giống như Tràng, khung cảnh Kim Lân để cho nhân vật này xuất hiện là một không gian tối sầm vì đói khát. Cũng giống như bao người khác, thị ngồi vêu cùng với mấy chị em gái nơi cửa nhà kho. Chị không có tên, không tuổi tác, không cha mẹ, không gia đình…một con số không tròn trĩnh đang bao trùm lên lá số tử vi của chị. Cái đói đã cướp đi của thị tất cả.
– Khi chưa theo Tràng về làm vợ cái đói đã để lại “dấu tích” ghê gớm trên dáng hình và tính cách của chị:
+ Lần gặp thứ nhất: Có vẻ táo tợn, ăn nói mạnh mẽ “Có khối cơm trắng mấy giò mà ăn đấy! “Này nhà tôi ơi! Nói thật hay nói khoác đấy”
+ Lần gặp thứ 2: Chân dung của thị khiến Tràng không nhận ra, gầy (dẫn chứng)…Thị cong cớn trong lời nói, vô duyên trong hành động “sà xuống đánh…cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc… Ăn xong cầm đôi đũa quệt ngang miệng, thở: Hà ngon! Về chị thấy hụt tiền thì bỏ bố”. Tuy nhiên, ẩn đằng những lời nói và hành động ấy là khát vọng về hạnh phúc và sự sống.
– Kim Lân không có ý chê bai người vợ nhặt kia, dù thực tế cũng có những người phụ nữ không đẹp. Điều mà nhà văn muốn nhấn mạnh ở đây là: Sức hủy hoại khủng khiếp của cái đói đối với hình hài và tính cách của con người. Vì đói mà thị cố tạo ra cái vẻ cong cớn, chao chát, chỏng lỏn như là để thách thức với số phận. Vì đói mà thị quên đi cả sĩ diện của mình, quên đi cả lòng tự trọng theo không một người đàn ông về làm vợ trong khi chẳng biết tí gì về anh ta. Vì đói mà thị đánh liều nhắm mắt đưa chân, đánh liều với hạnh phúc cả đời mình. Thị thật đáng thương. Nhưng đằng sau sự liều lĩnh ấy của thị, người đọc hiểu rằng, thị là người có ý thức bám lấy sự sống mãnh liệt.
– Miêu tả nhân vật thị, Kim Lân không chú trọng nhiều đến diễn biến tâm trạng bên trong mà Kim Lân chú ý nhiều đến hành động:
+ Thị bước sau Tràng chừng 3-4 bước, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che đi nửa mặt, mặt cúi xuống, chân nọ bước díu cả vào chân kia. Thị đã ý thức được về bản thân, cái dáng cúi mặt kia phải chăng đó là sự tủi phận.
+ Về đến nhà, trông ngôi nhà xiêu vẹo của Tràng, thị nén tiếng thở dài, tiếng thở dài chấp nhận bước vào cuộc đời của Tràng.
+ Hành động khép nép, tay vân vê tà áo khi đứng trước mặt bà cụ Tứ, Thị thật đáng thương.
– Tuy nhiên, ở sâu thẳm bên trong con người này vẫn có một niềm khát khao mái ấm gia đình thực sự. Thị đã trở thành một con người hoàn toàn khác khi là một người vợ trong gia đình. Hạnh phúc đã làm cho thị thay đổi từ một người phụ nữ cong cớn, đánh đá bỗng trở thành một người đàn bà hiền hậu đúng mực, mái ấm gia đình đã đủ sức mạnh làm thay đổi một con người.
– Sau khi lên thiên chức làm vợ chính thức, thị đã có sự thay đổi rất lớn về tính cách: khép nép lại, hiền hậu hơn, biết ngoan ngoãn, chăm lo cho gia đình, quan tâm tới mọi người xung quanh, có niềm tin vào tương lai sáng lạng.
⇒ Sự nghèo đói có thể làm con người ta đánh rơi nhân phẩm trong một vài khoảnh khắc nào đó nhưng sẽ không thể mãi mãi đánh mất đi tâm hồn thiện lương bên trong con người.
– Hình tượng chị vợ nhặt thể hiện rất rõ tư tưởng nhân đạo của Kim Lân:
+ Một mặt nhà văn đã lên án tội ác dã man của phát xít Nhật và thực dân Pháp. Nạn đói do chính gây ra đã cướp đi mọi giá trị của con người, và biến người con gái như một thứ đồ rẻ rúng có thể nhặt được
+ Mặt khác vợ Tràng đã nói lên một sự thật ở đời đó là trong đói khổ, hoạn nạn, kề bên cái chết nhưng con người vẫn khát khao được sống, vẫn sống ngay khi cả cuộc đời không thể chịu được nữa. Những con người nghèo khổ vẫn thương yêu đùm bọc, và cùng nhau vun đắp hạnh phúc để vượt qua những thử thách khắc nghiệt.
c. Nhân vật Bà cụ Tứ:
– Thông điệp nghệ thuật về bản chất nhân đạo trong tâm hồn người Việt ở hình tượng nhân vật bà cụ Tứ đã được Kim Lân thể hiện thành công qua diễn biến tâm trạng của người mẹ nghèo ấy khi nhìn thấy chị vợ nhặt xuất hiện trong nhà mình cho đến buổi sáng ngày hôm sau.
– Ngạc nhiên và bất ngờ là tâm trạng đầu tiên ở người mẹ nghèo khi lật đật theo con từ ngõ vào nhà. Chân bước theo con nhưng lòng bà đang phấp phỏng. Ngạc nhiên đã làm cho bà lão không còn tin vào cảm giác của bà nữa, tự dưng bà lão thấy mắt mình nhoèm đi thì phải.
– Bà lão cúi đầu nín lặng, đằng sau cái cúi đầu nín lặng ấy là dòng cảm xúc tuôn trào, là cơn bão lòng đang cuộn xoáy với tình thương con vô bờ bến. Bà lão đã khóc, những giọt nước mắt hiếm hoi của người già dưới ngòi bút nhạy cảm của Kim Lân đã gieo vào lòng người đọc biết bao thương xót, tủi buồn.
– Bà đã chấp nhận nàng dâu không phải chỉ bằng tình mẫu tử mà lớn hơn đó là tình người, là sự cảm thông với chị vợ nhặt từ cái nhìn của người cùng giới, cùng là phụ nữ.
– Nhưng sau những lời động viên ấy ta lại thấy Kim Lân để nhân vật bà cụ Tứ quay về với chính cuộc đời mình để mà lo lắng cho hạnh phúc thực tại của hai con. Điều mà bà lo không phải là “sự hợp nhau hay không hợp nhau” giữa hai người mà điều mà người mẹ ấy lo lắng đó là, cái đói đang đe dọa hạnh phúc của con bà. Trong bóng tối, bà nghĩ về cuộc đời dài dằng dặc của đời mình, cuộc đời của những người thân để mà thấu hiểu, thương xót rồi “nghẹn lời” chỉ có dòng nước mắt chảy xuống ròng ròng.
– Hạnh phúc mới của con làm bà cụ Tứ được vui lây.Bà động viên an ủi các con, nghĩ về một tương lai tươi sang phía trước:
+ Khuôn mặt của bà nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, bà xăm xắn quét dọn, giẫy những búi cỏ dại nham nhở trong vườn, thu dọn nhà cửa cho quang quẻ với hy vọng đời sẽ có cơ khấm khá.
+ Trong bữa ăn đầu tiên, mâm cơm ngày đói sao thảm hại: chỉ có một lùm rau chuối thái rối, một đãi muối, một niêu cháo lõng bõng toàn nước và món chính là chè khoán- (cháo cám) nhưng không khí gia đình thật ấm áp, tình chồng vợ, tình mẹ con. Những nguồn động lực lớn lao ấy giúp họ tăng thêm sức mạnh để vượt qua thực tại.
+ Bà cụ Tứ toàn nói chuyện của tương lai, toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về sau. Bà lão bàn với con tính chuyện nuôi gà, ngoảnh đi ngoảnh lại sẽ có đàn gà cho mà xem.
– Song niềm vui của bà cụ Tứ cũng thật tội nghiệp. Miếng cháo cám đắng chát và tiếng trống thúc thuế dồn dập vội vã đưa bà cụ Tứ trở về với thực tại với tiếng nói xen lẫn cả hơi thở dài trong lo lắng: “Đằng thì nó bắt giồng đay, đằng thì nó bắt đóng thuế. Giời đất này không chắc đã sống được qua được đâu các con ạ”! Và bà lại khóc, tình thương con lại hiện hình qua những giọt nước mắt lặng lẽ tuôn rơi.
– Bà luôn đã nhen nhóm những niềm tin tích cực cho các con vào một tương lai tươi sáng, tốt đẹp hơn. Bà cụ Tứ là hiện thân của người mẹ hiền từ, nhân hậu, chất phác, tình mẫu tử thiêng liêng, cao đẹp, đáng quý.
⇒ Với sự thấu hiểu, với sự đồng cảm, Kim Lân đã dựng lên hình ảnh bà cụ Tứ, người mẹ thương con, nhân hậu, bao dung. Trong hoàn cảnh đói nghèo, bà vẫn dang rộng cánh tay đón nhận người con dâu mặc dù trong lòng còn nhiều xót xa, tủi cực, vẫn gieo vào lòng các con ngọn lửa sống trong hoàn cảnh tối tăm của xã hội lúc bấy giờ.
4. Giá trị hiện thực, nhân đạo:
a. Giá trị hiện thực:
– Truyện đã dựng lại một cách chân thực những ngày tháng bi thảm trong lịch sử dân tộc, đó là khoảng thời gian diễn ra nạn đói năm 1945:
+ Cái chết đeo bám, bủa vây khắp mọi nơi, dòng thác người đói vật vờ như những bóng ma.
+ Cái đói đã tràn đến xóm ngụ cư từ lúc nào, âm thanh của tiếng quạ gào lên từng hồi thê thiết.
+ Xóm ngụ cư, với những khuôn mặt hốc hác, u tối.
+ Cái đói hiện lên trong từng nếp nhà rúm ró, xẹo xệch, rách nát, cái đói hiện hình trên khuôn mặt của chị vợ nhặt.
+ Bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại.
– Truyện phơi bày bản chất tàn bạo của thực dân Pháp và phát xít Nhận đã gây ra nạn đói năm 1945.
– Tuy nhiên, còn có một hiện thực được phán ánh trong tác phẩm: hiện thực mang tính xu thế, đó là tấm lòng của người dân khi đến với cách mạng.
b. Giá trị nhân đạo:
+ Thái độ đồng cảm xót thương với số phận của người lao động nghèo khổ.
+ Lên án tội ác dã man của thực dân Pháp và phát xít Nhật đã gây ra nạn đói khủng khiếp.
+ Trân trọng tấm lòng nhân hậu, niềm khao khát hạnh phúc bình dị những người lao động nghèo.
+ Dự báo cho những người nghèo khổ con đường đấu tranh để đổi đời, vươn tới tương lai tươi sáng.
5. Nghệ thuật biểu hiện.
– Cách xây dựng tình huống truyện độc đáo, đầy éo le nhưng nhờ thế mà các nhân vật của Kim Lân xuất hiện mà bộc lộ hết những phẩm chất tốt đẹp của mình. Tình huống nhặt vợ của Tràng là một tình huống tâm lí – nó có ý nghĩa như một phép thử để đo phẩm chất người trong con người. Lựa chọn tình huống này, Kim Lân phải rất bạo tay đồng thời phải có đủ sự tinh tế cũng như khả năng thấu hiểu nhân thể để có thể xử lí, triển khai theo đúng ý đồ, dự định ban đầu. Bút lực và sự linh hoạt, sáng tạo của Kim Lân đã giúp ông tạo ra trong truyện ngắn Vợ nhặt một tình huống bất ngờ đầy kịch tính: Vừa lạ lùng, vừa éo le, vừa cảm động. Tình huống ấy được triển khai một cách khéo léo và sâu sắc đã biểu đạt được những nội dung phong phú của tác phẩm.Tình huống được xây dựng trong truyện ngắn Vợ nhặt không chỉ là nghệ thuật mà còn là sức phát hiện và tấm lòng đồng cảm sâu sắc của Kim Lân với số phận và cảnh ngộ của con người.
– Nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn, không kịch tính nhưng sự sắp xếp các chi tiết gây được sự hứng thú, tò mò cho người đọc. Nhằm tránh sự đơn điệu, tẻ nhạt và cũng là để tạo chiều sâu tâm lí cho tình huống truyện, Kim Lân đã rất khéo léo khi tổ chức điểm nhìn trần thuật: người trần thuật khi thì đứng ngoài để quan sát, kể và tả một cách khách quan, có lúc hoá thân vào nhân vật để hồi tưởng, trải nghiệm. Truyện trở nên đậm đặc chất trữ tình và giàu khả năng gợi cảm nhất khi nhà văn nhập giọng kể vào giọng nói bên trong của nhân vật biến việc kể chuyện thành việc tự biểu hiện bằng ý nghĩ của nhân vật (đoạn văn miêu tả tâm trạng bà cụ Tứ) nên đã lột tả được một cách sâu sắc, tinh tế các trạng thái tâm lý, những phản ứng tâm lý của nhân vật trước sự kiện.
– Bút pháp miêu tả tâm lí, thế giới nội tâm nhân vật tinh tế. Ngòi bút miêu tả tâm lí của Kim Lân đã lách sâu vào thế giới nội tâm nhân vật để khám phá và miêu tả các trạng thái tâm lí đối lập nhau ở mỗi con người. nhà văn đã dồn bút lực vào việc miêu tả tâm lí nhân vật với những biểu hiện vô cùng phong phú để đi đến khẳng định: cái đói, cái chết với những ám ảnh khủng khiếp mà nó gây ra không thắng nổi khát khao hạnh phúc ở những con người biết sống có tình người.
– Ngôn ngữ gần gũi, giản dị, mộc mạc mang đậm dấu ấn của vùng nông thôn Bắc Bộ – một trong những đặc trưng trong phong cách sáng tác của Kim Lân. Ngôn ngữ người kể chuyện: Khi thì tự nhiên, hóm hỉnh, hài hước (đoạn miêu tả cảnh làm quen, cảnh đính ước và nên vợ nên chồng của Tràng và người đàn bà), khi thì trang nghiêm, chân thực (đoạn miêu tả tâm trạng bà cụ Tứ) và nhìn chung là giản dị mà vẫn rất gợi cảm, có những đoạn văn chan chứa chất thơ (đoạn miêu tả cảm giác của Tràng, đoạn miêu tả tâm trạng bà cụ Tứ). Ngôn ngữ nhân vật: Đáng lưu ý nhất là ngôn ngữ đối thoại: ngắn gọn, giản dị, có lúc hơi thô mộc và phù hợp với tính cách nhân vật, phù hợp với mục đích lời nói của nhân vật, đó là thứ ngôn ngữ làm quen, làm thân, thăm dò, vừa xa lạ, vừa gần gũi.
- Kết bài:
– Qua truyện Vợ nhặt, Kim Lân muốn khẳng định: Trong những hoàn cảnh khó khăn nhất, ngay cả khi cái chết liền kề, những người dân lao động nghèo khổ, lương thiện vẫn yêu thương, đùm bọc lấy nhau, vẫn khát khao mái ấm hạnh phúc gia đình và hy vọng vào một cuộc sống mới tốt đẹp hơn.
* Tham khảo:
Phân tích chi tiết truyện ngắn “Vợ nhặt” (Kim Lân)
Khác với Tô Hoài, Kim Lân sáng tác không nhiều. Có thể nói, ông thuộc vào số ít các nhà văn có thể minh chứng cho chân lý “quý hồ tinh bất quý hồ đa” trong nghệ thuật. Dù vẫn được coi là nhà văn chuyên nghiệp nhưng Kim Lân làm văn chương theo lối tài tử nhiều hơn theo lối nhà nghề. Ông đứng hàng đầu trong số các cây bút văn xuôi viết ít mà càng ngày càng được khâm phục rất nhiều. Đề tài quen thuộc của nhà văn là cuộc sống nông thôn và người nông dân. Cả truyện ngắn Làng và “Vợ nhặt” đều là những thế giới của “đất”, của “người”, của những gì “thuần hậu” được “dệt” nên bằng tình cảm thiết tha, sự gắn bó sâu nặng của nhà văn với thế giới nhân vật và không gian quen thuộc vẫn đi về trong các sáng tác của ông.
Tiền thân của truyện ngắn “Vợ nhặt” là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư”. Cuốn tiểu thuyết này được viết ngay sau Cách mạng tháng Tám nhưng còn dở dang và bị mất bản thảo. Hoà bình lập lại (1954), dựa trên một phần cốt truyện cũ, nhà văn đã viết truyện Vợ nhặt. Tác phẩm được in trong tập “Con chó xấu xí” (1962).
Bối cảnh mà nhà văn lựa chọn để dựng truyện là nạn đói khủng khiếp năm 1945. Tuy nhiên, mục đích của Kim Lân khi sáng tác“Vợ nhặt” không phải là tái hiện cái hiện thực đó mà trong nhiều cuộc trò chuyện, trao đổi về tác phẩm, ông đều tâm sự rằng mình viết về cái đói để khẳng định sự thật này : những người đói khổ “dù kề bên cái chết vẫn khát khao hạnh phúc, hướng về ánh sáng, tin vào sự sống và vẫn hi vọng ở tương lai”. Nhà văn đã tận mắt chứng kiến cảnh tượng “người chết đói nằm rải rác khắp nơi” và cũng tận mắt thấy “Cái đói hành hạ tất cả mọi người nhưng không át được sức sống đơn sơ của tâm hồn họ… Đói. Nó vừa cay đắng, vừa đớn đau, đồng thời một mặt nào đó nó lại loé lên những tia sáng về đạo đức, danh dự”. Như vậy, ý đồ nghệ thuật của nhà văn Kim Lân đã rất rõ: ông mượn cảnh đói rét thê thảm để làm ngời lên, nổi bật lên vẻ đẹp của lòng nhân ái và khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc mãnh liệt trong tâm hồn người dân lao động.
Ý nghĩa nhan đề “Vợ nhặt”.
“Vợ nhặt” là một nhan đề độc đáo, chứa đựng tình huống éo le của truyện : trong những ngày đói chết năm 1945, Tràng – một chàng trai ngụ cư, nghèo, xấu, có nguy cơ không lấy được vợ, bỗng nhiên “nhặt” được “vợ”. Cái éo le, trớ trêu được gói trọn trong hai tiếng “vợ nhặt” vì “nhặt” – nói như chính nhà văn – “là nhặt nhạnh, nhặt vu vơ”. Thông thường, người ta chỉ dùng từ nhặt đối với một thứ đồ vật nào đó chứ không ai lại nói nhặt vợ hay “vợ nhặt” bởi nói đến vợ là nói đến một việc trọng đại trong đời người, một việc nghiêm túc, đàng hoàng, có ăn hỏi, cưới xin theo phong tục truyền thống của người Việt. Ấy thế mà trong truyện, “vợ nhặt” lại là chuyện có thật.
Một buổi chiều, giữa cảnh tối sầm lại vì đói khát, anh cu Tràng dắt theo một người đàn bà về qua xóm ngụ cư. Trên đường về nhà, trong khi người đàn bà ngượng nghịu, Tràng tỏ ra thích chí và tự đắc. Dẫn thị vào cái nhà vắng teo, Tràng thấy sờ sợ. Hắn bước ra sân ngóng mẹ và nhớ lại sự việc chỉ tầm phơ tầm phào có hai bận ấy thế mà thành vợ chồng. Lần trước, khi kéo xe bò thóc lên dốc tỉnh, hắn hò chơi một câu cho đỡ mệt, thế mà cô nàng đã ton ton chạy ra đẩy xe cho hắn. Lần thứ hai, hắn gặp thị ở cổng chợ, hắn mời thị ăn giầu, nhưng thị ngồi xuống ăn một chặp bốn bát bánh đúc, rồi sau đó vin vào câu nói của Tràng thị đã theo về làm vợ.
Bà cụ Tứ khi trở về nhà, không tin vào mắt mình vì thấy có một người đàn bà ngồi đầu giường thằng con, lại gọi mình là u. Khi hiểu ra cơ sự, bà lão “cúi đầu nín lặng”. Bà nghĩ đến ông lão, đến đứa con gái đã mất, đến cuộc đời đau khổ dằng dặc của bà mà lo lắng cho tương lai của đôi trẻ.
Sáng hôm sau, Tràng trở dậy, thấy nhà cửa, sân vườn đều được dọn dẹp. Họ cùng ăn sáng với “chè khoán”. Bà cụ Tứ nói đến tương lai. Tiếng trống thúc thuế vẫn dồn dập. Người vợ nhặt ngạc nhiên khi biết ở đây vẫn phải đóng thuế. Câu nói của chị gợi lại trong Tràng hình ảnh đoàn người đói đi trên đê Sộp và lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới.
“Vợ nhặt” là một nhan đề tạo ra những ấn tượng sâu sắc, kích thích sự tò mò, chú ý của người đọc, hé mở tình huống đặc sắc của tác phẩm. “Nhặt” là một động từ chỉ những hành động ngẫu nhiên, thờ ơ, không chủ tâm để lấy một vật gì đó thường là từ dưới đất lên, một vật hoặc quá nhỏ bé nên không ai để ý, hoặc không còn giá trị nên đã bị vứt bỏ. “Vợ” là một phần quan trọng trong cuộc đời người đàn ông, lấy vợ là một trong những việc lớn của đời người, một việc thường được thực hiện theo phong tục truyền thống của người Việt với các bước mai mối dạm hỏi, cưới xin…trang trọng. Với từ nhặt làm định ngữ, nhan đề “Vợ nhặt” đã khiến người đọc phần nào suy đoán được phẩm chất giá trị của người vợ khi được nhặt về như cỏ rác; cũng đồng thời hình dung được tình cảnh của người chồng khi một việc lớn lao, trọng đại của đời người lại được thực hiện bởi một hành động ngẫu nhiên, thờ ơ, không chủ tâm. Như vậy, nhan đề truyện ngắn “Vợ nhặt” với sự hàm chứa những mâu thuẫn, éo le đã góp phần thể hiện những giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc cho tác phẩm, giúp nhà văn phản ánh tình cảnh thê thảm và thân phận tủi nhục của những người nông dân nghèo trong nạn đói 1945.
Nhan đề “Vợ nhặt” không chỉ gói trọn tình huống éo le của truyện mà còn phần nào hé mở giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm. Đó là tình cảnh thê thảm và tủi nhục của những người dân nghèo khổ trong nạn đói. Như chính Kim Lân đã có lần tâm sự : “Trong cảnh đói năm 1945 người dân lao động dường như khó ai thoát khỏi cái chết. Bóng tối của nó phủ xuống mọi xóm làng. Trong hoàn cảnh ấy giá trị của một con người thật vô cùng rẻ rúng, người ta có thể có vợ chỉ nhờ mấy bát bánh đúc ngoài chợ – đúng là nhặt được vợ như tôi nói trong truyện”. Phải đặt vào truyền thống của dân tộc coi “Người ta là hoa đất”, coi việc dựng vợ gả chồng là đại sự: “Trăm năm tính cuộc vuông tròn – Phải dò cho đến ngọn nguồn lạch sông”, mới thấy hết chuyện “vợ nhặt” theo không như thế này là bi đát ! Tuy nhiên, từ trong chiều sâu ý nghĩa của nhan đề tác phẩm ta cũng thấy những tia sáng le lói của khát vọng hạnh phúc, của tình cảm yêu thương bao bọc lẫn nhau và niềm tin ở ngày mai đang vút lên trong cái tăm tối, chết chóc, tủi nhục của những ngày đói khổ năm 1945.
Nhan đề “Vợ nhặt” là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của Kim Lân, cả trên bình diện chức năng – chức năng nghệ thuật của nhan đề trong tổng thể tác phẩm lẫn bình diện ngôn ngữ – một kết hợp từ mới, lạ, chứa đựng những ý nghĩa bất ngờ, thú vị, sâu sắc.
Ý nghĩa tình huống truyện độc đáo.
Tình huống được tạo dựng trên cơ sở những mâu thuẫn, trở nên được đẩy tới tận cùng giới hạn. Sự trớ trêu đầu tiên xuất hiện ở nhân vật Tràng- chủ thể của hành đồng nhặt vợ. Tràng là người mà ngay trong hoàn cảnh bình thường cũng rất ít khả năng có thể lấy được vợ – hắn là dân ngụ cư với địa vị lép vế trong làng xã, lại nghèo khổ, xấu xí, thô kệch và hơi dở tính. Vậy mà Tràng lại lấy được vợ, thậm chí chóng vánh, dễ dàng đến mức chính hắn cũng không tin nổi. Sự trớ trêu thứ hai đặt ra ở hoàn cánh nhặt vợ của Tràng. Hôn nhân là biểu tượng của cuộc sống gia đình, của sự sinh con đẻ cái, của sự sống. Vậy mà việc nhặt vợ của Tràng lại diễn ra vào thời điểm khủng khiếp nhất của nạn đói Ất Dậu, khi làng ngụ cư của Tràng bao trùm trong không khí chết chóc lạnh lẽo. Tình huống éo le đã được tạo ra bởi sự đối đầu khốc liệt giữa sự sống và cái chết, giữa hạnh phúc và đau khổ, giữa hi vọng và tuyệt vọng, giữa ấm áp của tình người và cái lạnh lẽo thê lương của chết chóc… Tình huống trớ trêu ấy đã gây ngạc nhiên cho tất cả mọi người: dân xóm ngụ cư thì thầm phỏng đoán; bà cụ Tứ không tin nổi mắt mình và ngay cả Tràng cũng ngờ ngợ, bàng hoàng như đang trong một giấc mơ.
Việc một anh con trai nghèo khổ, xấu xí lại nhặt được vợ một cách chóng vánh, dễ dàng ngay trong những năm tháng đói khát khủng khiếp nhất của quê hương và đất nước, đó là một chuyện lạ, là một tình huống đặc sắc giúp nhà văn gửi gắm những vấn đề lớn lao của cuộc sống con người, đem đến cho tác phẩm những giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc.
Tình huống kì lạ, độc đáo của tác phẩm đã giúp nhà văn phản ánh chân thực bức tranh hiện thực của làng quê Vợ nhặt khi việc nhặt vợ của Tràng diễn ra chính trong nạn đói 1945, qua đó mà bộc lộ những nét sâu đậm nhất của tư tưởng nhân đạo. Tràng đưa vợ về nhà và bắt đầu cuộc sống gia đình trong khung cảnh làng ngụ cư ngập tràn âm khí với những đám người dắt díu nhau, xanh xám, dật dờ như những bóng mà bên những người chết còng queo chưa kịp chôn cất, với âm thanh của tiếng hờ khóc người chết, tiếng quạ gào lên từng hồi thê thiết với mùi ẩm thối của rác rưởi, mùi gây của xác chết và nhất là với bóng tối lạnh lẽo, thê lương trùm phủ xóm làng..
Không dừng lại việc phản ánh bề mặt hiện thực với những hình ảnh hay âm thanh, Kim Lân còn phản ánh bề sâu của hiện thực khi sự đói khát khiến giá trị của con người trở nên rẻ rúng, những điều đẹp đẽ thiêng liêng của cuộc sống trở nên bi hài, chua chát đến tội nghiệp.
Sự đói khát đã khiến cho hình hài, bộ dạng con người tiều tụy, thê thảm. Trẻ con xóm ngụ cư ủ rũ như những ông già; người lớn mặt u tối, hốc hác; người vợ nhặt mặc bộ quần áo rách tả tơi như tổ đỉa, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ con hai con mắt. Sự đói khát đã hủy hoại cả nhân cách con người. Điều này thể hiện chua xót nhất trong nhân vật người vợ nhặt. Một người đàn bà phải vứt bỏ những ý tứ, những phép tác xã giao, những sĩ diện, xấu hổ, bẩu xíu vào một câu hò đùa để kiếm miếng ăn thật; phải gạt phăng những miếng trầu xã giao lễ nghĩa để chọn bốn bát bánh đúc mong lấp đầy cái dạ dày trống rỗng; phải vứt bỏ cả lễ giáo và sự thận trọng, bám vào một câu đùa tầm phơ tầm phào để theo không một người đàn ông xa lạ, mong tìm chốn nương thân, hi vọng chạy trốn cái đói. Miếng ăn ngày đói đã trở thành sự khởi đầu và đích đến của một mối quan hệ thiêng liêng, trở thành yếu tố chi phối khốc liệt với nhân cách con người.
Sự đói khát khiến cuộc sống trở nên đau đớn, kì quái, con người không được sống cho ra con người. “Vợ nhặt” là câu chuyện về một cuộc hôn nhân kì lạ : Tràng và người đàn bà xa lạ nên vợ nên chồng bởi một câu hò bâng quơ ( có hình ảnh của miếng ăn! ), một câu đùa tầm phơ tầm phao và bốn bát bánh đúc – cuộc hôn nhân không phải do tình yêu mà chỉ là duyên kiếp của những con người khốn khổ đến với nhau bắt đầu là vì miếng ăn, còn sau là hi vọng có thể chạy trốn cái đói. Giá trị con người trở nên rẻ rúng, thảm hại : vợ vốn là một phần quan trọng, đẹp đẽ trong cuộc đời người đàn ông lại được nhặt về như cỏ rác; việc lấy vợ vốn thiêng liêng, trọng đại lại giống như một trò đùa hài hước, oái oăm. Tất cả những sự việc liên quan đến cuộc hôn nhân này đều bị hạ giá thê thảm: cô dâu cắp chiếc nón rách tàng, mặc bộ quần áo tả tơi như tổ đỉa về nhà chồng; hai hào dầu đã là xa xỉ, hoang phí cho đám cưới; ngày đưa dâu chỉ có hai bóng người lủi thủi, âm thầm, lặng lẽ về làng trên con đường khẳng khiu trong một buổi chiều ảm đạm, trong cái lạnh lẽo đầy âm khí của những làn gió ngắn ngắt thổi về từ ngoài đồng; đêm tân hôn phảng phất mùi đống rấm ở những nhà có người chết và văng vẳng tiếng hờ khóc tỉ tê; bữa cơm đầu tiên mẹ chồng đãi nàng dâu mới cũng thật thê thảm; giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối và một đĩa muối ăn với cháo… niêu cháo lõng bõng, mỗi người được có lưng lưng hai bát đã hết nhẵn, để rồi, sau đó, cháo cám trở thành cỗ cưới trong nỗi tủi hờn ai oán của mọi người.
Không chỉ xót thương cho thân phận con người qua bức tranh hiện thực ngày đói, nhà văn còn thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc trong việc khẳng định, ngợi ca, trân trọng và thể hiện niềm tin vào bản chất tốt đẹp của những con người biết vượt lên trên cái đói, cái thảm đạm để sống, để yêu thương, để vui và hi vọng.
Tình huống truyện đã cho thấy sự đói khát không làm con người mất đi lòng nhân ái. Lòng nhân ái đã thể hiện ngay trong việc nhặt vợ của Tràng. Chia sẻ miếng ăn với một người xa lạ đang đói khát không hẳn chỉ là bốc đồng, chia sẻ cuộc đời với một người đàn bà khốn khổ, xấu xí không hẳn chỉ là liều lĩnh – đằng sau sự bốc đồng, liều lĩnh ấy là tấm lòng hào hiệp của người đàn ông có trái tim nhân ái. Qua cảm nhận của Trang về tình nghĩa giữa hắn với người đàn và đi bên, sự băn khoăn thương xót của Tràng trước vẻ buồn bã của vợ, cách Tràng giới thiệu vợ với mẹ đầy trân trọng, cảm ơn: “ Nhà tôi nó mới về làm bạn với tối u ạ…., Kim Lân cho thấy trong lòng người đàn ông nghèo khổ mà nhân hậu ấy chỉ có tình nghĩa yêu thương mà không hé có sự rẻ rúng, khinh thường người vợ theo, vợ nhặt. Lòng nhân hậu, vị tha đặc việt tập trung ở những nỗi niềm của bà đều chỉ xuất phát từ tình cảm xót thương vô bờ bến với cả con và dâu. Khi chấp nhận người đàn bà xa lạ, đói khát làm dâu con, bà đã bỏ qua không chỉ lễ giáo thông thường mà cả nỗi ám ảnh khủng khiết của sự đói khát, chết chóc đã chấp nhận cưu mang một con người khốn khổ, để vun đắp cho hạnh phúc của con cái. Biết trân trọng, yêu thương, biết chia sẻ, quan tâm lo lắng cho nhau ngay trong cảnh khốn cùng, đó là biểu hiện cao nhất của lòng nhân ái, đó cũng là phẩm chất đẹp đẽ truyền thống của một dân tộc luôn nhắc nhau lá lành đùm lá rách, thương người như thể thương thân. Câu chuyện nhặt vợ của Tràng đã cho thấy tấm lòng nhân ái của con người không thể bị hủy hoại trước sự đói khát, thậm chí sự đe dọa ghê gớm là cái chết.
Tình huống truyện cũng giúp người đọc nhận ra sự đói khát không làm con người mất đi những khát vọng hạnh phúc. Quyết định nhặt vợ liều lĩnh của Tràng sau một thoáng phân vân, do dự; những khuôn mặt hốc hác, u tối… của những người dân xóm ngụ cư bỗng rạng rỡ hẳn lên khi nhìn thấy Tràng dẫn vợ về trong buổi chiều chạng vạng; cảm giác mới mẻ, hạnh phúc, trạng thái êm ái lửng lơ trong lòng Tràng vào sáng hôm sau; nét mặt nhẹ nhõm, tươi tình của bà cụ Tứ… đó là những biểu hiện rõ nhất của niềm khát khao hạnh phúc, niềm mong ước được tìm đến với nhau, được sum vầy trong những mái ấm gia đình, khát vọng ấy vẫn tồn tại trong tâm hồn những con người đang sống trên bờ vực hủy diệt của sự đói khát.
Khát vọng hạnh phúc bản năng, thường trực và bị khuất lấp sau nỗi đói khát đã xuất hiện một cách thật bất ngờ trong diễn biến tâm lí của người vợ nhặt. Lúc đầu, thị đi theo Tràng chỉ vì miếng ăn, vì hi vọng chạy trốn cái đói. Khi tận mắt nhìn thấy gia cảnh nghèo khổ của Tràng, thị đã không nén nổi tiếng thở dài thất vọng, buồn bã và tủi hổ – sự hiện hữu trong ngôi nhà ấy không phải miếng ăn thị đang tìm kiếm mà là cái đói thị đang trốn chạy! Đó là lúc thị hoàn toàn có thể quay lại, có lẽ vì thị đột ngột tìm thấy những điều thị không dám nghĩ đến trong hoàn cảnh khốn khổ, những điều quý giá hơn cả miếng ăn, đó là một gia đình hạnh phúc với tấm lòng nhân hâu của những người không chỉ chia sẻ miếng ăn mà còn sẵn lòng cưu mang, đùm bọc thị khi chính họ cũng đang đói khát. Người đàn bà bất chấp tất cả những xấu hổ, những phép tắc xã giao hay lễ giáo, lăn xả vào miếng ăn, bám riết lấy sự sống nay đã ngạc nhiên, xúc động và hiểu rằng, khi bước qua chiếc cổng tre nhà Tràng, trở thành người vợ hiền dâu thảo, thu vén đảm đang, mang lại hạnh phúc cho những con người nhân hậu. thị cũng sẽ tìm thấy cho mình niềm vui được có một mái ấm gia đình hạnh phúc.
Tình huống truyện đã khẳng định một điều cảm động, đó là sự đói khát không làm con người mất đi những hi vọng vào một tương lại tươi sáng, tốt đẹp hơn. Việc Tràng mua hai hào dầu thắp đèn và nhất là thái độ đồng tình của bà cụ Tứ với việc làm có vẻ xa xỉ, bốc đồng của con trai: “ừ, thắp lên một tý cho sáng sủa…” cho thấy trong lòng những con người đang sống trên bờ vực của chết chóc ấy hình như vẫn ấp ủ một niềm tin mong manh mà mãnh liệt về sự thay đổi cuộc đời, biết đâu từ sau niềm vui tỏa ra bởi ngọn đèn dầu bé nhỏ, không gian sống của họ cũng sẽ bắt đầu sáng sủa hơn? Lần đầu tiên trong một truyện ngắn ngập chìm bóng tối, sáng hôm sau Tràng thức dậy trong ánh sáng kì diệu, chói lóa của buổi sáng mùa hè, đó cũng là ánh sáng của niềm vui, của nguồn sinh khí rạo rực tỏa ra trong cuộc sống gia đình, là niềm hi vọng vào sự sáng sủa hơn trong cuộc đời những con người nghèo khổ.
Những lời bà cụ Tứ động viên các con bằng cái triết lí dân gian Ai giầu ba họ, ai khó ba đời; cách bà lo toan, cắt đặt công việc, cùng con dâu thu dọn cửa nhà cho quang quẻ; niềm tin ngây thơ, cảm tính mà thật vững chắc khi nghĩ rằng chỉ cần thu xếp cửa nhà cho quang quẻ, nề nếp thì cuộc đời họ có thể khác đi, làm ăn có cơ khấm khá hơn!- đó là những chi tiết cho thấy người lao động không bao giờ bi quan, tuyệt vọng, niềm tin vào sự tốt đẹp của cuộc sống, niềm hi vọng vào một tương lai tươi sáng hơn luôn là nguồn sức mạnh để họ có thể vượt qua cái đói, cái thảm đạm để sống và yêu thương. Đặc biệt, hình ảnh lá cờ đỏ bay phấp phới trong tâm trí Tràng ở cuối truyện đã khẳng định chắc chắn hơn niềm tin và sức mạnh ấy, đó là hình ảnh cho thấy những hi vọng của người dân xóm ngụ cư, của mấy mẹ con Tràng không hão huyền, viển vông, là tín hiệu chắc chắn của sự đổi đời đã và sẽ hiện hữu trong hiện thực cuộc sống.
Hình tượng nhân vật Tràng.
Nhân vật Tràng, một trong ba nhân vật chính của truyện ngắn, cũng là chủ thể của hành động nhặt vợ hi hữu và cảm động, Tràng đã được Kim Lân khắc họa tương đối đậm nét trong cả ngoại hình, dáng vẻ, tâm trạng và tính cách.
Tràng xuất hiện ngay từ đầu truyện ngắn với dáng vẻ thô tháp, vụng về của một anh chàng xấu trai và hơi dở tính với khuôn mặt thô kệch, đôi mắt gà gà đắm vào bóng chiều. Sự ám ảnh của cái đói đã hiện rõ trong mỗi buổi chiều về khi Tràng không con vừa đi vừa ngửa mặt lên trời cười hềnh hệch nữa, bây giờ, hắn đi từng bước mệt mỏi, chiếc áo nâu tàng vắt sang một bên cánh tay, cái đầu trọc nhẵn chúi về phía trước.
Tính cách Tràng bộc lộ rõ nhất trong tình huống nhặt vợ. Từ việc chia sẻ miếng ăn với một người đàn bà đang đói khát đến việc nhặt vợ bị động, bất ngờ, Tràng đã thể hiện những nét tính cách đầu tiên của con người liều lĩnh, chất phác, nhân hâu và hào hiệp. Thoạt nhìn, việc mời một người đàn bà xa lạ giữa đường ăn bốn bát bánh đúc ngay khi bản thân mình đang đói khổ có vẻ như bốc đồng và việc đưa thị về nhà làm vợ có vẻ như liều lĩnh; nhưng cũng có thể thấy sâu xa trong sự bốc đồng là một tấm lòng nhân hậu, một tính cách hào hiệp và sâu xa trong sự liều lĩnh không chỉ là tình thương mà còn là những khát vọng âm thầm về một tổ ấm gia đình. Tràng đã hoàn toàn ý thức được hoàn cảnh của mình quá đói nghèo, biết có nuôi được thân mình không và thậm chí khi nghĩ đến sự đèo bòng, Tràng cũng thấy chợn, nhưng rồi sau cái tặc lưỡi là một quyết định bất chấp tất cả để có một cuộc sống lứa đôi, một mái ấm gia đình, một người vợ, dẫu có là vợ nhặt! Cái liều lĩnh của tràng đầy tính nhân bản, và xét cho cùng, nó là cội nguồn cho sự tồn tại và phát triển của nhân loại.
Vẻ đẹp trong tâm hồn, tính cách và cả nỗi bất hạnh trong thân phận Tràng đã được Kim Lân thể hiện sinh động qua diễn biến tâm trạng và hành động của anh ta khi nhặt vợ. Sau quyết định bất ngờ, đột ngột của chính mình, Tràng vẫn ngờ ngợ….sờ sợ….., không tin nổi mình đã lấy được vợ một cách quá dễ dàng, chóng vánh đến thế, lại trong một tình cảnh đói khát éo le đến thế, không thể tin nổi mình – một anh chàng từng nói một cách thản nhiên: Làm đếch gì có vợ, nay bỗng nhiên lại có một người vợ thực sự, thậm chí tới sáng hôm sau tỉnh dậy, Tràng vẫn ngờ ngàng như đang trong một giấc mơ. Cảm giác ngạc nhiên đến mức tội nghiệp ấy là nét tâm lí chân thực của một người đàn ông quá nghèo khổ, bất hạnh đến mức không dám tin vào hạnh phúc bất ngờ của mình
Sau sự ngạc nhiên, lo lắng, Tràng bay bổng trong cảm giác hạnh phúc. Trên đường đưa vợ về nhà, Tràng như trở thành một con người khác hẳn: Mặt hắn có vẻ gì phớn phở khác thường. Hắn tủm tỉm cười một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh – hạnh phúc như một thứ ánh sáng kì diệu từ bên trong tâm hồn Tràng, rạng ngời trên khuôn mặt đang nở ra vì sung sướng, trong ánh mắt lấp lánh không kiềm chế được niềm hân hoan. Trước những tò mò, ngạc nhiên phỏng đoán của dân làng, Tràng càng hãnh diện, sung sướng, hắn lấy vật làm thích ý lắm, cái mặt cứ vênh vênh tự đắc. Kim Lân đã miêu tả thật tinh tế và trìu mến cảm giác hạnh phúc tràn ngập trong lòng người đàn ông nghèo khổ: Tràng hình như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hàng ngày, quên cả cái đói khát ghê gớm đang đe dọa, quên cả những ngày trước mặt. Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông nghèo khổ ấy, nó ôm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng, tựa hồ như có bàn tay vuốt nhẹ trên sống lưng. Buổi sáng đầu tiên khi có vợ. Tràng thức dậy với cảm giác êm ái, lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra, thậm chí anh còn thấy xung quanh mình có cái gì vừa thay đổi mới mẻ, khác lạ. Tràng mơ ước hạnh phúc, liều lĩnh vì hạnh phúc và cuối cùng anh đã tìm thấy hạnh phúc ngay trong tận cùng đói khát, khổ đau.
Hạnh phúc đã làm Tràng biến đổi sâu sắc – anh con trai vô tâm, ngộc nghệch trước đây nay đã nên người, đã trở thành một người đàn ông sống có trách nhiệm, nghĩa tình. Sự biến đổi đầu tiên của Tràng được thể hiện trong thái độ đối với người vợ nhặt. Khi dẫn vợ về nhà, Tràng đã thấy trong lòng hắn bấy giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn với người đàn bà đi bên… Với Tràng, người đàn bà khốn khổ, đói khát, lăn xả vào hắn để kiếm miếng ăn, bám chặt lấy hắn để chạy trốn cái đói tuyệt nhiên không phải vợ theo, vợ nhặt mà là người vợ thực sự theo đúng ý nghĩa thiêng liêng nhất. Vì thế, dù nghèo khổ, Tràng cũng muốn đánh dấu cái ngày đặc biệt trọng đại trong cuộc đời mình, muốn thể hiện sự trân trọng với vợ bằng một lần được coi thường đồng tiền, một lần được xa xỉ với hai hào dầu cho sáng sủa trong ngày đón vợ về.
Từ việc làm có vẻ hơi bốc đồng khi mua cho vợ cái thúng con đựng vài thứ lặt vặt và ra hàng cơm đánh một bữa thật no nê trước khi về nhà, đó là thái độ trân trọng cuộc sống, cũng là sự trân trọng hạnh phúc của chính mình, đó cũng là cách ứng xử chu đáo, nghiêm túc của một con người đã thực sự trưởng thành. Vốn vô tâm, bộc tuệch, vậy mà bây giờ, Tràng cứ băn khoăn, áy náy đến xót xa vì vẻ buồn bã của vợ khi thị ngồi bần thần trong gian nhà lạ rúm ró. Có tới hai lần. Tràng tự hỏi: Sao nó buồn thế nhỉ? Sao hôm nay nó buồn thể nhỉ? Có lẽ sâu xa trong lòng mình, Tràng cũng phần nào hiểu được nguyên nhân nỗi buồn tủi, chua xót của người vợ mới đang thất vọng, bẽ bàng khi nhận thức sâu sắc tình cảnh thê thảm của cả hai người. Nỗi xót xa của Tràng vì thế không chỉ là tình thương và sự quan tâm mà đã hàm chứa cảm giác có lỗi của một người chồng ý thức được trách nhiệm của mình với gia đình, vợ con mà lực bất tòng tâm. Tràng đã bồn chồn lo lắng chờ mẹ về, đã giới thiệu người vợ nhặt với mẹ một cách trân trọng, thậm chí hàm ơn: Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi…, Tràng đã thở phào nhẹ nhõm trước câu nói đầu tiên của mẹ, câu nói chấp nhận người vợ mình nhặt về một cách đường đột, éo le – đó là những trạng thái tâm lí chân thực và cảm động thể hiện thái độ trân trọng cùng tình thương yêu của Tràng với người đàn bà mới sáng nay vẫn còn xa lạ, còn từ bây giờ gắn bó với hắn suốt đời.
Sự biến đổi của Tràng còn thể hiện qua tình cảm, thái độ đối với cuộc sống gia đình. Trong buổi sáng hôm sau thức dậy, Tràng đã thấm thía cảm động trước cảnh tượng đầm ấm của gia đình khi nhìn thấy mẹ và vợ cùng thu dọn nhà cửa, sân vườn. Ngôi nhà sạch sẽ, quang quẻ, những đống rác mùn trong sân đã được hót gọn, dây quần áo vắt khươm mươi niên được phơi hong khô ráo, hai cái ang khô cong bây giờ nước đầy ăm ắp… đó là hình ảnh của sự sống, là cái sinh khí mới mẻ của một mái ấm gia đình mà lần đầu tiên Tràng được cảm nhận. Không khí ấy khiến Tràng thấy mình như trưởng thành, với những ý thức sâu sắc về tình cảm, bổn phận, trách nhiệm: Bỗng nhiên, hắn thấy hắn thương yêu gắn bó….lạ lùng với cái tổ ấm nơi hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái… bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này. Thậm chí, không dừng lại trong cảm giác vui sướng, phấn chấn khi được sống trong sự ấm áp của không khí gia đình, cũng không dừng lại trong những ý nghĩ về bổn phận, trách nhiệm với vợ con sau này, ngay lập tức, Tràng muốn biến cảm xúc và ý thức thành những hành động cụ thể, Tràng muốn biến cảm xúc và ý thức thành những hành động cụ thể, Tràng đã bừng thức, một sức sống mới mẻ tràn ngập trong lòng người đàn ông đang sống bên vực thẳm của cái chết.
Biến đổi lớn lao, mới mẻ nhất của Tràng được Kim Lân miêu tả trong chi tiết: khi nghe vợ kể về những đoàn người đói rách đi theo Việt Minh phá kho thóc Nhật, Tràng có cảm giác tiếc rẻ vẩn vơ – cảm giác của Tràng cho thấy từ nay, khi có một gia đình phải lo, chắc chắn Tràng sẽ không bao giờ bỏ lỡ cơ hội đến với cách mạng, đi theo cách mạng để lo miếng cơm, manh áo cho vợ con. Và ở cuối truyện, ngay khi Tràng đang cố nuốt miếng cháo cám đắng chát vào miệng thì hình ảnh lá cờ đỏ bay phấp phới trong tâm trí Tràng vẫn đem lại niềm tin sâu sắc cho người đọc: những người như Tràng sẽ đến với cách mạng một cách tích cực, nhanh chóng, triệt để nhất bởi chỉ có cách mạng mới có thể giúp họ thay đổi cuộc đời, mới có thể đem lại hạnh phúc và cuộc sống ấm no cho gia đình, vợ con họ.
Hình tượng nhân vật bà cụ Tứ.
Nhân vật bà cụ Tứ – Là nhân vật xuất hiện ở khoảng giữa truyện, bà cụ Tứ vẫn đóng một vai trò đặc biệt quan trọng giúp Kim Lân thể hiện những tư tưởng nhân đạo sâu sắc cho truyện ngắn của mình. Đây là nhân vật được nhà văn miêu tả khá chi tiết, sinh động từ ngoại hình, dáng vẻ đến những cử chỉ, hành động, từ những lời đối thoại đến những dòng độc thoại nội tâm.
Bà cụ Tứ xuất hiện hiện trong tiếng ho húng hắng, trong dáng người lọng khọng, vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán. Đó là những nét khác họa đầu tiên đầy ấn tượng về ngoại hình, dáng vẻ một người mẹ nghèo khổ, già nua, còm cõi, luôn trĩu nặng những lo toan về cuộc sống.
Ngay khi vừa xuất hiện, bà cụ Tứ đã phải đối mặt với tình huống oái oăm của con trai, cũng là của chính gia đình: anh con trai ngộc nghệch nhặt về một cô vợ rách tả tơi ngay trong những ngày đói khát thê thảm. Thân phận bất hạnh cũng như vẻ đẹp trong tâm hồn, tính cách của bà cụ Tứ đã thể hiện qua những trạng thái tâm lí, cảm xúc, những cử chỉ, lời nói và hành động được nhà văn tả chân thực và tinh tế.
Khi thấy Tràng ra tận ngõ đón mẹ, lại thấy anh ta reo lên như một đứa trẻ, thái độ vồn vã, trang trọng khác thường của con trai đã khiến bà cụ Tứ phấp phỏng. Có lẽ bà cụ Tứ đã linh cảm thấy có một cái gì đó quan trọng và bất thường đang chờ đợi. Nhìn thấy có một người đàn bà lạ đứng ngay đầu giường thằng con mình….lại chào mình là u…., vẻ khép nép lạ lùng của thị khiến bà ngạc nhiên tột cùng. Sự ngạc nhiên được thể hiện qua những câu hỏi dồn dập trong dòng độc thoại nội tâm, qua bước chân lập cập, run rẩy, qua việc bà đứng sững lại, rồi thậm chí như không tin nổi vào mắt mình, bà thấy mắt mình nhoèn ra thì phải… Chính sự ngạc nhiên tột cùng của bà cụ Tứ càng cho thấy cái nhìn tinh tường và trái tim nhạy cảm của người mẹ lập tức đã nhận ra có một điều gì đó thiêng liêng, lớn lao đang đến nỗi xót xa cho thân phận con người khi chỉ vì nạn đói và cảnh ngộ gia đình mà người mẹ tội nghiệp không thể tin được những điều bà đang phỏng đoán.
Sau khi nghe lời giới thiệu của con trai: Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi…, bà lão cúi đầu nín lặng… bà đã hiểu ra bao nhiêu là cơ sự. Có biết bao nhiêu thấu hiểu, bao nhiêu nỗi niềm trong cái cúi đầu nín lặng, trong sự chấp nhận ngậm ngùi của bà. Người mẹ từng trải đã hiểu tất cả những uẩn khúc, những éo le trong việc nhặt vợ của con, hình dung được cảnh ngộ của người vợ nhặt, đó là những cơ sự bà đã đoán ra mà không nỡ hỏi, những điều con bà đang nghĩ tới mà không nỡ nói, những điều đang làm người đàn bà xa lạ, đói rách kia sợ hãi, tủi hổ, bẽ bàng. Trong hai chữ cơ sự ấy là tất cả những oái oăm, bi hài của cảnh ngộ, những cay đắng, trớ trêu của duyên kiếp – sự nín lặng của bà cụ Tứ không chỉ cho thấy sự từng trải mà con là biểu hiện rõ nhất của trái tim nhân hậu.
Khác với anh con trai vô tâm, sự kiện Tràng nhặt vợ khiến bà cụ Tứ chìm đắm trong những nồi niềm, vừa ai oán vừa xót thương, vừa tủi phận. Bà mừng vì con có được vợ mà vẫn trăn trở về bổn phận làm mẹ, vần buồn tủi vì số kiếp đứa con mình thật bất hạnh khi chẳng được cha mẹ lo dựng vợ gả chồng cho đàng hoàng tử tế, mở mặt mở mày, phải đi nhặt vợ một cách éo le, chua xót; lại càng lo lắng vì cảnh con lấy vợ giữa những ngày đói quay đói quắt, biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không. Trong lòng bà ngổn ngang với dòng hồi tưởng về những năm tháng dài dằng dặc của quá khứ, với những cay đắng chồng chất trong cuộc đời của bà, của người chồng và đứa con gái đã mất; những buồn tủi về tình cảnh của mẹ con bà trong hiện tại, những lo lắng về tương lai…..; nhưng dù mừng hay tủi, buồn bã hay lo lắng, mọi ý nghĩ và nỗi niềm cho con trai, bà cũng đồng thời thông cảm, xót thương cho cảnh ngộ của người đàn bà đều chỉ xuất phát từ tấm lòng thương yêu vô bờ bến.
Từ chỗ xót xa cho con trai, bà cũng đồng thời thông cảm, xót thương cho cảnh ngộ của người đàn bà xa lạ nay đã trở thành con dâu của mình. Không một lời phản đối hay tra xét, cũng không hề rẻ rúng hay coi thường người đàn bà đói rách tả tơi theo không con trai mình, bà chỉ đăm đăm nhìn đứa con dâu đang bối rối vân vê tà áo đã rách bợt.. lòng đầy thương xót, ngay trong tâm tư, bà đã mặc nhiên công nhận nó bây giờ là dâu là con trong nhà rồi. Sự chấp nhận ấy cho thấy bà đã bỏ qua không chỉ lễ giáo thông thường mà cả gánh nặng sẽ chồng chất thêm của sự đói khát, nỗi ám ảnh ghê gớm của chết chóc để đùm bọc cưu mang một con người khốn khổ, nhất là để vun đắp cho hạnh phúc của con trai. Giống như Tràng, ý nghĩ của bà không chỉ là cảm thông, thấu hiểu mà còn gần như một sự hàm ơn với người vợ nhặt của Tràng: người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có được vợ….- ngôn ngữ độc thoại nội tâm như đã hàm chứa sắc thái đối thoại, vừa như để bênh vực cho con dâu, vừa như cố an ủi chính mình!
Những chi tiết miêu tả thái độ, cách nói năng, cư xử của bà cụ Tứ cũng làm đậm thêm vẻ đẹp trong tấm lòng nhân hậu của bà. Từ cách bà khẽ dặng hắng một tiếng, nhẹ nhàng nói, rồi lại hạ thấp giọng xuống thân mật, nhất là cách dùng hai chữ các con để gọi con và dâu một biểu hiện chắc chắn của sự chấp nhận với nàng dâu mới….; từ câu nói xót xa: chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá cho đến lời giục nàng dâu: con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân….- đó là những cách cư xử cho thấy sự tinh tế và nhân hậu trong lòng người mẹ nghèo, bà muốn bằng thái độ, giọng nói và cả cách xưng hô để làm vợi đi những căng thẳng, lo lắng của con cái, nhất là những tủi hổ bẽ bàng của người đàn bà gặp cảnh éo le đói khát mà phải theo không con trai mình. Tới ba lần, Kim Lân miêu tả dòng nươc mắt của bà cụ Tứ – những dòng nước mắt của buồn vui, thương xót, tủi cực, nước mắt của tình người nhân hậu, vị tha.
Trong ba nhân vật chính của truyện ngắn. Bà cụ Tứ cũng là người thể hiện rõ nhất niềm tin niềm hi vọng vào tương lai. Khốn khổ vì gánh nặng cuộc sống, không thể né được tiếng thở dài chua xót trước việc nhặt vợ của con, thậm chí, hơn một lần bà đã khóc vì tủi cực, lo lắng…, vậy mà bà vẫn đồng tình với việc làm có vẻ hoang phí, bốc đồng của con trai khi thấy Tràng mua dầu thắp đèn. Với câu nói: thắp lên một tí cho sáng sủa, bà đã không chỉ thể hiện sự trân trọng với hạnh phúc của con cái mà có lẽ còn bộc lộ một niềm tin dẫu là vu vơ, mơ hồ về sự sáng sủa hơn trong cuộc đời. Nét mặt nhẹ nhõm, tươi tỉnh… rạng rỡ và dáng vẻ xăm xắn của bà trong sáng ngày hôm sau khi cùng con dâu mới thu dọn, quét tước sân vườn, nhà cửa đã cho thấy ý thức vun đắp cuộc sống gia đình cùng niềm hi vọng cho cuộc đời của mấy mẹ con.
Bà cũng là người chủ động, nhiệt tình mang lại nhiều nhất niềm vui cho bữa ăn ngày đói. Mâm cơm lúc đầu, dù trông thật thảm hại khi giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối và một đĩa muối ăn với cháo nhưng dù sao vẫn là mâm cơm của con người, và bữa ăn của mấy mẹ con vẫn thật vui vẻ, đầm ấm. Bà cụ Tứ chỉ nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau – từ cách nói dân đã quen thuộc về việc ngoảnh đi ngoảnh lại, chẳng mấy chốc có gà mà ăn ! đến cách bà dựa vào một triết lí dân gian đầy sức thuyết phục để gieo vào lòng các con niềm tin về sự đổi đời bởi theo lẽ vần xoay của trời đất thì “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời!” Bà đã động viên các con bằng những dự tính mà ai cũng biết là viển vông, xa vời trong lúc đó, nhưng nghe cách nói của bà, vẫn thấy dũng cảm khi cái đói hiện ra thê thảm đau đớn ở nồi cháo cám.
Kim Lân đã miêu tả hình ảnh bà cụ Tứ trong đoạn văn chua chát này bằng rất nhiều động từ: bà lật đật chạy xuống bếp lễ mễ bưng ra một cái nồi bốc hơi nghi ngút….đặt cái nồi xuống…. cầm cái muôi vừa khuấy khuấy vừa cười…rồi múc và đưa cho các con những bát cháo cám! Tất cả những việc này, bà làm bừng thái độ ân cần, đon đả, với nét mặt tươi cười, với những lời nói cố tỏ ra vui vẻ: chè khoán đấy, ngon đáo để…. Rồi đến khi không thể kéo dài cảnh đầm ấm ở nửa đầu bữa ăn, không thể tiếp tục giữ cho các con cảm giác vui vẻ hạnh phúc trong ngày đầu tiên của cuộc sống chồng vợ, cũng không thể trì hoãn giây phút cay đắng nhất của bữa ăn, không thể che giấu sự thật phũ phàng đã hiện lên trong bát cháo cám đắng chát, bà lại gắn gượng an ủi những đứa con đang tủi hổ.. cắm đầu ăn cho xong lần: cháo cám đấy…làng nhiều nhà còn không có cám mà ăn.. Chính sự dũng cảm và tình yêu thương mênh mông của bà cụ Tứ đã khiến thứ thức ăn của loài vật thấm đẫm tình nghĩa con người, ngời sáng nhân cách con người, giúp các con bà vơi đi phần nào nỗi tủi hờn, chua xót khi thấu hiểu tình yêu thương, sự gắng gượng đầy bản lĩnh của mẹ, giúp họ có sức mạnh đối mặt với khốn khổ, vượt lên trên cái đói, cái thảm đạm để mà vui, để mà hi vọng.
Hình tượng nhân vật người “vợ nhặt”.
Nhân vật người đàn bà vợ nhặt – Trong ba nhân vật chính, đây là nhân vật có tính cách và số phận kì lạ nhất, sự xuất hiện của thị có vai trò đặc biệt quan trọng cho sự vận động và phát triển của cốt truyện. Qua nhân vật người đàn bà vợ nhặt, Kim Lân đã đem đến tác phẩm của mình những giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc.
Vợ Tràng là người đàn bà không rõ lai lịch, không có gia đình, không có nhà cửa. Cô ta thậm chí không có tên và khi xuất hiện lúc được gọi là thị, là cô ả, lúc là người đàn bà. Chỉ có bà cụ Tứ xem vợ Tràng là nàng dâu, con dâu, là con và được Tràng gọi là nhà tôi mà thôi. Trước khi về nhà bà cụ Tứ, cô ta cùng với mấy chị con gái ngồi vêu ra ở cửa nhà kho thóc Liên đoàn chờ nhặt hạt rơi, hạt vãi, hay ai có công việc gì gọi đến thì làm. Trong nạn đói hồi ấy, thân phận con người thật rẻ rúng. Đâu phải vợ Tràng mới là người không tên, không tuổi, còn biết bao chị gái như thế.
Người vợ nhặt xuất hiện trong tác phẩm như một biểu tượng thê thảm của nạn đói. Nạn đói đã hủy hoại ghê gớm hình hài, dáng vẻ thị. Chiếc nón rách tàng, bộ quần áo rách tả tơi như tổ đỉa… tạo ra sự tương hợp xót xa với khuôn mặt lưỡi cày xám xịt, với bộ ngực gày lép và hai con mắt trũng xoáy…
Những chi tiết miêu tả nét mặt hay cử chỉ của thị đều thảm hại bởi sự liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến cái đói, đến miếng ăn. Hơn một lần, Kim Lân miêu tả vẻ cong cớn của người đàn bà chao chát chỏng lỏn..ngồi vêu ở của kho thóc. Lần đầu, thị cong cớn: Có khối cơm trắng với giò đấy.. để tỏ ra mình khôn ngoan, không bị mắc lỡm một câu hò có những hình ảnh thật hấp dẫn về cơm trắng với giò – nhưng chính cái việc cố tỏ ra khôn ngoan ấy lại lại hiện ra những hi vọng thảm hại về miếng ăn; lần sau thị lại cong cớn gạt phăng miếng trầu xã giao, lễ nghĩa để kiếm bốn bát bánh đúc mong lấp đầy cái dạ dầy trống rỗng. Bất chấp lí trí, cái đói vẫn xui khiến thị hi vọng về miếng ăn có thật ở một gười đàn ông xa lạ, vẫn khiến người đàn bà đói khát ấy ton ton ra đẩy xe cho Tràng, thậm chí thị còn cười tít.. tình tứ – cái tình tứ tuyệt đối không phải vì sự lẳng lơ, cũng không xuất phát từ sự quyến rũ của Tràng mà từ sự hấp dẫn không cưỡng nổi của miếng ăn thấp thoáng trong câu hò vu vơ! Rồi vẻ mặt sưng sỉa khi Tràng lỡ hẹn, vẻ đon đả cùng ánh mắt sáng lên khi được mời ăn, động tác cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì… đó là hình ảnh chua xót, thảm hại của con người đàn bà đã bị cái đói hủy hoại không chỉ hình hài, dáng vẻ mà cả nhân cách cùng những phép tác xã giao, những ý tứ, lễ nghĩa tối thiểu.
Kim Lân cũng đặc biệt tinh tế khi miêu tả diễn biến tâm lí của người đàn bà qua đối thoại. Nếu câu nói cong cớn có khối cơm trắng với giò đấy để tỏ ra mình khôn ngoan, cũng là để dập tắt hi vọng trong lòng mình về miếng ăn đầy hấp dẫn thì ngay sau đó, câu hỏi: này nhà tôi ơi, nói thật hay nói đùa đấy? lại phấp phỏng niềm hi vọng về miếng ăn có thật, dù nỗi thèm khát đã cố giấu trong cách nói có vẻ như đừa cợt, chớt nhả- câu hỏi như đùa mà sự đói khát lại thật đến đau lòng. Xỉa xói Tràng vì đói khát : Điêu, người thế mà điêu….; cong cớn gạt miếng trầu cũng vì đói khát: Ăn gì thì ăn, chả ăn giầu…; sung sướng khi nhận thấy khả năng được mời ăn dù vẫn không dám tin là thật: Ăn thật nhá….; mãn nguyện sau khi no nê: hà,ngon….; cuối cùng là một câu nói đùa nhạt nhẽo để chữa ngượng: Về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố…
Tất cả những câu nói của thị đều thể hiện chân thực nỗi nhục nhã, xấu hổ khi lăn xả vào miếng ăn nhưng lại không thể kiếm chế sự thèm khát miếng ăn, không chế ngự được sự dày vò, gào thét của cái dạ dày đang đói khát. Sự đói khát đã hủy hoại nhân cách của thị một cách xót xa: một người đàn bà phải bỏ những ý tứ, những phép tắc xã giao, những sĩ diện, xấu hổ, bấu víu vào một câu hò đùa để kiếm miếng ăn thật; phải gạt phăng miếng trầu lễ nghĩa để chọn bốn bát bánh đúc mong lấp đầy cái dạ dầy trống rỗng; phải vứt bỏ cả lễ giáo và sự thận trọng, bám vào một câu đùa tầm phơ tầm phào để theo không một người đàn ông xa lạ, mong tìm chốn nương thân, hi vọng chạy trống cái đói. Giá trị và nhân cách con người bị hạ giá thê thảm khi chỉ cần một câu hò bâng quơ, bốn bát bánh đúc, câu đùa tầm phơ tầm phào, thị đã trở thành vợ theo, vợ nhặt- người vợ được lấy về do một hành động ngẫu nhiên, thờ ơ, không chủ tâm, người vợ được nhặt về như cỏ rác.
Nhưng người vợ nhặt cũng là nhân vật được Kim Lân gửi gắm niềm tin vào bản chất tốt đẹp của con người ngay khi bị đẩy xuống đáy vực của đói khát. Ngay khi miêu tả người đàn bà phải lăn xả vào Tràng để kiếm miếng ăn, Kim Lân vẫn làm hiện ra nỗi xấu hổ, khổ sở của một nhân cách bị vùi dập vì đói khát ngay trong cách nói cố tổ đáo để: khi ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng, thị cười tít: đã thật thì đẩy chứ sợ gì?; đến hôm được Tràng mời ăn, thị đon đả: ăn thật nhá! ừ ăn thì ăn chứ sợ gì? Việc phủ định cái sợ lại cho thấy thị đang sợ hãi, đang xấu hổ, đang tự trấn an chính mình, và khi con người con biết sợ, biết nhục thì cũng có nghĩa là họ chưa bị hủy hoại hoàn toàn lòng tự trọng, chưa mất hết ý thức về liêm sỉ.
Từ lúc bám vào câu đùa của Tràng, bất chấp tất cả những thận trọng và lễ giáo, chấp nhận làm người vợ nhặt theo không Tràng về nhà mong chạy cái đói, thị đã có những thay đổi thật kì lạ trong cả dáng vẻ, thái độ lẫn lời nói, việc làm. Hình ảnh người đàn bà đi sau hắn chừng ba, bốn bước… cắp cái thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt… vẻ rón rén, e thẹn.. trong buổi chiều đi về nhà Tràng thực sự là hình ảnh của một người vợ ý tứ, nết na và phép tắc, không còn mảy may dáng vẻ của cô gái chỏng lỏn, cong cớn ngoài kho gạo hôm qua. Về tới nhà Tràng, thị tỏ ra rất ý tứ khi chỉ dám ngồi mớm xuống mép giường, khi khép nép trước mặt bà cụ Tứ. Đặc biệt, hình ảnh người đàn và hiền hậu đúng mực khi cùng mẹ chồng thu dọn, quét nhà cửa, sân vườn sạch sẽ, quang quẻ trong buổi sáng hôm sau cũng như đều cho thấy thị đã hoàn toàn thay đổi, hay đúng hơn là thị đã trở về với bản chất tốt đẹp của mình trong vai trò một người vợ hiền, dâu thảo, ý tứ, nết na, chăm chỉ vun đắp cho cái tổ ấm hạnh phúc của mình.
Không được miêu tả trong độc thoại nội tâm như Tràng và bà cụ Tứ nhưng qua những chi tiết miêu tả dáng vẻ, thái độ, cử chỉ, hành động thật tinh tế, Kim Lân vẫn giúp người đọc nhận ra vẻ đẹp trong tâm hồn người đàn bà khốn khổ vì đói khát. Khi đứng trước cửa nhà Tràng, đưa mắt nhìn toàn cảnh cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại, người đàn bà không nén nổi sự thất vọng, cảm giác ngao ngán, nỗi tủi hổ,bẽ bàng. Tất cả những cảm giác ấy hiện rõ trong việc thị đảo mắt nhìn quanh, cái ngực gày lép nhô hẳn lên, nén một tiếng thở dài – thị đã bỏ qua cả lễ giáo, sĩ diện và sự thận trọng, theo không một người đàn ông xa lạ, thô kệch, vụng về những mong chạy trốn cái đói, vậy mà bây giờ, khi xuống đến nấc thang cuối cùng của sự hạ giá nhân cách, cái đói hiện ra trong quang cảnh thảm hại của ngôi nhà tuềnh toàng, rách nát. Thị hoàn toàn có thể quay đi khi không tìm thấy cái thị đột ngột tìm thấy những điều thị không dám nghĩ đến trong hoàn cảnh khốn khổ, những điều quý giá hơn cả miếng ăn trong ngôi nhà rúm ró ấy, đó là tấm lòng nhân hậu của những người sẵn lòng cưu mang, đùm bọc thị khi chính họ cũng đang đói khát.
Tấm lòng ấy có lẽ đã khiến thị ngạc nhiên, xúc động và hiểu rằng, khi bước qua chiếc cổng tre nhà Tràng, trở thành người vợ hiền dâu thảo, thu vén đảm đang, mang lại hạnh phúc cho những con người nhân hậu, thị sẽ tìm thấy cho mình niềm vui được làm vợ, làm mẹ, được có một mái ấm gia đình, được hạnh phúc. Dù vẫn không giấu nổi sự cay đắng, thất vọng và tủi hổ trong cái nhếch mép cười nhạt nhẽo, trong vẻ mặt bần thần hay tiếng thở dài buồn bã… nhưng cách ứng xử đúng mực trong dáng vẻ một người đàn bà hiền thục khiến người đọc hiểu rằng thị đang cố gắng xứng đáng mới tình yêu thương của những con người nhân hậu, và bằng cách đó, thị bắt đầu tìm thấy hạnh phúc trong ngôi nhà rách nát mà ấm áp tình người. Thị đã mang đến niềm vui, niềm hạnh phúc cho những con người từ nay sẽ gắn bó với thị trong suốt cuộc đời: Tràng thấy một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng, bà cụ Tứ sung sướng với nét mặt nhẹ nhõm, tươi tỉnh… rạng rỡ. Đặc biệt, thị còn mang đến cho ngôi nhà tuyềnh toàng, rách nát của Tràng một sức sống mới mẻ, kì lạ : những đống rác mùn trong sân đã được hót gọn, dây quần áo vắt khươn mươi niên được phơi hong khô ráo, hai cái ang bao lâu nay vẫn khô cong bây giờ nước đầy ăm ắp…
Chi tiết thị đón lấy bát cháo cám từ tay mẹ chồng, đưa lên mắt nhìn, hai con mắt thị tối lại. Thị điềm nhiên và vào miệng cho thấy người đàn bà này đã hiểu những cố gắng và cả tấm lòng của người mẹ, thị không chỉ cư xử ý tứ mà còn có một tấm lòng trân trọng nghĩa tình, đặc biệt là một bản lĩnh dũng cảm. Cử chỉ và thái độ điềm nhiên của thị đã làm vơi dịu đi rất nhiều nỗi cay cực, chua xót, tủi hổ của bà mẹ chồng nhân hậu. Nếu bà cụ Tứ thể hiện tấm lòng người mẹ qua những cử chỉ ân cần, ấm áp thì người con dâu cũng đã không phụ tấm lòng yêu thương ấy khi thể hiện tấm lòng của người con trong cách ứng xử ý tứ thật dũng cảm đó đều là những cách ứng xử ngời sáng bản chất người, nồng ấm tình người dù họ đang phải ăn thức ăn của loài vật. Hơn nữa, việc thị điềm nhiên chấp nhận miếng cháo cám đắng chát cũng chứng tỏ thị sẽ chấp nhận đối mặt với tất cả những khó khăn sắp tới bên cạnh những con người nhân ái từ nay đã là gia đình, là người thân của thị.
Trong ba nhân vật của truyện ngắn, thị cũng là người đầu tiên nhen nhóm niềm hi vọng về sự thay đổi cuộc đời nhắc đến chuyện Việt Minh lãnh đạo nhân dân đi phá kho thóc của Nhật ở Thái Nguyên, Bắc Giang và câu chuyện kì diệu của những con người cùng ở dưới bầu trời này, trong đất nươc này đã gieo vào lòng những người đang ngồi ăn cháo cám niềm hi vọng mãnh liệt về sự đổi đời, về một tương lai ấm no, tươi sáng.
“Vợ nhặt” xứng đáng được coi là một kiệt tác bởi nghệ thuật xây dựng tình huống truyện độc đáo, nghệ thuật miêu tả và phân tích tâm lí nhân vật tinh tế, nghệ thuật ngôn ngữ sắc sảo… Thông qua câu chuyện nhặt vợ bi hài, cảm động của Tràng, một người nông dân nghèo khổ trong nạn đói 1945, nhà văn Kim Lân đã đưa đến cho tác phẩm của mình những giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc, thể hiện sinh động “ Ý nghĩa của truyện : trong sự túng đói quay quắt, trong bất cứ hoàn cảnh khốn khổ nào, người nông dân ngụ cư vẫn khao khát vươn lên trên cái chết, cái thảm đạm để mà vui, để mà hi vọng… Khi đói, người ta không nghĩ đến con đường chết mà chỉ nghĩ đến con đường sống. Dù ở trong tình huống bi thảm đến đâu, dù kề bên cái chết vẫn khao khát hạnh phúc, vẫn hướng về ánh sáng, vẫn tin vào sự sống và vẫn hi vọng vào tương lại, vẫn muốn sống, sống cho ta con người” ( Kim Lân – 1985 )
Tham khảo:
Phân tích bức tranh hiện thực cuộc sống và tấm lòng nhân đạo của nhà văn Kim Lân trong truyện ngắn “Vợ nhặt”.
Kim Lân, nhà văn chuyên viết truyện ngắn, với biệt tài viết về người nông dân. Người nông dân trong trang viết của Kim Lân dù nghèo khổ nhưng luôn sáng ngời những phẩm chất: yêu đời, thật thà, chất phác, hóm hỉnh, tài hoa. “Vợ nhặt” là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của ông khi viết về người nông dân.
Tác phẩm là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất nằm trong tập truyện “Con chó xấu xí” (1962). Tác phẩm này trước vốn là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” – được viết ngay sau khi cách mạng tháng Tám thành công. Tuy nhiên chỉ được viết dở dang và sau đó mất bản thảo. Đến năm 1954, khi hòa bình lập lại, nhân một số báo văn nghệ kỉ niệm cách mạng tháng Tám thành công, Kim Lân đã nhớ lại tiểu thuyết “Xóm ngụ cư”, dựa trên cốt truyện cũ viết lại thành truyện ngắn. Ngay từ khi ra đời, tác phẩm đã gây được tiếng vang lớn trong giới sáng tác.
Tác phẩm lấy bối cảnh là nạn đói năm Ất Dậu 1945, năm diễn ra nạn đói khủng khiếp, khiến hơn hai triệu đồng bào ta chết đói. Cái đói tràn lan, khủng khiếp diễn ra ở khắp nơi khiến con người không thể nào chống cự được, tất cả những yếu tố đó đã được Kim Lân tái hiện thành công trong tác phẩm của ông.
Trước hết là màu sắc, ông đi khai thác màu xanh xám của da người, màu đen kịt của đàn quạ bay trên trời. Những màu sắc gợi lên sự chết chóc, ảm đạm, tàn lụi và héo úa. Bao quanh không gian đó là mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người, mùi đốt đống dấm khét lẹt. Kết hợp với tiếng quạ kêu từng hồi, hòa lẫn với tiếng khóc hờ từ những gia đình có người chết. Để làm rõ nét hơn, Kim Lân còn cho người đọc thấy hình ảnh sáng nào cũng có ba bốn thây người nằm chết còng queo bên đường. Tình cảnh vô cùng thảm thương, bất hạnh. Kim Lân nhìn nhận hiện thực bằng cái nhìn chân thực, sắc nét, không né tránh, phơi bày tất cả trên trang văn của mình, để người đọc thấy rõ cái khủng khiếp của nạn đói năm 1945. Nhưng giá trị thật sự của tác phẩm là ở chỗ: từ trong bóng tối của cái đói, cái chết, tác giả tìm thấy ánh sáng của vẻ đẹp tâm hồn con người.
Sau khi vẽ nên khung hình chung của nạn đói, nhân vật đầu tiên trong thiên truyện xuất hiện, đồng thời cũng là nhân vật trung tâm của tác phẩm – anh cu Tràng. Tràng vốn là dân ngụ cư, sống tha phương cầu thực, những người dân ngụ cư thường bị phân biệt, kì thị, sống ở rìa làng, chứ không được sống trong trung tâm của làng như những người khác. Không chỉ vậy, họ còn không được chia ruộng đất, không được tham gia bất cứ hoạt động sinh hoạt cộng đồng nào của làng xã. Anh cu Tràng bị đặt ra ngoài lề xã hội. Không dừng lại ở đó, gia đình Tràng còn rất nghèo, cha mất, chỉ con hai mẹ con nương tựa vào nhau, vì không được chia ruộng nên Tràng phải làm công việc bấp bênh để kiếm sống: kéo xe bò thuê.
Dường như số phận càng trở nên trớ trêu hơn, khi gia cảnh nghèo nàn, là người ngụ cự, anh Tràng còn có ngoại hình hết sức xấu xí. Hai mắt nhỏ tí gà gà đắm vào bóng chiều, còn hai bên quai hàm bạnh ra, khiến khuôn mặt càng to lớn hơn. Thân hình to lớn vập vạp, như một người khổng lồ. Tràng còn vừa đi vừa lảm nhảm những điều mình nghĩ và cứ thể ngửa mặt lên trời cười hềnh hệch. Anh cu Tràng hội tụ đầy đủ vẻ đẹp hấp dẫn lũ trẻ con, còn với các cô gái anh hoàn toàn không có chút hấp dẫn nào, cả về ngoại hình lẫn gia cảnh, anh cu Tràng không có khả năng để lấy được vợ.
Nhưng trong một lần hát nghêu ngao trong lúc làm việc, anh cu Tràng đã lấy được vợ một cách đầy bất ngờ và ngỡ ngàng. Trong lúc làm việc mệt nhọc, dân ta thường có những câu hò để xua tan cái mệt, tăng động lực làm việc. Và anh cu Tràng cũng vậy, anh cũng hát, lời hát hết sức bông đùa: “Muốn ăn cơm trắng với giò. Lại đây mà đẩy xe bò với anh”. Lời nói ấy đã khiến thị theo anh cu Tràng về làm vợ thật.
Trước khi đưa cô vợ về nhà, Tràng rất chu đáo, mua cho vợ một chiếc thúng con mới, dẫn thị đi ăn một bữa thật no, mua những hai hào dầu để về thắp sáng trong nhà. Anh cu Tràng từ một kẻ thô kệch, lúc nào cũng nói chuyện một mình và cười hềnh hệch, hôm nay bỗng trở nên tâm lí và tinh tế lạ thường. Trên đường đi về Tràng vui sướng, hớn hở, miệng lúc nào cũng tủm tỉm cười. Khuôn mặt vừa hạnh phúc, rạng rỡ vừa vênh vênh tự đắc với chính mình. Cảnh sống cực khổ ê chề hàng ngày, Tràng đã quên hẳn, mà chỉ sống trong niềm vui, niềm hạnh phúc khi lấy được vợ. Bước chân đến nhà Tràng bỗng ngượng nghịu, xấu hổ, đứng tây ngây giữa nhà, chợt thấy sờ sợ nhưng lại vừa hạnh phúc sung sướng khi việc mình lấy vợ đã trở thành hiện thực. Điều Tràng mong ngóng nhất là đợi mẹ mình về nhà, để ra mắt nàng dâu mới. Lời giới thiệu thị với mẹ cũng rất trân trọng, để nàng dâu bớt đi phần ngượng ngùng, xấu hổ. Tràng đã thay đổi là một con người khác hẳn, tâm lí, nhạy bén và rất khéo léo trong cách ăn nói. Dường như hạnh phúc mới này đã đem đến sự thay đổi lớn trong tâm lí, suy nghĩ của anh cu Tràng.
Hạnh phúc đã khơi dậy ý thức bổn phận của người đàn ông trong gia đình. Sáng hôm sau, Tràng tỉnh dậy muộn, cảm thấy trong người dễ chịu, êm ái, như người đi ra từ trong giấc mơ, anh ngỡ ngàng trước hạnh phúc mình đang nắm giữ. Tràng quan sát khung cảnh đang bày ra trước mắt mình, nhận thấy cảnh tượng thay đổi mới mẻ, khác lạ, nhà cửa không bừa bộn mà được dọn dẹp sạch sẽ, không khí gia đình trở nên ấm áp, vui vẻ, mẹ và vợ chung tay dọn dẹp, vun vén nhà cửa. Trành thấy thấm thía, cảm động và bỗng thấy yêu thương những người xung quanh, đồng thời nhận thấy trách nhiệm của bản thân, phải biết lo lắng cho gia đình, vợ con. Và sự ý thức đó đã được hiện thực hóa bằng hành động xăm xăm chạy ra sân, muốn chung tay tu sửa căn nhà. Tràng muốn chung tay để nghênh đón tương lai tươi sáng đến với gia đình. Đồng thời trong Tràng cũng bừng lên khát vọng đổi đời mãnh liệt, anh biết quan tâm đến những chuyện ngoài xã hội: mạn Thái Nguyên Bắc Giang không đóng thuế mà còn phá kho thóc Nhật cha cho người đói. Hình ảnh đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới lẩn khuất, ẩn hiện trong trí óc Tràng. Hình ảnh lá cờ chính là tín hiệu cho tương lai tươi sáng. Người đọc tin tưởng Tràng sẽ đi theo Việt Minh, theo cách mạng.
Xây dựng nhân vật Tràng, Kim Lân trước hết phơi bày cuộc sống khổ cực của nhân dân ta trong nạn đói 1945. Nhưng đằng sau đó còn là sự cảm thương cho số phận họ. Trân trọng, phát hiện và ngợi ca vẻ đẹp của người dân Việt Nam trong tình cảnh khốn cùng: tấm lòng nhân hậu, khát khao hạnh phúc, tin tưởng vào tương lai.
Bên cạnh nhân vật Tràng, ta cũng không thể không nhắc đến nhân vật người vợ nhặt. Người vợ nhặt không có lai lịch rõ ràng, không rõ tên tuổi, quê quán, nghề nghiệp và cũng không hề có tài sản gì khi lần đầu gặp Tràng. Có thể thấy rằng, trong nạn đói khủng khiếp, thân phận con người trở nên hết sức vô nghĩa. Lần thứ hai gặp Tràng, quần áo thị rác rưới, tả tơi như tổ đỉa, người gầy sọp đi vì đói, mặt lưỡi cày xám ngoét, ngực gầy và lép, hai con mắt sâu trũng hoáy lại. Ngoại hình thị vô cùng thảm hại, do cái đói đã gây ra cho con người. Ngôn ngữ của thị cũng hết sức chao chát, chỏng lỏn: “Điêu! Người thế mà điêu!”, “Ăn thật nhá”, “Hà, ngon. Về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố”; rồi thì “Ton ton chạy lại”, “liếc mắt cười tít”, “sầm sập chạy đến”, “xưng xỉa nói”, “cong cớn”, “cắm đầu ăn”, “ăn xong lấy đũa quẹt một cái”. Thị tỏ ra là con người hết sức vô duyên, dường như cái đói, cái chết có thể mài mòn nhân cách con người ta ghê gớm đến như vậy.
Nhưng đằng sau sự chỏng lỏn đến vô duyên ấy lại là một con người có khát vọng sống vô cùng mãnh liệt. Khi nhìn dưới góc độ nhân bản thì tất cả hành động, cử chỉ trơ trẽn, vô duyên của thị lại là biểu hiện của khát vọng sống mãnh liệt. Bên cạnh đó, thị còn hiện lên với vẻ đẹp nữ tính, trên đường về nhà, thị rón rén, e thẹn: “Thị cắp cái thúng con, cái đầu hơi cúi xuống; cái nón rách tả tơi nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt”. Khi về đến nhà chồng, thấy quang cảnh nhà chồng thị nén tiếng thở dài, ngồi mớn ở mép giường và vô cùng lễ phép khi gặp mẹ chồng. Sáng hôm sau cô dậy sớm cùng mẹ dọn dẹp, vun vén nhà cửa. Nhân vật thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc của tác giả.
Cuối cùng là nhân vật bà cụ Tứ, dù chỉ thấp thoáng trong tác phẩm, nhưng cũng có vai trò, ý nghĩa quan trọng. Bà là người phụ nữ nghèo khổ, cơ cực: dân ngụ cư tha phương cầu thực; chồng và con gái mất sớm. Cả đời lận đận, chỉ có tâm nguyện lớn nhất là lấy vợ cho con nhưng mãi không dành dụm được tiền, trong lúc nghèo đói đến cùng cực người con trai lại nhặt được vợ. Nhìn thấy con đưa vợ về, bà nín lặng cúi đầu, băn khoăn, nhưng vẫn rất vui mừng cho đôi trẻ. Bà dặn dò hai vợ chồng mới, nói những chuyện tương lai tốt đẹp, đem đến niềm tin, sự lạc quan cho chúng. Bà là một người mẹ nhân hậu và hết sức yêu thương con.
“Vợ nhặt” của Kim Lân là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của văn học hiện thực. Tác phẩm vừa cho thấy hiện thực cuộc sống nghèo khổ của nhân dân, đồng thời ánh lên giá trị nhân đạo sâu sắc. Tác phẩm thể hiện sự trân trọng, nâng niu những ước mơ đổi đời của con người. Không chỉ vậy, tác phẩm cũng cho thấy nghệ thuật phân tích tâm lí và miêu tả bậc thầy của nhà văn Kim Lân.
MỘT SỐ ĐỀ LUYỆN TẬP
Đề 1. Vì sao người dân xóm ngụ cư lại ngạc nhiên khi thấy Tràng đi cùng một người đàn bà lạ về nhà ? Sự ngạc nhiên ấy đã cho thấy Kim Lân đã sáng tạo được một tình huống truyện như thế nào ?
Đề 2. Không khí nạn đói khủng khiếp đã được nhà văn gợi lên như thế nào trong truyện “Vợ nhặt” ? Cái không khí ấy có giá trị, tác dụng ra sao trong việc thể hiện số phận, tính cách nhân vật và tình huống truyện.
Đề 3. Anh (chị) có suy nghĩ gì về cái kết của truyện “Vợ nhặt”.
Đề 4. Nhà văn Kim Lân đã từng thổ lộ ý đồ của mình khi viết truyện “Vợ nhặt” : “Dù kề bên cái chết vẫn khát khao hạnh phúc, vẫn hướng về ánh sáng, vẫn tin vào sự sống và vẫn hi vọng ở tương lai” (Theo Hà Minh Đức, Nhà văn nói về tác phẩm).
Đề 5. Số phận và vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ qua hai sáng tác Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài) và “Vợ nhặt” (Kim Lân).
Đề 6. Truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao kết thúc bằng hình ảnh: “Đột nhiên thị thấy thoáng hiện ra một cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa, và vắng người lại qua..” (Ngữ văn 11, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2011, tr.155) Truyện ngắn“Vợ nhặt” của Kim Lân kết thúc bằng hình ảnh: “Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới...” (Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2011, tr.32). Cảm nhận của anh/chị về ý nghĩa của những kết thúc trên.
Đề 7. Phân tích nhân vật A Phủ trong “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài và Tràng trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân.