Đọc – hiểu văn bản:
Phú sông bạch Đằng (Bạch Đằng Giang phú)
(Trương Hán Siêu)
I. Tìm hiểu chung.
1. Tác giả: Trương Hán Siêu.
– Trương Hán Siêu (? -1354), tự là Tháng Phủ, người làng Phúc Thành, huyện Yên Ninh (nav thuộc thành phố Ninh Bình), vốn là người được Trần Hưng Đạo tin dùng. Ông tính tình cương trực, học vấn uyên thâm, nhân cách cao quý nên được các vua Trần tin cậy, nhân dân kính trọng.
– Thời Trần, ông giữ chức Hàn lâm học sĩ qua mấy triều. Năm 1351, ông được thăng Tham tri chính sự. Khi mất, ông được vua ban tước hiệu và cho thờ ở Văn Miếu (Hà Nội).
– Tác phẩm của ông để lại không nhiều, hiện còn bốn bài thơ và ba bài văn, trong đó có bài Phú sông Bạch Đằng.
2. Tác phẩm.
– Thể loại: Phú
– Phú sông Bạch Đằng được viết theo thể cổ phú. Bản dịch đưa vào SGK giữ được nguyên điệu, chỉ hai bài ca kết bài được Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến và Bùi Văn Nguyên chuyển sang thể lục bát
– Phú là một loại văn cổ của Trung Quốc, vào Việt Nam từ sớm nhưng được vận dụng trong sáng tác từ thời Trần. Phú có thể được viết bằng văn vần, hoặc xen lẫn văn vần và văn xuôi nhằm miêu tả phong cảnh, kể sư viêc bàn chuyện đời,…
– Có hai thể phú :
+ Phú cổ thể có trước thời Đường, đặc trưng chủ yếu là mượn hình thức chủ – 1 khách đốì đáp để bày tỏ diễn đạt nội dung, câu có vần, không nhất thiết có đối 1 kết bằng thơ. Bô’ cục thường có bố n đoạn : mở, giải thích, bình luận, kết.
+ Phú cận thể (phú Đường luật) xuất hiện từ thời Đường, có vần, có đôi, theo luật bằng trắc. Bô” cục thường có sáu đoạn.
– Hoàn cảnh sáng tác:
+ Phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu là một trong nhiều tác phẩm thời đó viết về sông Bạch Đằng lịch sử – con sông gắn liền với tên tuổi Ngô Quyền năm 938 và đặc biệt là với “hai vị thánh quân” Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông và Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn trong lần thứ ba đánh tan giặc Mông – Nguyên (năm 1288).
+ Phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu mang cảm hứng hào hùng và bi tráng. Tác phẩm ra đời khi vương triều nhà trần đang có biểu hiện suy thoái, cần phải nhìn lại quá khứ anh hùng để củng cố niềm tin trong hiện tại. Đây là một tác phẩm đặc sắc của văn học trung đại Việt Nam.
– Bố cục bài phú có 4 đoạn:
+ Đoạn 1: “khách có kẻ…còn lưu”: niềm ham thích du ngoạn và cảm xúc của “khách” trước cảnh sắc sông bạch đằng.
+ Đoạn 2: “bên sông các bô lão… nghìn xưa ca ngợi”: chiến tích lịch sử trên sông Bạch Đằng qua lời kể của các bô lão.
+ Đoạn 3: “tuy nhiên: từ có vũ trụ… nhớ người xưa chừ lệ chan”: suy ngẫm và bình luận của các bô lão về những chiến công xưa.
+ Đoạn 4: phần còn lại: lời ca khẳng định vai trò và đức độ của con người.
Bố cục của bài Phú sông Bạch Đằng mang đặc điểm tiêu biểu của bài phú cổ thể như đã nói ở trên. Hệ thống cấu tứ theo lối kể chuyện khách quan : tác giả để nhân vật “khách” đứng ra kẽ về những điều mình quan sát và suy nghĩ; hết lời kể thì “bô lão” ở địa phương kể cho “khách” nghe về chiến công thuở trước, sau đó là cất lời ca và “khách” cũng ca nối tiếp.
– Nội dung: Qua những hoài niệm về quá khứ, phú sông bạch đằng đã thể hiện lòng yêu nước và niềm tự hào dân tộc trước chiến công trên sông Bạch Đằng, đồng thời ca ngợi truyền thống anh hùng bất khuất, truyền thống đạo lí nhân nghĩa của dân tộc Việt Nam. Tác phẩm cũng chứa đựng tư tưởng nhân văn cao đẹp qua việc đề cao vai trò, vị trí của con người trong lịch sử.
⇒ Phú sông Bạch Đằng là đỉnh cao của nghệ thuật của thể phú trong văn học trung đại Việt Nam.
II. Kiến thức văn bản.
1. Hình tượng nhân vật khách.
+ Khách là người có tâm hồn khoáng đạt, có hoài bảo lớn lao.
+ Khách là sự phân thân của tác giả.
+ Khách là người có thú du ngoạn, có tâm hồn rộng mở, yêu thiên nhiên tha thiết, dạo chơi với khách với tâm trạng ung dung, sảng khoái:
Giương buồm giong gió chơi vơi,
Lướt bể chơi trăng mải miết
+ Tráng chí bốn phương của “khách” được gợi lên qua hai loại địa danh: những địa danh lấy trong điển cố Trung Quốc (nguyên, tương, vũ huyệt, cửu giang, ngũ hồ, tam ngô, bách việt…) và những địa danh của đất việt (cửa đại than, bến đông triều, sông bạch đằng):
Sớm gõ thuyền chừ Nguyên, Tương,
Chiều lần thăm chừ Vũ Huyệt.
Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt,
Nơi có người đi, đâu mà chẳng biết.
+ Khách dạo chơi không chỉ để thưởng thức vẻ đẹp thiên nhiên mà còn nghiên cứu cảnh trí đất nước, bồi bổ tri thức, khắc sâu niềm tự hào và tình yêu thiên nhiên, đất nước.
+ Khách là người có hoài bão lớn lao, đến với sông Bạch Đằng là tìm về lịch sử dân tộc:
Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều,
Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết.
…….
Qua cửa Đại Than, ngược bến Đông Triều,
Đến sông Bạch Đằng, thuyền bơi một chiều
+ Cảnh trên sông Bạch Đằng hiện lên vừa hoành tráng, hùng vĩ, thơ mộng vừa ảm đạm hiu hắt.
Bát ngát sóng kình muôn dặm,
Thướt tha đuôi trĩ một màu.
Nước trời: một sắc, phong cảnh: ba thu,
Bờ lau san sát, bến lách đìu hiu.
Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô,
+ Bạch Đằng ghi khắc chiến tích của cha ông. Lịch sử hào hùng như còn vang vọng đâu đây. Từng đợt sóng dội bờ lau lách như đuôi kình, đuôi trĩ thướt tha. Đất trời hòa vào sắc nước mênh mang. Bờ lau bãi sậy hoang vu, còn đá ngổn ngang khơi gợi về những trận chiến kinh hoàng năm xưa.
+ Cảm xúc của tác giả trước sông Bạch Đằng: đứng trước một nơi ghi dấu ấn lịch sử, tác giả vừa tự hào vừa vui vì cảnh vật nên thơ, hùng vĩ. Bên cạnh đó là sự luyến tiếc đau buồn vì cảnh chiến trường xưa một thời gào hùng mà nay trơ trọi, hoang vu, hiu hắt, dòng thời gian đang làm phai mờ bao dấu vết xưa:
Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá.
Tiếc thay dấu vết luống còn lưu!
+ Tác giả tiếc thay mấy khi có dịp đến đây mà không thể gặp những người anh hùng năm xưa để rõ nguồn cơn. Dấu vết cũ còn lưu càng khiến cho tác giả hối tiếc.
2. Hình tượng các bô lão.
+ Hình tượng các bô lão (có thể là nhân dân địa phương có thể là hư cấu). Các bô lão đến với “khách” bằng thái độ nhiệt tình, hiếu khách, tôn kính khách:
Bên sông các bô lão, hỏi ý ta sở cầu?
Có kẻ gậy lê chống trước, có người thuyền nhẹ bơi sau,
+ Các bô lão kể về những chiến tích lịch sử trên sông Bạch Đằng theo trình tự diễn biến sự kiện với thái độ, giọng điệu đầy nhiệt huyết, tự hào, lời kể ngắn gọn, súc tích.
+ Trước hết các bô lão hồi tưởng về chiến tích “Trùng Hưng Nhị Thánh bắt ô mã” và trận “ngô chúa phá Hoằng thao”:
Đây là nơi chiến địa buổi Trùng Hưng nhị thánh bắt Ô Mã,
Cũng là bãi đất xưa, thuở trước Ngô chúa phá Hoằng Thao.
Đương khi ấy:
Thuyền bè muôn đội, tinh kì phấp phới,
Hùng hổ sáu quân, giáo gươm sáng chói.
Trận đánh được thua chửa phân,
Chiến luỹ bắc nam chống đối.
Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ,
Bầu trời đất chừ sắp đổi.
Kìa: Tất Liệt thế cường, Lưu Cung chước dối,
Những tưởng gieo roi một lần,
Quét sạch Nam bang bốn cõi!
Thế những: Trời cũng chiều người,
Hung đồ hết lối!
+ Không khí trận chiến gay go, quyết liệt được thể hiện qua các hình tượng kì vĩ, mang tầm vóc của đất trời, sử dụng nhiều kiểu câu dài ngắn khác nhau. Các chiến tích trên sông Bạch Đằng vừa hào hùng, vừa dữ dội. Cả ta và địch đều tập trung binh lực hùng hậu nhất cho trận chiến.
+ Bằng cách sử dụng hình ảnh chọn lọc, điển tích, nghệ thuật so sánh, lời kể ngắn gọn, cô đọng… văn bản đã cho thấy chiến công oanh liệt của dân tộc, niềm tự hào của các bô lão và sự thất bại thảm hại của kẻ thù.
+ Sau lời kể về trận chiến là suy ngẫm và bình luận của các bô lão về những chiến công năm xưa:
Tuy nhiên: Từ cõ vũ trụ, đã có giang san.
Cũng nhờ: Nhân tài giữ cuộc điện an
+ Lời suy ngẫm, bình luận đã chỉ ra nguyên nhân ta thắng, địch thua: ta hội đủ các điều kiện thiên thời, địa lợi, nhân hòa, những điều quyết định là ta có “nhân tài giữ cuộc điện an”.
+ Khẳng định vai trò, vị trí của con người. Đó là cảm hứng mang giá trị nhân văn và tầm triết lí sâu sắc.
+ Cuối cùng là lời ca của các bô lão mang ý nghĩa tổng kết, có giá trị như một tuyên ngôn và chân lí. Khẳng định sự tồn tại vĩnh hằng của dòng sông và những chiến công lịch sử nơi đây. Khẳng định chân lí lịch sử: bất nghĩa tiêu vong, anh hùng, nhân nghĩa lưu danh thiên cổ.
Những người bất nghĩa tiêu vong
Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh
3. Lời ca của nhân vật “khách”.
Anh minh hai vị thánh quân,
Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh.
Giặc tan muôn thuở thăng bình.
Bởi đâu đất hiểm cốt mình đức cao
+ Ca ngợi sự anh minh của hai vua trần (Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông). Ca ngợi chiến tích của quân dân ta trên sông Bạch Đằng
+ Khẳng định chân lí: trong mối quan hệ giữa địa linh và nhân kiệt là yếu tố quyết định thắng lợi. Ta thắng giặc không chỉ ở “đất hiểm” mà quan trọng là bởi nhân tài có “đức cao” → nêu cao vai trò, vị trí của con người.
+ Lời ca kết thúc bài phú vừa thể hiện niềm tự hào dân tộc vừa thể hiện tư tưởng nhân văn cao đẹp.
III. Tổng kết.
1. Nội dung:
– Qua những hoài niệm về quá khứ, Phú sông Bạch Đằng đã thể hiện lòng yêu nước và niềm tự hào dân tộc trước chiến công trên sông Bạch Đằng, đồng thời ngợi ca truyền thống anh hùng bất khuất, truyền thống đạo lí nhân nghĩa của dân tộc Việt Nam. Tác phẩm cũng chứa đựng tư tưởng nhân văn cao đẹp qua việc đề cao vai trò, vị trí của con người trong lịch sử.
2. Nghệ thuật.
– Phú sông Bạch Đằng là đỉnh cao nghệ thuật của thể phú trong văn học Việt Nam thời trung đại. Bài phú có cấu tứ đơn giản mà hấp dẫn, bố cục chặc chẽ, lời văn linh hoạt, kết hợp giữa tự sự và trữ tình có khả năng bộc lộ cảm xúc phong phú, đa dạng.
– Hình tượng nghệ thuật sinh động, vừa có giá trị gợi hình vừa giàu ý nghĩa biểu tượng.
– Lời văn linh hoạt. Ngôn từ trang trọng, hào sảng, tráng lệ, vừa lắng đọng, gợi cảm và giàu suy tư.
– Cấu tứ đơn giản, hấp dẫn với bố cục chặt chẽ.
– Điển cố được sử dụng chọn lọc, giàu sức gợi.
III. Câu hỏi ôn tập:
1. Nêu những nét chính về tác giả Trương Hán Siêu?
2. Nêu khái niệm về phú?
3. Hãy cho biết hoàn cảnh sáng tác cảu bài Phú sông Bạch Đằng?
4. Cho biết cảm xúc của “khách” trước khung cảnh thiên nhiên trên sông Bạch Đằng?
5. Vai trò của hình tượng các bô lão trong bài phú? Chiến tích trên sông Bạch Đằng đã được gợi lên như thế nào qua lời kể của các bô lão?
6. Lời ca của các bô lão và lời ca nối tiếp của nhân vật khách nhằm khẳng định điều gì?
7. Thuyết minh văn bản phú sông Bạch Đằng?
Tham khảo:
Phân tích bài Phú sông Bạch Đằng.
Trương Hán Siêu là một danh sĩ nổi tiếng đời Trần. Trương Hán Siêu là người học vấn sâu rộng. Ông đã đem hết tài năng tâm huyết ra phục vụ cho non sông đất nước. Là người tính tình thẳng thắn bộc trực, cho nên cuộc đời làm quan của ông không ít thăng trầm.Bạch Đằng giang phú (hay Phú sông Bạch Đằng) là tác phẩm xuất sắc của Trương Hán Siêu, đồng thời cũng là tác phẩm tiêu biểu của văn học yêu nước thời Lý – Trần, một đỉnh cao nghệ thuật của thể phú trong văn học và được xem là một áng thiên cổ hùng văn trong lịch sử văn học Việt Nam.
Trong dịp du ngoạn sông Bạch Đằng, một nhánh sông Kinh Thầy nơi quân ta hai lần đánh tan quân xâm lược Mông-Nguyên, Trương Hán Siêu nhớ đến các bậc anh hùng xưa, vừa tự hào vừa viết nên bài phú sông Bạch Đằng. Ở thời trung đại, bài phú này được đánh giá là hay bậc nhất.
Mở đầu bài phú là ba chữ “Khách có kẻ”, nhân vật khách xuất hiện nơi nhánh sông này, chính là Trương Hán Siêu, đây là nhân vật trữ tình. Mặc dù ông là người cương trực, học vấn uyên thâm nhưng con người ông phóng khoáng và cũng luôn hết mình vì thiên nhiên. Từ khách mang cái thú vui thưởng ngoạn, ngao du trên thuyền ngắm nhìn, thăm thú những cảnh đẹp hòa cùng đất trời. Biết bao vùng miền lữ khách đã đặt chân đến. Sự phóng khoáng ấy còn được thể hiện rõ hơn trong câu thơ:
“Giương buồm giong gió chơi vơi”
Khách là một tao nhân khoáng đạt chơi vơi với cánh buồm, làm bạn với gió trăng qua mọi miền sông nước, sống hết mình với thiên nhiên. Vị khách này là người đã đi nhiều nơi, đến nhiều chỗ, nhưng những hình ảnh ở đây chỉ mang tính tượng trưng để làm nổi bật lên cá tính, làm nổi bật lên con người yêu thiên nhiên, yêu đất nước lấy việc du ngoạn làm thú vui ở đời, tự hào về thói giang hồ của mình. Đêm thì mải miết chơi với ánh trắng kia, ngày sớm gõ thuyền chừ Nguyên Tương; chiều thăm chừ Vũ Huyệt, “Nơi có người ở / Đâu mà chẳng biết” chứng tỏ một điều rằng ông là người đi nhiều nơi, biết nhiều chỗ, nhưng ở đây chỉ là hình ảnh tượng trưng nói lên tâm hồn người thi sĩ, một cá tính, yêu thiên nhiên thiết tha, lấy việc đi du ngoạn bốn phương là niềm vui thú.
Các địa danh: Nguyên Tương, Ngũ Hồ… đều trên đất Trung Hoa không chỉ đẹp, mà gợi ra một không gian bao la, rộng lớn, chỉ những người có tâm hồn phóng khoáng, trí nơi bốn phương. Hòa cùng với tâm hồn người thi sĩ hình ảnh “bờ lau san sát- bến lách đìu hiu- Sông chìm giáo gãy- Gò đầy xương khô”, sông Bạch Đằng để lại rất nhiều những dấu tích lịch sử. Đó là những dấu mốc oai hùng của lịch sử chống giặc ngoại xâm mang niềm tự hào hào khí của dân tộc, Trương Hán Siêu bày tỏ nỗi tiếc thương những anh hùng đã hi sinh vì đất nước. Tâm trạng buồn, thương tiếc, cảm xúc đứng lặng giờ lâu của khách biểu lộ niềm xúc động, lòng tiếc thương và biết ơn vô hạn đối với anh hùng liệt sĩ đã hi sinh xương máu bảo vệ dòng sông cùng sự tồn vong của dân tộ, đây cũng chính tình nghĩa thủy chung “uống nước nhớ nguồn” được thể hiện qua những câu thơ:
Buồn vì cảnh thảm
Bài viết gần đây
Đứng lặng giờ lâu
Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá
Tiếc thay dấu vết luống còn lưu
Thuyền bè muôn đội, tinh kì phấp phới,
Hùng hổ sáu quân, giáo gươm sáng chói,
Trận đánh được thua chửa phân,
Chiến luỹ bắc nam chống đối.
Không những vậy, những năm tháng một thời oanh liệt theo cứ lớp sau xô lớp trước mà trở về. Các trận đánh tái hiện từ thời Ngô Quyền đến thời Trần Hưng Đạo. Điều này cho thấy thời đó dân tộc ta phải đương đầu với quân xâm lược phương Bắc và vận nước luôn trong tình trạng lâm nguy, ngàn cân treo sợi tóc. Nghe các bậc tiền bối kể lại diễn biến từng trận đánh. Ban đầu, quân ta và quân địch đều tập trung binh lực hùng hậu cho một trận đánh quyết tử. Đây là sự đối đầu không riêng về lực lượng mà còn là đối đầu về ý chí: quân ta với lòng yêu nước và sức mạnh chính nghĩa, quân địch thế cường bạo với bao mưu mô xảo quyệt. Chính vì vậy mà trận chiến diễn ra ác liệt:
“Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ
Bầu trời đất chừ sắp đổi”.
Nhà thơ từ miêu tả, tự sự rồi suy ngẫm về sự vinh phục, về sự thắng bại trong lịch sử ta. Tổ quốc bền vững là nhờ hai nhân tố quan trọng: đất hiểm và nhân tài. Tác giả đã nêu lên bài học lịch sử vô giá. Bạch Đằng, Chi Lăng… là đất hiểm. Ngô Quyền, Lê Lợi, Quang Trung…đều là nhân tài. Điện an là sự nghiệp bảo vệ nền độc lập, hoà bình, yên vui cho đất nước. Tác giả sử dụng lối so sánh, nhắc đến vai trò to lớn của lã Vọng, Hàn Tín để lại võ công lừng lẫy, tác giả ngợi ca Hưng đạo Vương vĩ đại thuở bình Nguyên oanh liệt.
Đoạn văn miêu tả dòng sông, kể lại trận thuỷ chiến là đặc sắc nhất, màu sắc tráng lệ, hình ảnh kì vĩ. Phép đối được vận dụng rất tài tình biểu lộ niềm tự hào dân tộc – sức mạnh nhân nghĩa Việt Nam. Tác giả đã bày tỏ quan niệm về đất hiểm và nhân tài, về cái vinh và cái nhục, cái tiêu vong và cái vĩnh hằng. Tư tưởng cao đẹp ấy được diễn tả thật tráng lệ nên thơ tạo nên vẻ đẹp văn chương trong Bạch Đằng giang phú. Kết thúc bài phú, tác giả đã ca ngợi hai vị vua Trần, Sông Bạch Đằng hùng vĩ một dải dài, mồ chôn lũ xâm lăng. Máu giặc như nhuộm đỏ cả dòng sông. Một cách nói hào hùng, giặc bất nghĩa nhất định sẽ bị tiêu vong:
Anh minh hai vị thánh quân,
Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh.
Hai vị “Thánh quân” được nhắc đến là Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông, hai vị vua này đã lãnh đạo cuộc kháng chiến lần thứ 2- thứ 3 đánh thắng giặc Nguyên – Mông. Họ là hai vị vua yêu nước thương dân, họ đã khơi dậy sự đoàn kết, sức mạnh dân tộc lòng yêu nước đem lại bài học giữ nước cho muôn đời.
Phú sông Bạch Đằng là đỉnh cao nghệ thuật thể phú trong văn học Việt Nam thời trung đại: với ngôn từ đẹp, dễ đọc, bố cục chặt chẽ, câu từ linh hoạt mang đậm tính triết lý. Chất trữ tình sâu lắng cùng với giọng điệu hùng ca, không khí trang trọng, tài hoa trong miêu tả, hùng hồn trong tự sự, rung động cùng cảm xúc, sáng suốt khi bình luận là những thành công của Trương Hán Siêu.
Bạch Đằng giang phú thể hiện lòng yêu nước và niềm tự hào về truyền thống anh hùng bất khuất và truyền thống đạo lý nhân nghĩa sáng ngời của dân tộc Việt Nam, nhắc nhở những thế hệ mai sau tiếp nối truyền thống cha anh để lại. Do đó Đằng giang phú cũng thể hiện tư tưởng nhân văn cao đẹp của việc đề cao vai trò, vị trí của con người trước lịch sử. Từ đó, tác giả bày tỏ niềm tự hào dân tộc, đây cũng là lời nhắc nhở những thế hệ mai sau tiếp nối truyền thống cha anh để lại. Đây là một áng văn chứa chan niềm tự hào dân tộc, có ý nghĩa tổng kết lại chiến thắng Bạch Đằng thời bấy giờ:
“Giặc tan muôn thuở thăng bình,
Bởi đâu đất hiểm, cốt mình đức cao”.