Hình tượng “trăng” trong “Đồng chí” (Chính Hữu) và “Ánh Trăng” (Nguyễn Duy)
- Mở bài:
Trăng vốn là đề tài lớn trong thi ca. Trăng vừa là biểu tượng của vẻ đẹp thiên nhiên hiền dịu, vừa ẩn chứ trong mình biết bao triết lí nhân sinh. Chính Hữu qua bài thơ Đồng chí và Nguyễn Duy qua bài thơ Ánh Trăng đã có những khám phá độc đáo, thú vị về hình tượng ánh trăng, tạo nên hình tượng nghệ thuật giàu tính nhân văn.
- Thân bài:
Chính Hữu là nhà thơ trưởng thành từ thời kì kháng chiến chống Pháp. Bài thơ Đồng chí sáng tác năm 1947, in trong tập Đầu súng trăng treo. Tác phẩm viết về tình cảm đồng chí đẹp đẽ của người lính kháng Pháp buổi ban đầu. Nguyễn Duy là nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. Bài thơ Ánh trăng viết năm 1978, in trong tập thơ cùng tên. Bài thơ như một lời tâm sự, một lời nhắn nhủ chân tình với chính mình, với mọi người về lẽ sống ân nghĩa thủy chung.
Đồng Chí là bài thơ tiêu biểu trong phong trào chống thực dân pháp, ca ngợi sự dũng cảm, tinh thần chiến đấu của những người lính nơi chiến trường. Bài thơ đã mang đến cho bạn đọc những sự rung cảm nhất định, đồng cảm với họ và khơi gợi lòng yêu nước thông qua ngòi bút tài hoa của nhà thơ Chính Hữu. Đặc biệt, đoạn thơ cuối với hình ảnh ánh trăng trong đêm rừng hoang sơ đã để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc:
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo”.
Khổ thơ là bức tranh đẹp về tình đồng chí, đồng đội, là biểu tượng cao đẹp về cuộc đời người chiến sĩ. Nổi bật giữa cảnh rừng đêm hoang vắng, lạnh lẽo là hình ảnh người lính “đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”. Đó là hình ảnh cụ thể của tình đồng chí sát cánh bên nhau trong chiến đấu. Họ đã đứng cạnh bên nhau giữa cái giá rét của rừng đêm, giữa cái căng thẳng của những giây phút “chờ giặc tới”. Tình đồng chí đã sưởi ấm lòng họ, giúp họ vượt lên tất cả.
Câu kết là một hình ảnh thơ rất đẹp: “Đầu súng trăng treo”. Cảnh vừa thực, vừa mộng. “Trăng” là biểu tượng cho vẻ đẹp thiên nhiên, đất nước, là khát vọng tự do, là sự sống thanh bình. “Súng” là hiện thân cho cuộc chiến đấu gian khổ, hi sinh, là chiến tranh ác liệt.
Hai hình ảnh tưởng như đối lập song lại thống nhất hòa quyện: Súng và trăng là cứng rắn và dịu hiền, là gần và xa, là thực tại và mơ mộng, là chất chiến đấu và chất trữ tình, là chiến sĩ và thi sĩ. Hai hình ảnh đó trong thực tế vốn xa nhau vời vợi nay lại gắn kết bên nhau trong cảm nhận của người chiến sĩ: trăng treo trên đầu súng.
Như vậy, sự kết hợp hai yếu tố, hiện thực và lãng mạn đã tạo nên cái vẻ đẹp độc đáo cho hình tượng thơ. Hiếm thấy một hình tượng nào vừa đẹp,vừa mang đầy đủ ý nghĩa như “Đầu súng trăng treo” của Chính Hữu. Đây là một phát hiện, một sáng tạo bất ngờ về vẻ đẹp bình dị và cao cả trong tâm hồn người chiến sĩ. Hình tượng này góp phần nâng cao giá trị bài thơ và trở thành nhan đề cho cả tập thơ “Đầu súng trăng treo”.
Xem thêm: Cảm nhận khổ cuối bài thơ Đồng chí của Chính Hữu: Đêm nay rừng hoang sương muối...
Ánh trăng trong bài thơ cùng tên của Nguyễn Duy gắn gắn liền với những kỉ niệm trong sáng thời thơ ấu tại làng quê. Nhớ đến trăng là nhớ đến không gian bao la. Những “đồng, sông, bể” gọi một vùng không gian quen thuộc của tuổi ấu thơ, có những lúc sung sướng đến hả hê được chan hòa, ngụp lặn trong cái mát lành của quê hương như dòng sữa ngọt:
“hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với biển”.
“trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ”
Trăng còn là người bạn tri kỉ nơi chiến trường, gắn với những kỉ niệm không thể nào quên của cuộc chiến tranh ác liệt của người lính trong rừng sâu: khi trăng treo trên đầu súng, trăng soi sáng đường hành quân. Vầng trăng ây cũng là “quầng lửa” theo cách gọi của nhà thơ Phạm Tiến Duật. Trăng thành người bạn chia sẻ ngọt bùi, đồng cảm cộng khổ và những mât mát hi sinh, vâng trăng trở thành người bạn tri kỉ với người lính:
“hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỷ”.
Vầng trăng ấy nghĩa tình, thủy chung, gắn bó và đồng hành cùng với con người trên mọi bước đường đời. Con người khắc sâu tình cảm ấy, hứa sẽ không bao giờ quên:
“ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa”.
Từ ở rừng, sau chiến thắng về thành phố, được sống cuộc sông tiện nghi: ở buyn-đinh, quen ánh điện, cửa gương… và vầng trăng tri kỉ tình nghĩa đã bị người tri kỉ xưa lãng quên, dửng dưng. Trăng được nhân hóa, lặng lẽ đi qua đường, như người dưng, chẳng còn ai nhớ, chẳng ai hay.
Bất ngờ gặp một tình huống của nhịp sống thành thị: “Thình lình đèn điện tắt / phòng buyn đinh tối om”. Vầng trăng xưa xuất hiện, vần tròn, vẫn đẹp, vẫn thủy chung với con người. Cả một quá khứ đẹp và tình nghĩa ùa về rưng rưng trong lòng người lính, những ăn năn day dứt, những hổ thẹn ngập tràn, còn trăng thì im lặng.
Người lính giật mình, cái giật mình của người lính trước sự im lặng của trăng xưa hiện về nơi thành phố hôm nay là một biểu tượng nghệ thuật mang tính hàm nghĩa độc đáo. Đó là sự bao dung, độ lượng, nghĩa tình, thủy chung của nhân dân, sự trong sáng mà không hề đòi hỏi được đền đáp.
Đây chính là phẩm chất cao đẹp của nhân dân mà tác giả muốn ngợi ca tự hào. Cũng là thông điệp hãy biết nhớ về quá khứ tốt đẹp, không nên sống vô tình. Đó chính là ý nghĩa sâu sắc của hình ảnh trăng trong bài thơ của Nguyễn Duy tự nhắn nhủ mình và muốn gửi gắm.
Xem thêm: Cảm nhận hình tượng vầng trăng trong bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy
So sánh:
* Tương đồng: Ở cả hai bài thơ trăng là hình ảnh đẹp, trong sáng; là người bạn trong chiên đấu, lạo động. Trăng là biểu tượng của lí tưởng chiến đấu, ý chí quyết tâm giải phóng dân tộc, của tinh thần dũng cảm, yêu nước mãnh liệt. Sử dụng sức mạnh của tình đồng chí, đồng đội để vượt qua những năm tháng chiến tranh khốc liệt.
* Nét riêng:
Bài thơ Đồng chí:
– Được đặt trong thời gian, không gian: rừng đêm hoang vu, lạnh lẽo. Trăng xuất hiện trong giờ khắc trước một trận chiến đấu mà mất mát, hi sinh là những điều không thể tránh khỏi.
– Hình ảnh trăng treo trên đầu súng vừa có ý nghĩa tả thực, vừa có tính biểu trưng của tình đồng đội và tâm hồn bay bổng lãng mạn của người chiến sĩ. Phút giây xuất thần ấy làm tâm hồn người lính lạc quan thêm tin tưởng vào cuộc chiến đấu và mơ ước đến tương lai hoà bình.
→ Trăng là biểu tượng của tình đồng chí keo sơn gắn bó, biểu tượng của tâm hồn lạc quan, dũng cảm. Trăng là hình tượng hiện thực và lãng mạn, là biểu tượng cho cuộc sống hòa bình, là hình ảnh của quê hương đất nước. Trăng còn là vẻ đẹp tâm hồn của người chiến sĩ lạc quan, lãng mạn, tin tưởng hướng đến tương lai.
Bài thơ Ánh trăng:
– Ánh trăng trở thành người bạn thân thiết, gắn bó cùng con người, luôn đồng cam cộng khổ và chia sẻ cùng họ mọi nỗi niềm trên chặng đường hành quân cũng như trong cuộc sống. Hình ảnh so sánh, ẩn dụ “trần trụi với thiên nhiên’, “hồn nhiên như cây cỏ”: gợi lên vẻ đẹp bình dị, trong sáng của vầng trăng. Như vậy, vầng trăng hiện diện như hình ảnh của quá khứ với những kí ức chan hòa, tình nghĩ và thủy chung.
– Ánh trăng đồng hành cùng con người từ quá khứ đến hiện tại. Trăng tượng trưng cho vẻ đẹp của quá khứ nghĩa tình, trọn vẹn dù lòng người có đổi thay.
→ Trăng tượng trưng cho quá khứ vẹn nguyên chẳng thể phai mờ, là người bạn, là nhân chứng nghĩa tình mà nghiêm khắc nhắc nhở nhà thơ và cả mỗi chúng ta. Con người có thể vô tình, có thể lãng quên nhưng thiên nhiên, nghĩa tình quá khứ thì luôn tròn đầy, bất diệt. Mặc cho con người vô tình, “trăng cứ tròn vành vạnh”, không thay đổi gì. Đó là vẻ đẹp tự nó và mãi mãi vĩnh hằng. Đó còn là hình ảnh tượng trưng cho vẻ đẹp và những giá trị truyền thống.
- Kết bài:
ở hai bài thơ, tuy cách biểu đạt và tư tưởng có phần khác nhau nhưng đều ca ngợi những vẻ đẹp ẩn sau vẻ bình dị, dịu hiền của vầng trăng. Vầng trăng mang nhiều tầng nghĩa, chứa đựng những giá trị triết lí sâu sắc. Nó không chỉ là một vầng trăng đơn thuần giữa bầu trời đêm mà gợi cho chúng ta về đạo lí sống ở đời, hãy sống ân nghĩa thủy chung với quá khứ, đừn vì những thứ mới mẻ mà vọi quên đi quá khứ nghĩa tình.
Xem thêm: