Tài liệu ôn tập luyện thi Tốt nghiệp quốc gia môn Ngữ văn.
A. HỆ THỐNG CÁC KIẾN THỨC SỬ DỤNG TRONG CHUYÊN ĐỀ
I. KHÁI LUẬN CHUNG VỀ LOẠI THỂ VĂN HỌC.
1. Khái niệm loại thể văn học.
– Loại thể văn học là: Phạm trù phân loại các tác phẩm văn học, vốn đa dạng đồng thời có sự giống nhau, từng nhóm một, về một số dấu hiệu nhất định. Các nhóm lớn nhất là những “loại”; mỗi loại gồm những nhóm nhỏ hơn là những thể (hoặc “thể loại”, “thể tài”)(Lại Nguyên Ân; 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 1999, tr.190).
2. Các loại thể văn học.
Các tác phẩm dạy và học ở trường phổ thông có bốn loại lớn là: tự sự, trữ tình, kịch và nghị luận.
– Các tác phẩm thơ (trữ tình) chiếm một khối lượng lớn trong chương trình trung học phổ thông, là phần kiến thức hết sức quan trọng trong cấu trúc đề thi đại học, thi THPTQG của Bộ Giáo dục và Đào tạo những năm gần đây. Vì vậy việc dạy học thơ bám sát đặc trưng thi pháp loại thể là một yêu cầu cấp bách. Nói như giáo sư Trần Đình Sử: “Muốn xác lập hệ thống các phương pháp dạy học ngữ văn trước tiên chúng ta cần xác định nội dung môn học, xác định các hoạt động cơ bản để đạt được kết quả của môn học, rồi từ đó mà xác định các phương pháp cụ thể đặc thù của bộ môn. Phương pháp dạy học ngữ văn phụ thuộc vào đặc trưng của bộ môn và đặc trưng loại thể”.
II. NHỮNG VẤN ĐỀ THEN CHỐT KHI KHAI THÁC PHẦN CÁC TÁC PHẨM THƠ GIAI ĐOẠN 1945 – 1975.
1. Đặc trưng của thơ và phương pháp đọc hiểu tác phẩm thơ.
a. Quan niệm và phân loại.
– Thơ là gì? Cho đến nay, đã có hàng trăm định nghĩa, quan niệm khác nhau về thơ, nhưng rất hiếm định nghĩa đủ sức bao quát được tất cả mọi đặc trưng của thể loại này. Quan niệm dưới đây của nhóm tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi có thể xem là đầy đủ nhất: “Thơ là hình thức sáng tác văn học phản ánh cuộc sống, thể hiện những tâm trạng, những cảm xúc mạnh mẽ bằng ngôn ngữ hàm súc, giàu hình ảnh và nhất là có nhịp điệu” (Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb ĐHQG, H, 1999).
– Các thể thơ Việt Nam có thể phân loại thành 3 nhóm chính:
+ Các thể thơ dân tộc: lục bát, song thất lục bát, hát nói.
+ Các thể thơ Đường luật: ngũ ngôn, thất ngôn (tứ tuyệt, bát cú).
+ Các thể thơ hiện đại: năm tiếng, bảy tiếng, tám tiếng, hỗn hợp. tự do, thơ – văn xuôi…
Các bài thơ được tìm hiểu trong chuyên đề thuộc nhóm các thể thơ hiện đại.
b. Đặc trưng của thơ.
– Thơ là một thể loại văn học thuộc phương thức biểu hiện trữ tình. Thơ tác động đến người đọc bằng sự nhận thức cuộc sống, những liên tưởng, tưởng tượng phong phú, yếu tố trữ tình giữ vai trò cốt lõi trong tác phẩm. Thơ là tiếng nói của tình cảm con người, những rung động của trái tim trước cuộc đời. Thơ chú trọng đến cái đẹp, phần thi vị của tâm hồn con người và cuộc sống khách quan. Lê Quý Đôn từng khẳng định: “Thơ phát khởi từ lòng người ta”, hay như nhà thơ Tố Hữu đã viết: “Thơ chỉ tràn ra khi trong tim ta cuộc sống đã ứ đầy”. Nhà thơ Pháp Alfret de Mussé chia sẻ: “Hãy biết rằng chính quả tim ta đang nói và thở than lúc bàn tay đang viết”, “nhà thơ không viết một chữ nào nếu cả toàn thân không rung động”. Nhưng tình cảm trong thơ không tự nhiên mà có. Nói về điều này, nhà văn M. Gorki cũng cho rằng: “Thơ trước hết phải mang tính chất tình cảm. Tình cảm trong thơ gắn trực tiếp với chủ thể sáng tạo nhưng không phải là một yếu tố đơn độc, tự nó nảy sinh và phát triển. Thực ra đó chính là quá trình tích tụ những cảm xúc, những suy nghĩ của nhà thơ do cuộc sống tác động và tạo nên. Không có cuộc sống, không có thơ”.
– Thơ không chỉ là cảm xúc mà cần cả lí trí. Đó là chiều sâu của nhận thức. Nếu thơ chỉ thiên về cảm xúc, bài thơ sẽ thiếu chất trí tuệ, thiếu sự suy tưởng triết lí mang tính khái quát về cuộc sống.
– Nhân vật trữ tình (cũng gọi là chủ thể trữ tình, cái tôi trữ tình) là người trực tiếp cảm nhận và bày tỏ niềm rung động trong thơ trước sự kiện. Nhân vật trữ tình là cái tôi thứ hai của nhà thơ, gắn bó máu thịt với tư tưởng, tình cảm của nhà thơ. Tuy vậy, không thể đồng nhất nhân vật trữ tình với tác giả.
– Những tác phẩm thơ chân chính bao giờ cũng bắt nguồn từ thực tại và mang ý nghĩa khái quát về con người, về cuộc đời, về nhân loại, đó là cầu nối dẫn đến sự đồng cảm giữa người với người trên khắp thế gian này. Thơ thường không trực tiếp kể về sự kiện, nhưng bao giờ cũng có ít nhất một sự kiện làm nảy sinh rung động thẩm mĩ mãnh liệt trong tâm hồn nhà thơ mà văn bản thơ là sự thể hiện của niềm rung động ấy.
– Thơ thường có dung lượng câu chữ ngắn hơn các thể loại khác (tự sự, kịch). Hệ quả là nhà thơ biểu hiện cảm xúc của mình một cách tập trung hơn thông qua hình tượng thơ. Cảm xúc dồn nén, nhiều khi, cảm xúc vượt ra ngoài cái vỏ chật hẹp của ngôn từ, cho nên mới có chuyện “ý tại ngôn ngoại”. Do đó, thơ tạo điều kiện cho người đọc thực hiện vai trò “đồng sáng tạo” để phát hiện đời sống, khiến người đọc phải suy nghĩ, trăn trở để tìm kiếm ý đồ nghệ thuật của tác giả cũng như những điểm đặc sắc trong tư duy nghệ thuật của mỗi nhà thơ.
– Mỗi bài thơ là một cấu trúc ngôn ngữ đặc biệt. Sự sắp xếp các dòng thơ, câu thơ, khổ thơ, đoạn thơ làm nên một hình thức có tính tạo hình. Đồng thời, sự hiệp vần, xen phối bằng trắc, cách ngắt nhịp vừa thống nhất vừa biến hóa tạo nên tính nhạc điệu. Hình thức ấy làm nên vẻ đẹp nhịp nhàng, trầm bổng, luyến láy của văn bản thơ. Ngôn ngữ thơ chủ yếu là ngôn ngữ của nhân vật trữ tình, là ngôn ngữ hình ảnh, biểu tượng. Ý nghĩa mà văn bản thơ muốn biểu đạt thường không được thông báo trực tiếp, đầy đủ qua lời thơ, mà do tứ thơ, giọng điệu, hình ảnh, biểu tượng thơ gợi lên. Do đó ngôn ngữ thơ thiên về khơi gợi, giữa các câu thơ có nhiều khoảng trống, những chỗ không liên tục gợi ra nhiều nghĩa, đòi hỏi người đọc phải chủ động liên tưởng, tưởng tượng, thể nghiệm thì mới hiểu hết sự phong phú của ý thơ bên trong.
– Ngôn ngữ thơ có 3 đặc trưng cơ bản là tính chính xác, tinh luyện, tính hình tượng và tính biểu cảm. Thơ phát huy tính nhạc phong phú của tiếng Việt. Thơ là thơ nhưng thơ còn có màu sắc, đường nét của hội hoạ, thanh âm của âm nhạc và hình khối của chạm khắc (điêu khắc). Nhà thơ phải có phong cách nghệ thuật độc đáo. Mỗi nhà thơ sẽ có cách tiếp cận, sử dụng riêng vốn ngữ toàn dân, ngôn ngữ bác học, ngôn ngữ nghệ thuật để đưa vào bài thơ. Nhà thơ còn được gọi là “phu chữ”. Maiacôpxki đã từng viết:
Nhà thơ trả chữ
Với giá cắt cổ
Như khai thác
Chất hiếm “rađiom”
Lấy một gam
Phải mất hàng năm lao lực
Lấy một chữ
Phải mất hàng tấn quặng ngôn từ.
– Và thơ ca khi trở lại với con người và cuộc sống sẽ góp phần làm cho tiếng Việt ngày thêm giàu có, trong sáng. “Khác với văn xuôi, thơ ca chỉ dùng một lượng hữu hạn các đơn vị ngôn ngữ để biểu hiện cái vô hạn của cuộc sống bao gồm các sự kiện tự nhiên và xã hội cũng như những điều thầm kín trong tâm linh con người” (Hữu Đạt). “Ngôn ngữ là thứ của cải vô cùng quý báu và lâu đời của dân tộc” (Bác Hồ).
– Từ những đặc trưng của thơ, thi sĩ Sóng Hồng có viết: “Thơ là một hình thái nghệ thuật cao quý, tinh vi. Người làm thơ phải có tình cảm mãnh liệt thể hiện sự nồng cháy trong lòng. Nhưng thơ là có tình cảm, lí trí kết hợp một cách nhuần nhuyễn và có nghệ thuật. Tình cảm và lí trí ấy được diễn đạt bằng những hình tượng đẹp đẽ qua những lời thơ trong sáng vang lên nhạc điệu khác thường”.
c. Yêu cầu và phương pháp đọc hiểu tác phẩm thơ.
– Chúng ta biết rằng một tác phẩm thơ là công trình nghệ thuật mà nhà thơ mất bao công sức, bao trải nghiệm để sáng tạo nên. Nó thật sự có giá trị khi mang ý nghĩa đời sống, ảnh hưởng sâu sắc đến tâm tư tình cảm, nhận thức của con người. Khi đọc hiểu tác phẩm thơ, chúng ta cần tiến hành theo các bước sau đây:
– Cần biết rõ tên bài thơ, tên tác giả, thời gian và hoàn cảnh sáng tác, đó là cơ sở ban đầu để tiếp cận tác phẩm.
– Đọc và quan sát bước đầu để nắm chắc bài thơ. Qua việc đọc, phải xác định được chủ đề, chủ thể trữ tình (chủ thể trữ tình thường xuất hiện ở hai dạng: cái tôi trữ tình và chủ thể trữ tình ẩn), đối tượng trữ tình, hình tượng trữ tình và giọng điệu chủ đạo của bài thơ.
– Cảm nhận nội dung, ý nghĩa bài thơ qua câu chữ, hình ảnh, nhịp điệu, kết cấu, các biện pháp tu từ,…
– Lí giải, đánh giá toàn bộ bài thơ cả về hai phương diện nội dung và nghệ thuật. Đặc biệt là phải chỉ ra những đóng góp của tác giả (phong cách tác giả thể hiện qua tác phẩm) cho thơ và cho cuộc sống con người.
– Có cái nhìn liên tưởng, so sánh giữa các bài thơ, tác giả thơ (cùng viết về một chủ đề, hình tượng cùng thời…) để giải quyết được những đề văn tổng hợp hoặc mang tính lí luận về thơ.
– Đọc hiểu tác phẩm thơ là một công việc khó khăn bởi phải huy động vốn kiến thức về nhiều mặt (lịch sử xã hội, lịch sử văn học, xã hội học, tâm lí học…). Nhưng có kiến thức chưa đủ, còn phải có cả khả năng cảm thụ, tức là cần có sự nhạy bén về tình cảm, cảm xúc trước cái đẹp văn chương. Ngoài ra còn phải nắm được phương pháp tiếp cận tác phẩm thơ theo loại thể, phương pháp phân tích các khía cạnh của tác phẩm thơ và đặt nó trong mối quan hệ đa chiều với nhiều đơn vị kiến thức có liên quan.
– Một bài thơ hay không dễ gì ta cảm nhận được ngay. Đọc rồi, đọc nữa, suy ngẫm, liên tưởng ta mới nhận ra thứ ánh sáng, màu sắc, hương thơm man mác bên trong hình tượng thơ. Chẳng thế mà nhà thơ Hoàng Đức Lương đã rất đề cao nàng thơ: “Đối với thơ ca, người xưa thường ví với nem chả, hoặc ví với gấm vóc. Nem chả là vị rất ngon ở đời, gấm vóc là mầu rất đẹp ở đời. Phàm người có miệng, có mắt, ai cũng quý trọng, mà không vứt bỏ khinh thường. Có điều là: sắc đẹp của thơ lại ở ngoài mọi sắc đẹp, mắt thường không thấy được; cũng vậy, vị ngon của thơ lại ở ngoài mọi vị ngon, miệng thường không nếm thấy. Chỉ có thi nhân mới có thể thấy được sắc đẹp đó, nếm được vị ngon đó”… Hay như Sóng Hồng viết: Thơ là nghệ thuật kỳ diệu bậc nhất của trí tưởng tượng. Vì vậy để viết được bài thơ hay nhà thơ không thể không khổ công đi tìm ý, tứ, câu, chữ và bao yếu tố khác trong thơ và ngoài thơ.
– Giá trị và sức sống của tác phẩm thơ phụ thuộc rất nhiều vào khả năng cảm thụ của người tiếp nhận. Nhà thơ Môsac từng quan niệm: “Tác phẩm thực ra chỉ được tạo thành bởi những kí hiệu câm lặng, những ngôn ngữ chết, cho nên bản thân nó chưa có giá trị gì, nếu có cũng chỉ là đôi chút. Cái quan trọng là vai trò của người đọc. Chính bạn đọc sẽ tạo nên giá trị cho tác phẩm…”. Ông cũng khẳng định: “không có bạn đọc thì không chỉ có sách của chúng ta mà cả những tác phẩm của Hôme, Đăngtơ, Puskin, Đôxtôiepxki… tất cả chỉ là đống giấy chết”. Bởi vậy nhân tố độc giả có vai trò đặc biệt trong đời sống văn học. Vì thế, mỗi học sinh phải thấy được vai trò quan trọng của mình – trong tư cách người tiếp nhận tác phẩm thơ. Trong dạy học tác phẩm văn học nói chung cũng như tác phẩm thơ trữ tình nói riêng, quá trình tiếp nhận tác phẩm trở thành quá trình “đồng sáng tạo”.
2. Điều kì diệu của thơ và một số nhận định hay về thơ.
a. Điều kì diệu của thơ.
– Thơ ca bắt rễ từ lòng người và nở hoa nơi từ ngữ. Sau câu thơ hồi hộp những tâm tình (Chế Lan Viên). Thơ là một trong những loại hình kỳ diệu nhất, “cõi thơ là cõi bồng phiêu” (Bùi Giáng). Đi tìm bản thể của thơ luôn là một hành trình đầy bí ẩn. Chính vì lẽ đó, ở bất cứ nền văn học nào, việc kiến tạo hệ thống quan niệm lý luận về thơ là vấn đề lý thuyết vô cùng quan trọng, góp phần định hướng cho việc nghiên cứu và sáng tác thi ca.
– Thơ ca hai chữ kì diệu mà muôn đời vẫn chưa tìm ra một định nghĩa vẹn tròn, hoàn chỉnh: Thơ là gì? Thơ bắt nguồn từ đâu? Thơ có mãnh lực gì khiến hàng ngàn tâm hồn rung động, hàng triệu trái tim thuần khiết thổn thức?
– “Thơ ca là sự hiện thân cho những gì thầm kín nhất của con tim, thiêng liêng nhất của tâm hồn con người và cho những hình ảnh tươi đẹp nhất, âm thanh huyền diệu nhất trong thiên nhiên” (Lacmactin). Những người nghệ sĩ luôn là người nhạy cảm với những vòng quay của cuộc sống, những điều kì diệu xảy ra xung quanh. Những con người đó luôn hoà vào cuộc sống, bằng con mắt tinh tế của mình và bằng nguồn cảm hứng bất tận của cuộc sống, họ đã tìm ra những gì tinh tuý nhất từ cuộc sống để làm nên thơ ca. Chính vì vậy mà thơ là tiếng nói hồn nhiên nhất của tâm hồn con người trước cuộc đời, trước những gì diễn ra xung quanh mình, là tiếng nói của tâm hồn con người trước con người và trời đất. Thơ mang những cung bậc cảm xúc bắt rễ từ chính cuộc đời, hút những tinh chất từ cuộc đời, là lăng kính chủ quan, cầu nối giữa nghệ thuật và đời sống.
– Thơ là biểu hiện của con người và thời đại một cách cao đẹp. Đó là những viên kim cương lấp lánh dưới ánh mặt trời. Thơ là nơi những tình cảm nơi sâu thẳm trái tim người nghệ sĩ được bộc lộ: những suy nghĩ, những trăn trở và những gì trải nghiệm, đang khát khao hướng tới. Thơ ca trước hết là kết tinh đẹp nhất của cảm xúc, vừa mơ hồ khó tả lại đẹp đến xao lòng. Thơ gắn bó với đời sống, là cuộc đời. Thơ đi qua lăng kính chủ quan và phản ánh nỗi niềm của cuộc đời. Cuộc sống bao giờ cũng là nguồn cảm hứng mênh mông bất tận của những tâm hồn nghệ sĩ. Thơ ca cũng như văn chương và các loại hình nghệ thuật khác, nếu không bén rễ vào cuộc đời, không hút nguồn nhựa sống dạt dào ngầm chảy trong lòng cuộc sống thì nó sẽ mãi mãi là một cây non èo uột, không mang trên mình những cành cây săn chắc, những phiến lá xanh tươi phơi phới dưới ánh nắng mặt trời. Ngòi bút của nhà thơ phải chấm vào nghiên mực cuộc đời thì những vần thơ mới tươi màu, neo chặt trong bến tâm hồn người thưởng thức. Cuộc đời vốn bao la, vô tận như một bức tranh với ba chiều không gian trải rộng đến vô cùng. Nhà thơ cũng như những con ong cần mẫn bay lượn trong những khu rừng cuộc đời ấy, như Chế Lan Viên đã từng viết:
“Nhà thơ như con ong biến trăm hoa thành một mật
Một mật ngọt thành, đòi vạn chuyến ong bay”.
– Thơ ca “là cuộc đời”, nhưng thơ ca không phải là những trang giấy in nguyên vẹn hình bóng của cuộc đời rộng lớn. “Thơ ca là hoa thơm của cuộc đời. Nếu chỉ tạo được từ trí tưởng tượng và cái tôi nhỏ bé của người nghệ sĩ thì thơ ca chỉ là những bông hoa làm bằng vỏ bào” (Pauxtôpxki). Nếu thơ là cánh diều, cuộc đời làm nên hình hài cho thơ thì nghệ thuật lại là cơn gió nâng cánh diều tung bay. Nếu thơ là đoá hướng dương, những gì tinh tuý của đất làm nên sức sống cho bông hoa thì ánh sáng mặt trời nghệ thuật làm nên điều kì diệu của bông hoa đó. Thơ đơn thuần không chỉ có cuộc đời, nếu thiếu nghệ thuật thì thơ trở thành một hòn ngọc thô ráp chưa được mài giũa: “Ngọc kia chẳng giũa chẳng mài. Cũng thành vô dụng cũng hoài ngọc đi” (tục ngữ).
– Thơ ca cất cánh từ biển cuộc đời và bay cao từ nguồn gió nghệ thuật. Nghệ thuật làm cho thơ trở nên đẹp đẽ, gieo vào lòng người đọc những cảm xúc thẩm mĩ tuyệt vời. Chính nghệ thuật là phương tiện biểu hiện của thơ ca, giúp hoàn chỉnh thêm ý niệm về nghệ thuật, về đặc trưng của thơ ca. Jacques Roubaud, một nhà thơ đương đại hàng đầu của Pháp đã nói: “Thơ là ký ức bằng con số và nhịp điệu của ngôn ngữ”. Khác với văn xuôi, thơ là sự đồng điệu giữa những nhịp đập của ngôn từ và sự dao động của tâm hồn. “Thơ là tiếng nói đầu tiên, tiếng nói thứ nhất của tâm hồn khi động chạm tới cuộc sống. Văn xuôi lôi cuốn người như dòng nước, đưa ta đi từ điểm này qua điểm khác. Thơ chỉ chọn ít điểm chính, bấm vào những điểm ấy thì toàn thể động lên theo. Thơ là tổng hợp, kết tinh. Văn xuôi cho phép không mười phần hoàn hảo, nhưng thơ thì luôn luôn đòi hỏi sự toàn bích” (Nguyễn Đình Thi). Thơ có vần, có điệu. Thơ ẩn chứa những cảm xúc tiềm tàng của thi sĩ mà văn xuôi không thể có. Nghệ thuật chính là cái khám phá ra những cảm xúc đó, là cái đẹp của thi ca được nuôi dưỡng trên mảnh đất hiện thực. Mỗi bài thơ, mỗi thi sĩ lại có bút pháp nghệ thuật riêng tô đậm lên vẻ đẹp của thơ ca.
– Thơ ca khơi dậy trong con người những cảm xúc thẩm mĩ tuyệt đẹp, thanh lọc tâm hồn con người, chắp cánh cho họ bay tới những ước mơ, khát vọng. Với hệ thống nhịp điệu, cách gieo vần, ngôn từ trong thơ ca hàm súc, cô đọng, yếu tố nhạc hoạ sử dụng đan xen, thơ là cuộc đời, là tình cảm nhưng không tách rời nghệ thuật. Mỗi tác phẩm là một chỉnh thể nghệ thuật được tạo nên từ sự thống nhất của hai yếu tố nội dung và hình thức biểu hiện. Trong đó nội dung bao giờ cũng đóng vai trò quyết định việc lựa chọn hệ thống các phương tiện biểu hiện của người viết.
– Thơ là dòng sông soi bóng hình cuộc đời, len vào trong tâm hồn con người những mạch ngầm cảm xúc dào dạt chảy mãi không thôi. Nhà thơ phải yêu “cuộc đời” và trân trọng “nghệ thuật” mới vun đúc những vần thơ nở ra cánh hoa thơm ngát tô điểm cho cuộc đời và con người. “Giá trị của một tác phẩm nghệ thuật trước hết là ở giá trị tư tưởng của nó, là tư tưởng đã được rung lên ở các cung bậc của tình cảm, chứ không phải tư tưởng nằm thẳng đơ trên trang giấy”(Nguyễn Khải) . Thơ trước hết chính là cuộc đời và sau đó mới là nghệ thuật. Ý kiến của Bêlinxki là hoàn toàn chính xác, mang sức nặng của sự trải nghiệm cuộc đời gắn với nghiệp thi ca. Nhà thơ là người sống giữa cuộc đời phải biết mở lòng ra đón lấy những vang dội của cuộc đời, đối mặt với hiện thực cuộc sống và hiểu biết sâu sắc về nghệ thuật.
Giúp học sinh hiểu dược điều kì diệu của thơ nghĩa là người giáo viên đã thắp được ngọn lửa tình yêu văn chương ở mỗi học sinh.
b. Một số nhận định hay về thơ.
- “Thơ ca là niềm vui cao cả nhất mà loài người đã tạo ra cho mình” (Các Mác).
- “Thơ là bà chúa của nghệ thuật” (Xuân Diệu).
- “Thơ là cái nhụy của cuộc sống, nên nhà thơ phải đi hút cho được cái nhụy ấy và phấn đấu làm sao cho cuộc đời của mình cũng có nhụy” (Phạm Văn Đồng).
- “Thơ chỉ bật ra trong tim ta khi cuộc sống đã tràn đầy” (Tố Hữu).
- “Thơ cốt ở ý, ý có sâu xa thơ mới hay. Không phải bất cứ điều gì cũng phải nói ra bằng thơ. Như thế mới là thơ có giá trị” (Lê Hữu Trác).
- “Làm thơ có ba điểm chính: một là tình, hai là cảnh, ba là sự. Trong lòng có cảm xúc thực sự, rung cảm nên lời. Thực tế bên ngoài gây thành ý, rồi dùng điển tích để nói việc ngày nay, chép việc xưa hay thuật chuyện hiện tại, đều tự nhiên có tinh thần” (Lê Quý Đôn).
- Thơ mà quá cầu kỳ thì sa vào giả dối, quá trau chuốt thì sa vào xảo trá, hoang lương hiu hắt thì phần nhiều sa vào buồn bã. Chỉ có thuần hậu, giản dị, thẳng thắng, không giả dối, không xảo trá, không buồn bã mà rốt cuộc chú trọng đến sự ngăn chặn điều xấu, bảo tồn điều hay, mới là những đặc sắc chính của thơ” (Ngô Thì Nhậm)
- “Làm người thì quý thẳng nhưng làm thơ thì quý cong. Làm người thì không nên có cái tôi nhưng làm thơ nhất định phải có cái tôi” (Viên Mai).
- “Thơ là ảnh, là nhân ảnh, thơ cũng ở loại cụ thể hữu hình. Nhưng nó khác với cái cụ thể của văn. Cũng mọc lên từ cái đống tài liệu thực tế, nhưng từ một cái hữu hình nó thức dậy được những vô hình bao la” (Nguyễn Tuân).
- Thơ phải xuất phát từ thực tại, từ đời sống, nhưng phải đi qua một tâm hồn, một trí tuệ và khi đã đi qua như vậy, tâm hồn, trí tuệ ấy phải in dấu vào đó thật sâu sắc, càng cá thể, càng độc đáo, càng hay, thơ là tiếng gọi đàn, là sự đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu của những con người (Xuân Diệu).
- “Thơ ca là tri thức đầu tiên và cuối cùng – nó bất diệt như trái tim con người”. (William Wordsworth).
- “Thi ca là một tôn giáo không kì vọng”. (Jean Cocteau).
- “Thơ là âm nhạc của tâm hồn, nhất là những tâm hồn cao cả, đa cảm”. (Voltaire).
- “Thơ là viên kim cương lấp lánh dưới ánh mặt trời”. (Sóng Hồng).
- “Thơ là thần hứng. (Platon).
c. Một số nhận định hay về tác giả, tác phẩm thơ giai đoạn 1945 – 1975
- Thiên nhiên Tây bắc qua ngòi bút Quâng Dũng được cảm nhận với vẻ đẹp vừa đa dạng, vừa độc đáo, vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, hoang sơ mà ấm áp (Bình giảng VHVN)
- Tây Tiến là bài thơ nổi tiếng nhất của Quang Dũng. Anh bước vào làng thơ cách mạng với bài thơ ấy. Như có mối duyên ràng buộc, bài thơ gắn bó với người làm ra nó đến mức cứ nói đến Quang Dũng là người ta nhắc ngay đến bài Tây Tiến và ngược lại (
- Tây Tiến là một bài thơ có giá trị về tư tưởng, về nghệ thuật. Bài thơ được viết ra với những màu sắc thẩm mĩ phong phú (Hà Minh Đức)
- Tây Tiến là đoá hoa thơ vào loại đẹp nhất của thơ ca những năm kháng chiến chống thực dân Pháp/ Tây Tiến là thứ quả lạ trái mùa, một “lệch chuẩn” tài hoa(Đỗ Kim Hồi)
- Đọc Tây Tiến như ngậm âm nhạc trong miệng(Xuân Diệu).
- Tây Tiến biên cương mờ lửa khói / Quân đi lớp lớp động cây rừng / Và bài thơ ấy co người ấy / Sống mãi muôn đời với núi sông (Giang Nam)
- Quang Dũng đã đem tượng đài người lính Tây Tiến đặt giữa ngàn non ngàn mây, ngàn cây Tây Bắc. Bởi vậy lời thơ như âm u vọng mãi tiếng gọi hoang sơ của núi rừng và mỗi khi nhắc đến một tên đất, tên mường, hồn thơ Quang Dũng lại rộn rã, phiêu du nhịp lên tiếng gọi đàn thăm thẳm. (Nguyễn Đình Thi).
- Bút pháp của Quang Dũng thích tung hoành trong một biên độ rất rộng, giữa những nét khoẻ khoắn dữ dằn và những nét tinh vi, e ấp” (Vũ Quần Phương)
- Việt Bắc là một trong những đỉnh cao thơ Tố Hữu, cũng là một trong những thi phẩm xuất sắc của Việt Nam thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp.Sức thu hút của thơ Tố Hữu là chất men say lí tưởng và tính dân tộc đậm đà (SGV Ngữ văn 12 nâng cao tập 1)
- Thái độ toàn tâm, toàn ý với cách mạng là nguyên nhân chính làm nên thành công của thơ anh (Hoài Thanh)
- Thơ Tố Hữu là thơ cách mạng, chứ không phải thơ tình yêu…Nhưng thơ anh là thơ của một tình nhân, anh nói các vấn đề bằng trái tim của một người say đắm. Cái sức mạnh lớn nhất của Tố Hữu là quả tim anh (Chế Lan Viên).
- Trọn đời, Tố Hữu là một chiến sĩ cách mạng làm thơ và là nhà thơ cách mạng và trong lửa của thơ anh có biết bao nhiêu yêu thương dịu dàng với đất nước quê hương và đối với những con người của đất nước quê hương. từ cuộc sống hiện đại, thơ anh ngày càng bắt nguồn trở lại vào hồn thơ cổ điển của dân tộc (Báo văn nghệ số 50 ngày 14/12/2002- nhân ngày mất của Tố Hữu).
- Được xem là một trong những người viết thơ tình hay nhất trong nền thơ Việt Nam từ sau Cách mạng, Xuân quỳnh đem đến cho bạn đọc một tình yêu vừa nồng nhiệt, táo bạo, vừa tha thiết, dịu dàng, vừa giàu trực cảm vừa lắng sâu những trải nghiệm, suy tư (SGV Ngữ văn 12 nâng cao tập 1).
- Dù viết về tình yêu đôi lứa hay tình yêu Tổ quốc, về thế giới trẻ thơ hồn nhiên, trong trắng hay những quan hệ nhân sinh muôn vẻ, thơ Xuân Quỳnh vẫn nổi bật ở vẻ đẹp nữ tính (SGV Ngữ văn 12 nâng cao tập 1)
- Xuân Quỳnh đã triệt để tận dụng lối tổ chức theo nguyên tắc tương xứng, hô ứng, trùng điệp. Nhất là việc tạo ra các cặp từ, các vế câu, các cặp câu, thậm chí ngay cả các khổ thơ cũng hình thành các cặp đi liền kề, kế tiếp luân phiên đắp đổi nhau về bằng – trắc nữa (Chu Văn Sơn).
- Thơ Nguyễn Khoa Điềm… có sức liên tưởng mạnh. Anh thường dẫn người đọc đi từ quá khứ đến tương lai, từ khổ đau đến hạnh phúc, từ sách vở đến đời sống (Nguyễn Xuân Nam).
- Thơ ca Nguyễn Khoa Điềm chứa đựng nhiều chất liệu văn học và văn hoá dân gian. Câu thơ dù ở thể thơ truyền thống hay thơ tự do bao giờ cũng phảng phất phong vị của ca dao, tục ngữ. Chất hiền minh của trí tuệ dân gian thấm đẫm trong từng từ. (Nguyễn Xuân Nam)
- Vì khi làm nông nghiệp, số phận nhân dân đã gắn chặt với số phận dòng sông. Vậy thì văn hoá ắt phải mang gương mặt dòng sông (Tâm sự của Nguyễn Khoa Điềm)
- Ý tưởng xuyên suốt của tôi trong chương này là thể hiện một Đất nước của nhân dân, do đó, từ ngữ, hình ảnh, chất liệu thơ được sử dụng đều nhằm làm rõ ý tưởng này (Tâm sự của Nguyễn Khoa Điềm).
- Chính chiều sâu của những giá trị văn hóa đã tạo nên nét phong cách riêng làm nên gương mặt thơ Nguyễn Khoa Điềm (Nguyễn Xuân Nam )
3. Cần nhìn nhận các tác phẩm thơ được tìm hiểu trong chuyên đề trong sự gắn bó với các đặc điểm cơ bản của Văn học Việt Nam từ Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến 1975.
– Nền văn học vận động chủ yếu theo hướng cách mạng hóa, gắn bó sâu sắc với vận mệnh chung của đất nước.
– Nền văn học hướng về đại chúng.
– Nền văn học chủ yếu mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn.
4. Phong cách nghệ thuật của nhà thơ.
– Phong cách nghệ thuật của nhà thơ thể hiện tài nghệ của người nghệ sĩ ngôn từ trong việc đem đến cho người đọc một cái nhìn mới mẻ chưa từng có về cuộc sống, con người thông qua những hình tượng nghệ thuật độc đáo và những phương thức, phương tiện thể hiện đặc thù mang đậm dấu ấn cá nhân của chủ thể sáng tạo. Biểu hiện phong cách nghệ thuật của nhà thơ:
+ Cách nhìn, cách cảm thụ giàu khám phá nghệ thuật.
+ Nét riêng trong lựa chọn, xử lí đề tài, xác định chủ đề.
+ Giọng điệu riêng biệt của tác phẩm.
+ Sử dụng các thủ pháp nghệ thuật mang đậm dấu ấn riêng (thống nhất, ổn định trong sử dụng các phương thức và phương tiện nghệ thuật).
– Phong cách nghệ thuật của nhà thơ không phải qua một tác phẩm là có thể nhận thấy ngay, nó in dấu một cách ổn định trên hệ thống các sáng tác của người nghệ sĩ. Vì thế phần tiểu dẫn cho một văn bản thơ bao giờ cũng giới thiệu phong cách tác giả của nó. Người học khi khai thác tác giả/tác phẩm cần nắm được đặc điểm này để soi chiếu, đánh giá sâu nội dung, nghệ thuật, vị trí của tác phẩm, nét độc đáo của nó so với những tác giả / tác phẩm khác.
Học sinh cần nắm chắc phong cách nghệ thuật của một số nhà thơ có tác phẩm được dạy trong chuyên đề (theo bảng sau):
STT | Nhà thơ | Tên tác phẩm thơ | Nét riêng trong phong cách nghệ thuật của nhà thơ |
1 | Quang Dũng | Tây Tiến | Một nhà thơ mang hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và hào hoa. |
2 | Tố Hữu | Việt Bắc | Thơ Tố Hữu là: thơ trữ tình chính trị; mang đậm tính sử thi; giọng điệu tâm tình, ngọt ngào; đậm đà tính dân tộc trong nội dung và hình thức biểu hiện. |
3 | Xuân Quỳnh | Sóng | Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của một tâm hồn phụ nữ nhiều trắc ẩn, vừa hồn nhiên tươi tắn, vừa chân thành, đằm thắm và luôn da diết trong khát vọng về hạnh phúc bình dị đời thường. |
4 | Nguyễn Khoa Điềm | Đất Nước(Trích) | Thơ ông hấp dẫn bởi sự kết hợp giữa cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng của người trí thức về đất nước, con người Việt Nam. |
5/ Cách làm kiểu đề so sánh văn học (các khía cạnh của tác phẩm thơ)
– Đây là một kiểu bài mới, chưa được cụ thể hóa thành một bài học riêng trong chương trình Ngữ văn bậc trung học phổ thông, do đó đã ảnh hưởng ít nhiều đến chất lượng làm bài của học sinh cũng như quá trình định hướng ôn tập cho học sinh từ phía giáo viên. Góp phần tháo gỡ những khó khăn trên, chúng tôi xin đưa ra một số gợi ý để cùng các em ôn tập, phục vụ cho bài thi Ngữ văn kì thi THPT quốc gia:
– Kiểu bài so sánh văn học về các khía cạnh của tác phẩm thơ thường yêu cầu học sinh so sánh trên nhiều bình diện: đoạn thơ, hình tượng thơ, phong cách nhà thơ thể hiện trong tác phẩm, nghệ thuật thể hiện, nội dung tư tưởng, cảm hứng… Quá trình so sánh có thể chỉ diễn ra ở các tác phẩm của cùng một tác giả, nhưng cũng có thể diễn ra ở những tác phẩm của các tác giả cùng hoặc không cùng một thời đại, giữa các tác phẩm của những trào lưu, trường phái khác nhau của một nền văn học. Mục đích cuối cùng của kiểu bài này là yêu cầu học sinh chỉ ra được chỗ giống và khác nhau giữa hai tác phẩm, hai tác giả… từ đó thấy được những mặt kế thừa, những điểm cách tân của từng tác giả, từng tác phẩm; thấy được vẻ đẹp riêng của từng tác phẩm; sự đa dạng muôn màu của phong cách nhà văn. Không dừng lại ở đó, kiểu bài này còn góp phần hình thành kĩ năng lí giải nguyên nhân của sự khác nhau giữa các hiện tượng văn học – một năng lực rất cần thiết góp phần tránh đi khuynh hướng “bình tán”, khuôn sáo trong các bài văn của học sinh hiện nay. Lẽ hiển nhiên, đối với đối tượng học sinh trung học phổ thông, các yêu cầu về năng lực lí giải cần phải hợp lí, vừa sức. Nghĩa là các tiêu chí so sánh cần có mức độ khó vừa phải, khả năng lí giải sự giống và khác nhau cũng cần phải tính toán hợp lí với năng lực của các em. Chuẩn kiến thức, chuẩn kĩ năng trong từng bài, từng cấp học sẽ là căn cứ để kiểm định những vấn đề này.
– Vì là một bài nghị luận nên bố cục một bài văn so sánh văn học cũng có 3 phần: mở bài, thân bài và kết bài. Tuy nhiên chức năng cụ thể của từng phần lại có những điểm khác biệt so với kiểu bài nghị luận về một tác phẩm, đoạn trích thơ hay nghị luận về một đoạn trích, tác phẩm văn xuôi.
– Đề so sánh về khía cạnh của tác phẩm thơ thường có các dạng cụ thể như: hỏi về điểm chung, hỏi về nét riêng, hỏi về cả điểm chung và nét riêng giữa các đối tượng.
Sau đây là dàn ý khái quát của kiểu bài so sánh yêu cầu học sinh làm rõ về cả điểm chung và nét riêng giữa hai đối tượng:
I. MỞ BÀI:
– Dẫn dắt vấn đề.
– Giới thiệu khái quát về các đối tượng so sánh.
II. THÂN BÀI:
1. Làm rõ đối tượng thứ nhất (bước này vận dụng kết hợp nhiều thao tác lập luận nhưng chủ yếu là thao tác lập luận phân tích).
2. Làm rõ đối tượng thứ 2 (bước này vận kết hợp nhiều thao tác lập luận nhưng chủ yếu là thao tác lập luận phân tích).
3. So sánh: nét tương đồng và khác biệt giữa hai đối tượng trên cả hai bình diện nội dung và hình thức nghệ thuật (bước này vận dụng kết hợp nhiều thao tác lập luận nhưng chủ yếu là thao tác lập luận phân tích và thao tác lập luận so sánh).
4. Lý giải sự khác biệt: thực hiện thao tác này cần dựa vào các bình diện: bối cảnh xã hội, văn hóa mà từng đối tượng tồn tại; phong cách nhà văn; đặc trưng thi pháp của thời kì văn học…(bước này vận nhiều thao tác lập luận nhưng chủ yếu là thao tác lập luận phân tích).
III. KẾT BÀI:
– Khái quát những nét giống nhau và khác nhau tiêu biểu.
– Có thể nêu những cảm nghĩ của bản thân.
Lưu ý:
– Trên đây là dàn ý khái quát nhất về kiểu đề so sánh hai đối tượng. Trong thực tế, đối tượng so sánh có thể nhiều hơn và trong một số trường hợp cụ thể, cách trình bày có thể sắp xếp các luận điểm khác đôi chút so với lí thuyết để đáp ứng tốt nhất yêu cầu của đề (yêu cầu người viết phải sáng tạo, không vận dụng máy móc).
– Việc xác lập nội hàm khái niệm kiểu bài, mục đích, yêu cầu, đến cách thức làm kiểu bài này cho học sinh là thực sự rất cần thiết.
B. HỆ THỐNG (PHÂN LOẠI, DẤU HIỆU NHẬN BIẾT ĐẶC TRƯNG) CÁC DẠNG BÀI TẬP ĐẶC TRƯNG CỦA CHUYÊN ĐỀ.
– Theo hướng dẫn của Bộ Giáo dục và Đào tạo, cấu trúc một đề Ngữ văn gồm có 2 phần: Phần I Đọc hiểu (3 điểm); Phần II Làm văn có 2 câu hỏi (câu 1- nghị luận xã hội chiếm 3 điểm, câu 2 – nghị luận văn học chiếm 4 điểm). Qua nghiên cứu nội dung bài học, chuyên đề của chúng tôi tập trung vào 6 dạng đề sau (các dạng để được sắp xếp khoa học theo quy luật nhận thức từ dễ đến khó):
1. Dạng đề đọc hiểu (5 đề).
2. Dạng đề nghị luận về một tư tưởng đạo lí đặt ra trong tác phẩm văn học (1 đề)
3. Dạng đề nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ (10 đề)
4. Dạng đề so sánh văn học (8 đề).
5. Dạng đề nghị luận về một (hoặc hai) ý kiến bàn về văn học (8 đề)
6. Dạng đề liên quan đến đặc trưng của thơ (11 đề- trong đó có 1 đề minh họa) và giới thiệu 12 bài tập nâng cao tự giải cho học sinh.
C. HỆ THỐNG CÁC PHƯƠNG PHÁP CƠ BẢN, ĐẶC TRƯNG ĐỂ GIẢI CÁC DẠNG BÀI TẬP.
– Phân loại đề theo cấu trúc đề thi THPTQG: Sau khi cung cấp cho các em hiểu những vấn đề then chốt, hệ thống các kiến thức sử dụng trong chuyên đề, giáo viên sẽ tiến hành soạn hệ thống câu hỏi theo các dạng trên và bám sát cấu trúc đề thi của Bộ Giáo dục và Đào tạo (hệ thống câu hỏi này sẽ được phát cho học sinh trước khi học chuyên đề 01 ngày để các em chuẩn bị và chủ động trong việc xử lí đề).
– Tổ chức ôn luyện hệ thống kiến thức cơ bản cần sử dụng trong chuyên đề.
– Phương pháp thảo luận nhóm, đàm thoại: Trong giờ học chuyên đề, giáo viên cho học sinh tự giải quyết vấn đề qua thảo luận nhóm (dùng các kĩ thuật dạy học tích cực mới như: kĩ thuật hội chợ, kĩ thuật khăn trải bàn, kĩ thuật mảnh ghép…). Cuối cùng, giáo viên nhận xét và kết luận. Như thế, học sinh sẽ phải tư duy và chủ động trong việc chiếm lĩnh tri thức.
– Phương pháp thực hành: Giáo viên cần phải cho học sinh viết bài chuyên đề như cấu trúc đề thi THPTQG theo định kì (có báo trước) và không theo định kì (bất chợt), chấm chữa bài và uốn nắn những chỗ còn chưa đạt trong bài viết của học sinh. Khuyến khích nêu gương những học sinh có bài viết tốt, khen ngợi kịp thời những học sinh có biểu hiện tiến bộ từ đó thổi bùng lên ở mỗi em ngọn lửa đam mê, tình yêu văn chương.
– Phương pháp thống kê, phân tích dữ liệu để đánh giá mức độ nhận thức của học sinh từ đó điều chỉnh nội dung và phương pháp giảng dạy cho phù hợp với tình hình thực tế.
D. HỆ THỐNG CÁC VÍ DỤ, CÁC BÀI TẬP CỤ THỂ CÙNG LỜI GIẢI MINH HỌA.
* Yêu cầu chung:
– Hình thành các dạng câu hỏi cần cả 4 mức độ (nhận biết, thông hiểu, vận dụng thấp, vận dụng cao) để kiểm tra được hiểu biết của học sinh ở các góc độ sâu của tác phẩm, phong cách tác giả.
– Đánh giá được năng lực cảm thụ tác phẩm của học sinh.
– Phát hiện được khả năng tạo lập văn bản, xây dựng bài văn nghị luận.
– Giúp học sinh có cái nhìn nhiều chiều về tác giả – tác phẩm thơ, những vấn đề lí luận về thơ đồng thời phân loại được học sinh theo năng lực.
I. VÍ DỤ LỜI GIẢI MINH HOẠ CHO MỘT ĐỀ VĂN CỤ THỂ.
1. Mục tiêu đề thi.
– Kiến thức: Phân tích thi phẩm Tây Tiến của Quang Dũng để làm sáng tỏ một vấn đề lí luận văn học về mối quan hệ giữa đặc trưng của thơ và các loại hình nghệ thuật gần gũi với nó. Đặc trưng của ngôn ngữ thơ (tính chính xác, tính hình tượng, tính nhạc) khiến nó mang trong mình đặc điểm của các loại hình nghệ thuật khác.
– Kĩ năng: Biết làm kiểu bài nghị luận văn học có vận dụng kết hợp các thao tác giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận. Lập luận chặt chẽ, bố cục rõ ràng, diễn đạt lưu loát có cảm xúc, ngôn ngữ chọn lọc, không mắc chính tả, dùng từ, ngữ pháp.
– Thái độ: Bồi dưỡng niềm tự hào, tình yêu tiếng Việt. Từ đó học sinh có lòng say mê với văn học Việt Nam và có lí tưởng sống đúng đắn.
2. Hình thức đề thi: Tự luận.
3. Thiết lập khung ma trận đề thi.
– Liệt kê các chuẩn kiến thức kĩ năng theo chương trình môn Ngữ văn 12.
– Chọn nội dung cần đánh giá, thực hiện các bước thiết lập ma trận đề kiểm tra theo 4 mức độ nhận thức:
Cấp độ Tên nội dung kiểm tra | Nhận biết | Thông hiểu | Vận dụng | Cộng | |
Cấp độ thấp | Cấp độ cao | ||||
– Đặc trưng của ngôn ngữ thơ (tính chất kì diệu của thơ ca): thơ là thơ nhưng thơ còn có màu sắc, đường nét của hội hoạ, thanh âm của âm nhạc và hình khối của chạm khắc (điêu khắc). Tất cả những biểu hiện ấy phải được thể hiện theo “một cách riêng” nghĩa là nhà thơ phải có phong cách nghệ thuật riêng.- Chứng minh qua việc phân tích bài thơ Tây Tiến. | -Giới thiệu ngắn gọn về tác giả Quang Dũng và bài thơ Tây Tiến. | Hiểu và giải thích được ý kiến của Sóng Hồng:- Thơ là thơ?- Thơ là hoạ?- Thơ là nhạc?- Thơ là chạm khắc theo một cách riêng? | –Phân tích được chất thơ của Tây Tiến.– Phân tích, chứng minh khẳng định Tây Tiến cũng là bài thơ giàu chất hoạ, chất nhạc và điêu khắc, tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của nhà thơ. | – Đánh giá vấn đề. | |
Số ý:Số điểm:Tỉ lệ %: | 1 ý0,256,25 | 1 ý1,025 | 1 ý2,050 | 1 ý0,7518,75 | Số câu: 1Điểm: 4100 % |
4. Biên soạn đề thi.
Đề bài: “Thơ là thơ đồng thời là hoạ, là nhạc, là chạm khắc theo một cách riêng”. (Sóng Hồng). Anh (chị) hiểu ý kiến trên như thế nào? Qua việc phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.
5. Minh họa phần hướng dẫn học sinh giải đề thi.
Nội dung các hoạt động | Hoạt động của giáo viên và học sinh | – Nội dung kiến thức + kỹ năng cần đạt, các năng lực cần phát triển ở học sinh(được hình thành bởi quan điểm dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh và dạy học phát triển tư duy sáng tạo ở người học) |
Hoạt động 1: Nhận thức đề | GV: Chép đề. Hỏi: Đề đặt ra vấn đề gì cần giải quyết (luận đề)?Việc giải quyết vấn đề ấy phải huy động những kiến thức nào (tư liệu)?Đề yêu cầu kiểu bài gì? Các thao tác nghị luận cần sử dụng?Yêu cầu về kỹ năng và thái độ người viết?HS: Thảo luận nhóm và trả lời. Đại diện các nhóm nhận xét.GV: Nhận xét và kết luận. | – Vấn đề cần giải quyết: Phân tích thi phẩm Tây Tiến của Quang Dũng để làm sáng tỏ một vấn đề lí luận văn học về mối quan hệ giữa đặc trưng của thơ và các loại hình nghệ thuật gần gũi với nó. Đặc trưng của ngôn ngữ thơ (tính chính xác, tính hình tượng, tính nhạc) khiến nó mang trong mình đặc điểm của các loại hình nghệ thuật khác. – Vùng tư liệu: Đặc trưng ngôn ngữ thơ, bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng.- Kiểu bài: kiểu bài nghị luận văn học có vận dụng kết hợp các thao tác giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận. – Yêu cầu về kỹ năng: Lập luận chặt chẽ, bố cục rõ ràng, diễn đạt lưu loát có cảm xúc, ngôn ngữ chọn lọc, không mắc chính tả, dùng từ, ngữ pháp (trong đó đề cao sáng tạo với những kiến giải riêng hợp lí). – Thái độ: Bồi dưỡng niềm tự hào, tình yêu tiếng Việt. Từ đó học sinh có lòng say mê với văn học Việt Nam và có lí tưởng sống đúng đắn. Phát triển năng lực sử dụng kiến thức, xử lí thông tin, năng lực giải quyết vấn đề của học sinh. |
Hoạt động 2:Huy động kíên thức (Chuẩn bị chất liệu cho đề văn) | GV: Những chất liệu em sẽ chuẩn bị để giải quyết đề văn này là gì?HS: Cá nhân HS suy nghĩ và trả lời.GV: Kết luận. | – Các chất liệu cần huy động: – Hệ thống các luận điểm lớn, nhỏ (ý lớn, ý nhỏ). – Các dẫn chứng: Ngoài kiến thức về Quang Dũng và bài thơ Tây Tiến, học sinh có thể viện dẫn những nhận định của các nhà nghiên cứu phê bình văn học có uy tín (tất nhiên phải gần gũi, phù hợp). Bước này học sinh cần vận dụng trí nhớ và ghi lại ngay khi kiến thức cần thiết ùa về. – Dựng khung đề cương cho bài viết:
Giới thiệu vấn đề cần nghị luận.
1/ Giải thích ý kiến. 2/ Chứng minh qua bài thơ Tây Tiến. 3/ Đánh giá chung.
Tóm lược vấn đề, phát triển nâng cao và để lại ấn tượng sâu sắc.
|
Hoạt động 3: Luyện viết mở bài gián tiếp | GV: Em hãy chọn một nhận định trong số các nhận định chúng ta đã có từ đó viết một mở bài gián tiếp cho đề văn.HS: Làm việc cá nhân. Đọc mở bài mình vừa hoàn thành. Các em còn lại nghe và nhận xét, góp ý.GV: nhận xét và đề xuất cách mở bài hay và hợp lí nhất. | 1/ Giới thiệu vấn đề nghị luận. – Hoàn thành một mở bài theo yêu cầu, sáng tạo, có sức lôi cuốn. Xin giới thiệu với các thầy cô mở bài của 1 em học sinh được tập thể lớp lựa chọn: – Phát triển năng lực sáng tạo, năng lực giao tiếp Tiếng Việt, năng lực cá nhân, năng lực giải quyết tình huống của học sinh. |
Hoạt động 4: Giải thích ý kiến của Sóng Hồng | GV:Thơ là thơ?Thơ là nhạc?Thơ là hoạ?Thơ là chạm khắc?Theo một cách riêng cần hiểu như thế nào? (chú ý chất liệu ngôn ngữ và đặc trưng của ngôn ngữ thơ).HS: thảo luận nhóm bằng kĩ thuật mảnh ghép. | 2/ Giải thích ý kiến: 2.1 Thơ là thơ: Thơ trước hết phải là chính nó, nghĩa là phải mang đầy đủ những đặc trưng riêng khác với bất kì loại hình nghệ thuật nào: truyện, kịch… Thơ là phương thức trữ tình, là tiếng nói của tình cảm, cảm xúc được thể hiện bằng một cấu tạo ngôn ngữ đặc biệt. 2.2 Thơ đồng thời là họa, là nhạc, là chạm khắc theo một cách riêng: + Thơ – hoạ – nhạc – chạm khắc đều là những loại hình nghệ thuật, song có sự khác biệt, trước hết là chất liệu xây dựng hình tượng nghệ thuật để phản ánh đời sống. Chất liệu của thơ ca là ngôn ngữ – chất liệu phi vật thể có những đặc trưng riêng- vì vậy tác động nhận thức không trực tiếp bằng các loại hình nghệ thuật khác song sức gợi mở của nó lại hết sức dồi dào, mạnh mẽ. Nó tác động vào liên tưởng con người và khơi dậy những cảm nhận cụ thể về màu sắc, đường nét, âm thanh, hình khối. + Thơ là họa: Họa có nghĩa là hội họa, đặc trưng ngôn ngữ thơ giàu tính tạo hình, thơ có thể gợi lên trong tâm trí người đọc những hình ảnh, chi tiết sống động, chân thực như bản thân sự sống vốn có, “thi trung hữu hoạ”. + Thơ là nhạc: Nhạc là âm nhạc. Ngôn ngữ thơ giàu nhạc tính. Tính nhạc của thơ thể hiện ở: thể thơ, cách gieo vần, ngắt nhịp, thanh điệu,… “thi trung hữu nhạc”. Nhạc là cỗ xe chở hồn thi phẩm (Hoàng Cầm). + Thơ còn là chạm khắc: Chạm khắc là điêu khắc. Cũng vì tính tạo hình, ngôn ngữ thơ ca có khả năng tạo dựng hình khối, đường nét sống động, chân thực. + Một cách riêng: Phong cách nghệ thuật của mỗi nhà thơ. 2.3 Tóm lại: Sóng Hồng đã khẳng định tính chất kì diệu của thơ ca: thơ là thơ nhưng thơ còn có màu sắc, đường nét của hội hoạ, thanh âm của âm nhạc và hình khối của chạm khắc (điêu khắc). Thơ cất tiếng nhờ nhạc, đẹp lên nhờ hoạ và kiêu hãnh vì được thể hiện bằng nét chạm khắc. Tuy nhiên, tất cả những biểu hiện ấy phải được thể hiện theo “một cách riêng” nghĩa là nhà thơ phải có phong cách nghệ thuật độc đáo. (Cũng như nhận xét của Biêlinxki “Bản thân văn học là toàn bộ nghệ thuật” hay “Thơ là kết tinh của cái đẹp trong mọi hình thức nghệ thuật”). – Phát triển năng lực sử dụng kiến thức, năng lực trao đổi, năng lực hợp tác của học sinh. |
Hoạt động 5: Phân tích bài thơ Tây Tiến để chứng minh cho ý kiến | Ý phụ (tác giả, tác phẩm), giáo viên gọi 1 học sinh đứng tại chỗ trả lời ngắn gọn.Học sinh được gọi thực hiện yêu cầu.Giáo viên nhận xét, bổ sung nếu cần.Các ý còn lại, giáo viên giao nhiệm vụ cho 4 nhóm.Hướng dẫn học sinh giải quyết vấn đề qua hội thảo nhóm với kĩ thuật hội chợ.Nhóm 1: Chất thơ trong Tây Tiến.Nhóm 2: Chất hoạ trong Tây Tiến.Nhóm 3: Chất nhạc trong Tây Tiến.Nhóm 4: Phong cách riêng của Quang Dũng qua Tây Tiến.Sau khi xong nhiệm vụ, các nhóm cử đại diện đi tham khảo các nhóm còn lại để nhận thức đầy đủ cả 4 yêu cầu.GV: Nhận xét, kết luận. | 3/ Chứng minh qua bài Tây Tiến: 3.1 Giới thiệu ngắn gọn về tác giả Quang Dũng và bài thơ Tây Tiến. – Tác giả: Quang Dũng là người nghệ sĩ đa tài. Thơ Quang Dũng hồn hậu, phóng khoáng, lãng mạn và hào hoa.- Tác phẩm: Tây Tiến (1948) là bài thơ tiêu biểu cho đời thơ Quang Dũng, thể hiện sâu sắc phong cách nghệ thuật của nhà thơ. Bài thơ đươc in trong tập Mây đầu ô. Xuyên suốt bài thơ là nỗi nhớ: nỗi nhớ da diết về những người động đội và những ngày tháng, những kỉ niệm không thể nào quên của chính tác giả trong đoàn quân Tây Tiến, gắn với vùng đất miền Tây hùng vĩ, hiểm trở và thơ mộng. Nỗi nhớ ấy đã đánh thức mọi ấn tượng, kí ức để kết tinh thành những hình ảnh sống động. 3.2. Chất thơ của Tây Tiến: + Bài thơ thể hiện cảm xúc mãnh liệt của Quang Dũng: nỗi nhớ đơn vị cũ, nhớ thiên nhiên núi rừng, con người Tây Bắc. + Ngôn ngữ thơ hàm súc, đa nghĩa, có tính biểu cảm cao. 3.3. Tây Tiến cũng là bài thơ giàu chất hoạ, chất nhạc và điêu khắc: + Chất hoạ: Bức tranh thiên nhiên, núi rừng Tây Bắc hùng vĩ, hoang sơ, bí ẩn, dữ dội, mà mĩ lệ thơ mộng trữ tình. Nét vẽ gân guốc, khoẻ khoắn tái hiện thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội, hiểm trở hoang sơ. Nét vẽ nhẹ nhàng, nhoè mờ kiểu tranh lụa lại làm hiện lên thiên nhiên Tây Bắc thơ mộng, trữ tình, ấm áp (dẫn chứng). + Chất nhạc: phép đối, điệp âm, sử dụng từ láy, cách ngắt nhịp, phối thanh Bằng – Trắc… → tạo nên giọng điệu gân guốc, mạnh mẽ khi nói về con đường hành quân gập ghềnh, trắc trở; giọng điệu êm đềm man mác khi nói về thiên nhiên thơ mộng trữ tình; giọng thơ vui tươi, khoẻ khoắn khi tái hiện kỉ niệm về tình quân dân thắm thiết trong đêm liên hoan (dẫn chứng).+ Đường nét của điêu khắc: chạm khắc bức tượng đài về người lính Tây Tiến sống động, chân thực, mang vẻ đẹp lẫm liệt, kiêu hùng, hào hoa, lãng mạn mà bi tráng (dẫn chứng). 3.4 Bài thơ Tây Tiến thể hiện phong cách riêng, độc đáo của Quang Dũng: – Bút pháp lãng mạn và tinh thần bi tráng, hồn thơ bay bổng và ngôn ngữ sáng tạo, tinh tế, tài hoa. Phát triển năng lực thưởng thức tác phẩm thơ/cảm thu thẩm mĩ (năng lực đặc thù của môn Ngữ văn), năng lực trao đổi, năng lực xử lí thông tin của học sinh. |
Hoạt động 6: Hướng dẫn học sinh tổng kết, đánh giá, tự viết kết bài cho đề văn. | GV: Thảo luận nhóm với kĩ thuật khăn trải bàn. Cần đánh giá những gì? Đánh giá như thế nào? Ý kiến của Sóng Hồng đem đến cho người nghệ sĩ bài học sáng tạo nào?Từ việc trả lời những câu hỏi đó, em hãy viết một kết bài hoàn chỉnh, sáng tạo và để lại ấn tượng với người đọc. HS: – Mỗi học sinh sẽ tự nhận thức và thực hành viết đoạn văn kết bài theo yêu cầu của giáo vên.- Một số em đọc đoạn văn của mình để cả lớp nghe, nhận xét và rút kinh nghiệm. | 4/ Đánh giá chung. 4.1 Ý kiến đúng đắn, có giá trị của Sóng Hồng đã khẳng định sức sống và vẻ đẹp kì diệu của thơ ca: đặc trưng của ngôn ngữ thơ (tính chính xác, tính hình tượng, tính nhạc) khiến nó mang trong mình đặc điểm của các loại hình nghệ thuật khác. 4.2 Bài thơ Tây Tiến với vẻ đẹp kì diệu là minh chứng rõ nét cho điều đó. Tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật Quang Dũng, xứng đáng là một trong những thi phẩm xuất sắc của nền thi ca cách mạng Việt Nam. 4.3 Để sáng tác được những bài thơ hay, nhà thơ không chỉ cần cảm xúc mãnh liệt, chân thành mà còn cần có tài năng trong việc sử dụng từ ngữ, hình ảnh, thanh điệu, nhịp điệu thật độc đáo để tạo được phong cách riêng của mình. Mỗi độc giả cần phải là người đọc “đồng sáng tạo” với nhà thơ. Học sinh hoàn thành một kết bài sáng tạo và để lại ấn tượng với người đọc. Xin giới thiệu với các thầy cô kết bài của 1 em học sinh được tập thể lớp lựa chọn: Tóm tại, thơ là kết quả của sự thăng hoa cảm xúc, là sản phẩm tinh thần của nhà thơ. Mỗi bài thơ là sự kết tinh vốn văn hoá, thể hiện cái nhìn về cuộc đời và biểu hiện những trạng thái xúc cảm của người sáng tác. Ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên của tác phẩm văn học. Trong sự lao động của nhà thơ có sự lao động về ngôn ngữ, trong sự giày vò của sáng tạo nghệ thuật có sự giày vò về ngôn từ. Thành công của tác phẩm một phần lớn là nhờ khả năng ngôn ngữ của tác giả. Với các đặc trưng: tính chính xác, tính hình tượng, tính tinh luyện, hàm súc kết hợp với tính nhạc phong phú của tiếng Việt, thơ là thơ đồng thời là hoạ, là nhạc, là chạm khắc theo một cách riêng. Tuân thủ nghiêm ngặt điều đó, với Tây Tiến, Quang Dũng trở thành một trong những nhà thơ lưu danh hậu thế. Cũng như vậy, mỗi nghệ sĩ trong sáng tạo cần ghi nhớ: để sáng tác được những bài thơ hay, nhà thơ không chỉ cần cảm xúc mãnh liệt, chân thành mà còn cần có tài năng trong việc sử dụng từ ngữ, hình ảnh, thanh điệu, nhịp điệu thật độc đáo để tạo được phong cách riêng của mình. Nếu Nhà thơ như con ong biến trăm hoa thành mật ngọt/ Một mật ngọt thành đòi vạn chuyến ong bay (Chế Lan Viên) thì mỗi độc giả hãy là người đồng sáng tạo với nhà thơ, đừng quên lời nhắc nhở của Phôntan:“Bạn ơi hãy học suy nghĩ bằng trái tim Phát triển năng lực xử lí thông tin, năng lực sáng tạo, năng lực sử dụng ngôn ngữ của học sinh. |
Hoạt động 7: Củng cố-dặn dò | – Giáo viên củng cố cách làm kiểu đề văn liên quan đến kíên thức lí luận văn học: đặc trưng của thơ.- Học sinh tiếp thu để có thể giải quyết linh hoạt các kiểu đề tương tự. – Dặn dò học sinh về nhà viết một số ý thành đoạn văn hoàn chỉnh.- Làm bài tập theo yêu cầu và nộp cho giáo viên đúng hạn. | – Mỗi học sinh sẽ ghi nhớ những kiến thức bổ ích sau khi giải quyết đề văn và biết áp dụng linh hoạt trong quá trình học – thi. – Ngoài kiến thức tác giả, tác phẩm được học trong chương trình, HS cần biết thêm các nhận định về tác giả – tác phẩm, đặc biệt cần nắm chắc phong cách nghệ thuật của mỗi tác giả. – Kiến thức lí luận văn học được coi là “triết học của văn học”. Học sinh phải có kiến thức lí luận văn học vững vàng, vận dụng linh hoạt các kiến thức đó để xử lí tốt các đề văn liên quan đến kiến thức lí luận văn học. – Bài văn cần nêu “trúng” vấn đề tiến tới hay và sáng tạo để lại ấn tượng tốt cho người đọc.
|
Bảng tiêu chí đánh giá mức độ kết quả cần đạt của học sinh:
Nội dung đánh giá | Mức độ kết quả cần đạt | ||||
Giỏi | Khá | TB | Yếu | Kém | |
Nội dung 1-Giới thiệu ngắn gọn về tác giả Quang Dũng và bài thơ Tây Tiến. -Điểm tối đa: 0,25 | Tiêu chí:-Giới thiệu được tác giả Quang Dũng là người nghệ sĩ đa tài, là nhà thơ chiến sĩ có phong cách nghệ thuật độc đáo và có vị trí quan trọng trong nền văn học dân tộc. Bài thơ Tây Tiến (1948) là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách thơ của tác giả. Điểm :0,25 Số học sinh đạt tiêu chí: 4590% | Tiêu chí:- Giới thiệu được tác giả Quang Dũng, tác phẩm Tây Tiến nhưng chưa nhấn mạnh được phong cách nhà thơ. Điểm :0,2 | Tiêu chí:- Giới thiệu được tác giả, tác phẩm nhưng còn sơ sài, chưa ngắn gọn, chắt lọc. Điểm :0,1 | Tiêu chí:- Giới thiệu được 1 trong 2: tác giả hoặc tác phẩm, hoặc giới thiệu được cả tác giả tác phẩm nhưng còn nhiều thông tin chưa chuẩn xác. Điểm :0 | Tiêu chí:- Không làm được hoặc hoàn toàn sai lạc kiến thức. Điểm :0 |
Nội dung 2Giải thích ý kiến của Sóng Hồng. -Điểm tối đa: 1,0 | Tiêu chí:Hiểu và giải thích tốt ý kiến của Sóng Hồng: đặc trưng và thế mạnh của thơ khiến nó vừa là chính nó vừa mang đặc điểm của nhiều loại hình nghệ thuật gần gũi với nó: nhạc, hoạ, điêu khắc…tất cả được thể hiện theo cách riêng của người nghệ sĩĐiểm :1,0 Số học sinh đạt tiêu chí: 3570% | Tiêu chí:Giải thích được ý kiến của Sóng Hồng nhưng mới chỉ dừng lại ở:- Thơ là thơ?- Thơ là hoạ?- Thơ là nhạc?- Thơ là chạm khắc? Theo một cách riêng?Chưa khái quát được ý kiến. Điểm :0,75 | Tiêu chí:Giải thích được ý kiến của Sóng Hồng nhưng mới chỉ đạt 3 trong 6 yêu cầu (- Thơ là thơ?- Thơ là hoạ?- Thơ là nhạc?- Thơ là chạm khắc? Theo một cách riêng?Khái quát được ý kiến). Điểm :0,5 | Tiêu chí:Chưa hiểu được ý kiến của Sóng Hồng và giải thích lan man. Điểm :0,25 | Tiêu chí:- Không làm được hoặc hoàn toàn sai lạc kiến thức. Điểm :0 |
Nội dung 3Phân tích chất thơ, chất nhạc, chất hoạ, chất điêu khắc và phong cách nghệ thuật của Quang Dũng được thể hiện qua bài thơ Tây Tiến. -Điểm tối đa: 2,0 | Tiêu chí:–Phân tích được chất thơ của Tây Tiến.– Phân tích, chứng minh khẳng định Tây Tiến cũng là bài thơ giàu chất hoạ, chất nhạc và điêu khắc, tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của nhà thơ.- Biết chọn những dẫn chứng hợp lí để phân tích tạo sự thuyết phục cho bài viết. Điểm :1,75 – 2,0 | Tiêu chí:–Phân tích được chất thơ của Tây Tiến.– Phân tích, chứng minh khẳng định Tây Tiến cũng là bài thơ giàu chất hoạ, chất nhạc. Ý trong thơ có điêu khắc chưa rõ ràng. Chưa thấy Tây Tiến tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của nhà thơ.- Biết chọn những dẫn chứng hợp lí để phân tích nhưng còn chưa phong phú.Điểm :1,25 – 1,5 Số học sinh đạt tiêu chí: 2040% | Tiêu chí:–Mới chỉ dừng lại ở việc phân tích được chất thơ của Tây Tiến. Phân tích, chứng minh khẳng định Tây Tiến cũng là bài thơ giàu chất hoạ, chất nhạc. Điểm :0,75 – 1,0 | Tiêu chí:- Có phân tích nhưng các ý chưa rõ ràng, lan man, không làm chủ kiến thức. Điểm :0,25 – 0,5 | Tiêu chí:- Không làm được hoặc hoàn toàn sai lạc kiến thức. Điểm :0 |
Nội dung 4- Đánh giá chung. -Điểm tối đa: 0,75 | Tiêu chí:- Đánh giá sâu sắc, thuyết phục vấn đề: giá trị và tính đúng đắn của ý kiến. Khẳng định vì đạt được những điều như Sóng Hồng đã nêu nên bài thơ Tây Tiến và tác giả của nó sẽ sống mãi. Nêu bài học cho người sáng tác. Điểm :0,75 Số học sinh đạt tiêu chí: 3560% | Tiêu chí:-Đánh giá đúng vấn đề: giá trị và tính đúng đắn của ý kiến. Bước đầu khẳng định vì đạt được những điều như Sóng Hồng đã nêu nên bài thơ Tây Tiến và tác giả của nó sẽ sống mãi. Chưa nêu được bài học cho người sáng tác.Điểm :0,5 Số học sinh đạt tiêu chí: 1530% | Tiêu chí:- Đánh giá đúng vấn đề: giá trị và tính đúng đắn của ý kiến. Phần đánh giá về Tây Tiến và Quang Dũng còn sơ sài. Điểm :0,25 | Tiêu chí:Có đánh giá nhưng chưa chính xác, lan man, không có sức khái quát. Điểm :0 | Tiêu chí:- Không làm được hoặc hoàn toàn sai lạc kiến thức. Điểm :0 |
Kinh nghiệm rút ra sau giờ dạy thực nghiệm:
– Dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh và dạy học phát triển tư duy sáng tạo ở người học có nhiều ưu điểm:
+ Giáo viên chủ yếu là người tổ chức, hỗ trợ học sinh tự lực và tích cực lĩnh hội tri thức.
+ Tổ chức các hình thức học tập đa dạng, sử dụng phong phú các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực.
+ Người học được chú trọng đánh giá năng lực, có tính đến sự tiến bộ trong quá trình học tập, chú trọng khả năng vận dụng các tình huống thực tiễn.
+ Kết quả học tập được mô tả chi tiết và có thể quan sát được; thể hiện được mức độ tiến bộ của học sinh một cách liên tục.
+ Học sinh sẽ được phát triển tiềm năng sáng tạo khi chính bản thân giáo viên là những người sáng tạo.
– Tuy nhiên, quan điểm dạy học tích cực này đòi hỏi sự nỗ lực, phấn đấu không ngừng ở cả hai phía người dạy và người học.
– Đặc biệt, mỗi giáo viên phải kiên trì, tiếp tục đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá kết quả học tập, rèn luyện của học sinh theo hướng phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo và năng lực tự học của người học theo Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2011-2020. Với “Mục tiêu của giáo dục không phải chỉ đơn thuần là dạy cách kiếm sống hay cung cấp công cụ để đạt sự giàu có mà đó còn phải là con đường dẫn lối tâm hồn con người vươn đến cái “Chân” và thực hành cái “Thiện” (Vijaya. Lakshmi Pandit). Tất cả để hướng đến mục tiêu: “Dạy văn học, học văn học thật là một niềm vui sướng lớn. Qua mỗi giờ văn học, thầy giáo có thể làm rung động các em, làm cho các em yêu đời, yêu lẽ sống và lớn thêm một chút” (Tố Hữu).
Tương tự như phần ví dụ minh hoạ, các thầy cô có thể linh hoạt áp dụng để giải quyết các đề mà chúng tôi giới thiệu ở mục dưới đây.
II. CÁC DẠNG BÀI TẬP CỤ THỂ TRONG CHUYÊN ĐỀ VÀ GỢI Ý LỜI GIẢI.
1. Dạng đề đọc hiểu.
Do giới hạn dung lượng chuyên đề, chúng tôi xin giới thiệu 5 đề mẫu dưới đây để các thầy cô tham khảo, góp ý:
Đề bài 1: Đọc đoạn thơ sau và thực hiện các yêu cầu nêu ở dưới:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới,
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
Rải rác biên cương mồ viễn xứ,
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.
Áo bào thay chiếu, anh về đất,
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
(Trích “Tây Tiến” – Quang Dũng)
a/ Đoạn thơ trên được viết theo thể thơ gì?
b/ Nêu nội dung cơ bản của đoạn thơ.
c/ Đoạn thơ có sử dụng rất nhiều từ Hán Việt, anh/ chị hãy liệt kê những từ ngữ đó và nêu tác dụng của chúng.
d/ Chỉ ra phép tu từ nói giảm được sử dụng trong đoạn thơ và nêu tác dụng của phép tu từ đó.
Gợi ý:
a/ Đoạn thơ trên được viết theo thể thơ 7 tiếng.
b/ Đoạn thơ tập trung khắc họa chân dung người chiến binh Tây Tiến (ngoại hình, tâm hồn, lí tưởng, sự hi sinh).
c/ Những từ Hán Việt được sử dụng là: đoàn binh, biên giới, chiến trường, biên cương, viễn xứ, áo bào, độc hành. Việc sừ dụng những từ Hán Việt ở đây đã tạo ra sắc thái trang trọng, mang ý nghĩa khái quát, làm tôn thêm vẻ đẹp của người lính Tây Tiến, góp phần tạo ra vẻ đẹp hào hùng cho hình tượng.
d/ Phép tu từ nói giảm dược thể hiện trong câu thơ: “Áo bào thay chiếu anh về đất”. Cụm từ “về đất” được thay thế cho sự chết chóc, hi sinh. Phép tu từ này có tác dụng làm giảm sắc thái bi thương cho cái chết của người lính Tây Tiến. Người lính Tây Tiến ngã xuống thật thanh thản, nhẹ nhàng. Đó là cuộc trở về với đất mẹ và đất mẹ đã dang rộng vòng tay đón những đứa con yêu vào lòng.
Đề bài 2: Đọc đoạn thơ sau và trả lời câu hỏi:
Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức
(trích Sóng, Xuân Quỳnh- sgk ngữ văn 12 tập 1)
a. Trong đoạn thơ trên tác giả đã sử dụng biện pháp nghệ thuật nào? Nêu tác dụng của việc sử dụng biện pháp nghệ thuật đó trong đoạn thơ?
b. Đọan thơ trên thể hiện phẩm chất gì của người phụ nữ khi yêu?
c. Tìm 1 câu ca dao thể hiện nỗi nhớ trong tình yêu như đoạn thơ trên?
Gợi ý:
a/ Biện pháp nghệ thuật nhân hoá (con sóng mang tâm trạng của con người); biện pháp đối: dưới lòng sâu – trên mặt nước (sự tồn tại của con sóng ở nhiều dạng thức khác nhau); điệp từ: con sóng (nhấn mạnh hình ảnh trữ tình).
b/ Đoạn thơ thể hiện phẩm chất chung thuỷ của người con gái khi yêu.
c/ Học sinh nêu được 1 câu ca dao nói về nỗi nhớ. Ví dụ:
– Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ
Nhớ ai, ai nhớ bây giờ nhớ ai?
– Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa như ngồi đống than?
Đề bài 3: Đọc đoạn thơ sau và thực hiện các yêu cầu nêu ở dưới
– Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn
– Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…
(Trích “Việt Bắc” – Tố Hữu)
a/ Đoạn thơ trên được được tổ chức theo hình thức nào?
b/ Đoạn thơ trên nói về nội dung gì?
c/ Nội dung đó được thể hiện thông qua việc sử dụng từ ngữ, kiểu câu như thế nào?d/ Đoạn thơ trên đã sử dụng thành công các biện pháp tu từ cơ bản nào? Nêu tác dụng cụ thể của các phép tu từ trên.e/ Hãy đặt tiêu đề cho đoạn thơ trên.
Gợi ý:
a/ Đoạn thơ trên được tổ chức theo hình thức đối đáp giữa người đi và kẻ ở.
b/ Nội dung nói về sự băn khoăn, lưu luyến, bịn rịn của con người trong buổi chia tay.
c/ Sự băn khoăn, lưu luyến, bịn rịn ấy được thể hiện rất rõ thông qua việc sử dụng các từ láy bộc lộ tâm trạng con người như: bâng khuâng, bồn chồn và việc sử dụng các câu hỏi tu từ với từ (Mình về mình có nhớ ta, mình về mình có nhớ không). Hỏi nhưng không chỉ đề hỏi mà còn là để gợi nhắc những kỉ niệm gắn bó.
d/ Đoạn thơ đã sử dụng thành công phép tu từ hoán dụ và im lặng:
+ Hoán dụ: Áo chàm được dùng để chỉ người đưa tiễn. Qua hình ảnh này ta hiểu được tính chất của cuộc chia tay. Đó là cuộc chia tay lớn, cuộc chia tay lịch sử. Trong cuộc chia tay này, không phải chỉ có một người, hai người đưa tiễn mà là cả Việt Bắc bao gồm nhân dân sáu tỉnh Cao – Bắc – Lạng; Hà – Tuyên – Thái và cả thiên nhiên, núi rừng Việt Bắc tiễn đưa người đi, cán bộ kháng chiến.
+ Phép tu từ im lặng (dấu chấm lửng) ở cuối câu có (khoảng lặng cảm xúc) tác dụng diễn tả phút ngừng lặng, trùng xuống của một cuộc chia tay đầy xúc động, bâng khuâng, tay trong tay mà không nói lên lời. Khoảng lặng cảm xúc gọi cảm hứng, gợi cảm xúc đánh thức tâm hồn con người.
e/ Tên đoạn thơ: Cuộc chia tay lịch sử, cảnh chia tay.
Đề bài 4 : Đọc bốn câu thơ sau đây và trả lời câu hỏi:
Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn?
(trích Việt Bắc- Tố Hữu, sgk 12 tập 1)
a/ Thời gian “mười lăm năm ấy” được nhắc đến trong đoạn thơ là khoảng thời gian nào?b/ Xác định các biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong đoạn thơ trên? Nêu tác dụng của việc sử dụng biện pháp nghệ thuật đó trong đoạn thơ?
c/ Cách xưng hô trong đoạn thơ trên gợi em nhớ đến câu ca dao nào? (viết câu ca dao đó).
Gợi ý:
a/ Thời gian từ 1940 đến 1954.
b/ Các biện pháp nghệ thuật: ẩn dụ (cây, núi, sông nguồn) chỉ không gian Việt Bắc và cội nguồn cách mạng; điệp từ (có nhớ, mình), điệp cấu trúc ngữ pháp làm cho đoạn thơ mang màu sắc văn học dân gian thể hiện được tâm trạng nhớ nhung, lo lắng, bồn chồn, không yên lòng của người ở lại.
c/ Học sinh viết được 1 câu ca dao có dùng 2 đại từ ta – mình. Ví dụ:
Mình nhớ ta như cà nhớ muối
Ta nhớ mình như cuội nhớ trăng
Đề bài 5: Đọc đoạn thơ sau và trả lời câu hỏi nêu ở dưới:
“Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời”.
(Đất Nước – Trích Mặt đường khát vọng – Nguyễn Khoa Điềm)
a/ Đoạn thơ được viết theo thể thơ nào?
b/ Từ hoá thân ở đây nên được hiểu như thế nào?
c/ Theo anh chị đoạn thơ trên của Nguyễn Khoa Điềm nói về điều gì?
Gợi ý:
a/ Đoạn thơ được viết theo thể thơ tự do.
b/ Từ hoá thân cần được hiểu là hành động cống hiến, sẵn sàng hi sinh cho đất nước, tự nguyện dâng hiến trọn vẹn cho đất nước để bất tử hóa cùng non sông của mỗi người dân.
c/ Bốn câu thơ giàu chất trữ tình – chính luận, nó vang lên như là lời tự nhủ, tự dặn mình của nhà thơ và là lời của nhà thơ nhắn nhủ với mọi người một cách chân thành, tha thiết về ý thức trách nhiệm với đất nước.
2. Dạng đề nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lí đặt ra trong đoạn trích (tác phẩm thơ)
Đề bài 6:
“Em ơi em
Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời”
(Đất Nước – Trích Mặt đường khát vọng – Nguyễn Khoa Điềm)
Dựa vào những câu thơ trên, anh (chị) hãy phát biểu trong một bài văn ngắn (không quá 600 từ) ý kiến cá nhân về trách nhiệm của thế hệ thanh niên hiện nay với đất nước.
Gợi ý:
Yêu cầu chung: Học sinh biết cách làm bài văn nghị luận về một tư tưởng đạo lí thể hiện trong tác phẩm văn học. Biết kết hợp các thao tác lập luận. Bố cục rõ ràng, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp.
Yêu cầu cụ thể:
1. Tìm hiểu đoạn thơ.
– Đất Nước trích chương V, trường ca Mặt đường khát vọng được Nguyễn Khoa Điềm sáng tác vào mùa đông năm 1971, nhà thơ bộc lộ tấm lòng yêu quê hương đất nước và ca ngơi truyền thống văn hóa lâu đời của dân tộc mình. Qua đoạn thơ:
Em ơi em
Đất nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên đất nước muôn đời…
nhà thơ đã bộc lộ sự tự ý thức của tuổi trẻ về vai trị, trách nhiệm của mình trong cuộc chiến đấu và sự tự thức sâu sắc về Đất nước, về nhân dân qua những trải nghiệm của chính mình.
– Giải thích các từ ngữ: máu xương, gắn bó, san sẻ, hóa thân. => Nội dung đoạn thơ: Đất nước gần gũi, gắn bó mật thiết với mỗi con người, mỗi con người là một phần của đất nước. Cho nên, mỗi cá nhân phải biết tự nguyện gắn bó, cống hiến, hi sinh để làm giàu đẹp thêm cho đất nước, giữ gìn, phát huy và nối tiếp truyền thống của đất nước.
– Đoạn thơ như một lời nhắn nhủ với thế hệ trẻ về trách nhiệm với đất nước. Mỗi cá nhân cần phải biết tự nguyện gắn bó, cống hiến, hi sinh để làm giàu đẹp thêm cho đất nước, giữ gìn, phát huy và tiếp nối truyền thống của đất nước. Tuy là đoạn thơ chính luận nhưng người đọc không cảm thấy là những lời “giáo huấn” mà chỉ như một lời tự nhủ, tự dặn mình, chân thành, tha thiết…
2. Bàn luận.
* Vai trò của quê hương, đất nước
– Đất nước vốn rộng lớn, trừu tượng nhưng thực ra cũng rất cụ thể, gần gũi đối với mỗi người.
– Đất nước là máu xương của mình nên chúng ta phải biết gắn bó và san sẻ:
+ Đất nước là không gian, thời gian ta sinh hoạt, lao động hàng ngày, lưu giữ cho ta những kỉ niệm, kí ức, cảm xúc…
+ Đất nước hiện hình trong dáng dấp, màu da, mái tóc, tiếng nói, giọng điệu của mỗi người.
+ Đất nước là quê hương, trong quê hương có gia đình – người thân của chính chúng ta.
+ Vì thế, hi sinh, cống hiến cho đất nước cũng là hi sinh, cống hiến cho những người thân yêu của mình.
* Mỗi cá nhân, mỗi thế hệ là một mắt xích quan trọng trong cuộc chạy tiếp sức vĩnh cửu giữa các thế hệ để làm nên truyền thống dân tộc. Đặc biệt là thanh niên. Thanh niên chính là hiện tại và tương lai của đất nước. Mỗi cá nhân thanh niên cần phải có trách nhiệm tự nguyện gánh vác những công việc chung của đất nước.
– Ở mỗi thời điểm, thanh niên có cách gắn bó và san sẻ với đất nước khác nhau:
+ Thời chiến: cả một thế hệ thanh niên “gác bút nghiên theo việc đao cung”, hi sinh cuộc sống của mình để bảo vệ đất nước…VD: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước: “Cuộc đời đẹp nhất là trên trận tuyến đánh quân thù”,“Ta biết giấu mặt vào đâu, gấu quần hay gấu áo khi đường Trường Sơn không có dấu chân ta ” (Mãi mãi tuổi hai mươi- Nhật kí của liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc)
+ Thời bình, nhất là trong công cuộc hiện đại hoá đất nước, hội nhập quốc tế như hiện nay : thanh niên cần trau dồi tri thức, bắt kịp thời đại, rèn luyện bản lĩnh vững vàng trước cuộc hội nhập quốc tế, trước những cám dỗ vật chất, rèn luyện sức khoẻ để cống hiến, dựng xây đất nước…HS lấy dẫn chứng minh hoạ: Trong lao động, trong chiến đấu, trong thời kì hội nhập hôm nay.
+ Trong thời kì công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, hội nhập mở cửa hiện nay, thanh niên cần trau dồi tri thức, bắt kịp thời đại, rèn luyện bản lĩnh vững vàng trước cuộc hội nhập quốc tế, rèn đức luyện tài để “vừa hồng, vừa chuyên” đáp ứng được yêu cầu của xã hội. (Học sinh có thể trình bày suy nghĩ riêng của mình về trách nhiệm của thế hệ trẻ hôm nay với đất nước. Nhưng nói chung, cần đảm bảo các ý sau):
+ + Tích cực học tập, rèn luyện, tu dưỡng đạo đức, nhân cách;
+ + Tham gia các hoạt động ngoại khóa, phát triển lành mạnh về thể chất, tinh thần;
+ + Tích cực lao động, xây dựng, bảo vệ Tổ quốc;
+ + Phát huy văn hóa, truyền thống tốt đẹp của dân tộc;
+ + Sẵn sàng chiến đấu, hi sinh vì độc lập, chủ quyền quốc gia dân tộc khi Tổ quốc cần,…)
– Phê phán những quan niệm sai lầm về đất nước, phê phán những ai ích kỉ chỉ biết vội vàng đòi hỏi ở đất nước mà không đóng góp, thậm chí làm băng hoại, hoen ố truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
3. Bình luận, đánh giá và liên hệ với bản thân.
– Qua đoạn thơ, Nguyễn Khoa Điềm thể hiện một quan niệm đúng đắn về đất nước và ý thức rất rõ ràng về trách nhiệm của mình và thế hệ mình trước vận mệnh của dân tộc. Tư tưởng ấy phù hợp với mọi hoàn cảnh, mọi thời đại và có tác dụng to lớn trong việc hiệu triệu thế hệ trẻ hôm nay và mai sau.
– Là một thanh niên, ta cần xác định rõ trách nhiệm của mình đối với đất nước.
3. Dạng đề nghị luận về một đoạn thơ hoặc một tác phẩm thơ
a. Dạng đề nghị luận về một đoạn thơ
Đề bài 1: Phân tích vẻ đẹp lãng mạn và chất bi tráng của hình tượng người lính trong đoạn thơ sau:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới,
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
Rải rác biên cương mồ viễn xứ,
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.
Áo bào thay chiếu, anh về đất,
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
(Trích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng).
Gợi ý:
I. Đặt vấn đề :
– Tây Tiến là bài thơ hay nhất, tiêu biểu nhất của Quang Dũng. Bài thơ được Quang Dũng viết vào năm 1948 ở Phù Lưu Chanh khi ông đã xa đơn vị Tây Tiến một thời gian.
– Đoàn quân Tây Tiến được thành lập vào đầu năm 1947. Những người lính Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội thuộc nhiều tầng lớp khác nhau, trong đó có cả học sinh, sinh viên.
– Đoạn thơ cần phân tích là đoạn thứ ba của bài thơ, trong đó Quang Dũng đã khắc họa hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến bằng bút pháp lãng mạn, thấm đẫm tinh thần bi tráng.
II. Giải quyết vấn đề :
1. Giải thích khái niệm.
– Vẻ đẹp lãng mạn thể hiện trên những phương diện: cái tôi trữ tình tràn đầy tình cảm, cảm xúc, phát huy cao độ trí tưởng tượng, sử dụng những yếu tố cường điệu, thủ pháp đối lập để tô đậm cái phi thường, tạo nên ấn tượng mạnh mẽ về cái hào hùng. Vẻ đẹp lãng mạn thể hiện ở cảm hứng hướng tới cái cao cả, sẵn sàng hi sinh cho lí tưởng chung của dân tộc, thể hiện ở vẻ đẹp tâm hồn hào hoa, thơ mộng.
– Cái bi là sự gian khổ, hi sinh. Cái tráng là sự hào hùng, tráng lệ. Chất bi tráng của một hình tượng nghệ thuật là vẻ đẹp vừa có tính chất buồn thảm làm não lòng người vừa có tính chất hùng tráng, mạnh mẽ gây ấn tượng. Chất bi tráng hoà quyện vào nhau, sự gian khổ, hi sinh được thể hiện qua màu sắc hào hùng, tráng lệ, bi mà không luỵ.
2. Vẻ đẹp lãng mạn và chất bi tráng của hình tượng người lính Tây Tiến trong đoạn thơ.
a. Vẻ đẹp lãng mạn của người lính Tây Tiến.
– Hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến được xây dựng bằng bút pháp lãng mạn với khuynh hướng tô đậm những cái phi thường, sử dụng triệt để thủ pháp đối lập để tác động mạnh vào cảm quan người đọc, kích thích trí tưởng tượng phong phú của người đọc.
– Trong bài thơ, Quang Dũng đã tạo được một không khí, chuẩn bị cho sự xuất hiện trực tiếp của những người lính Tây Tiến ở đoạn thơ thứ ba này. Trên cái nền hoang vu hiểm trở vừa hùng vĩ vừa dữ dội khác thường của núi rừng (ở đoạn một), và duyên dáng, mĩ lệ, thơ mộng của Tây Bắc (ở đoạn hai), đến đoạn thơ thứ ba, hình ảnh những người lính Tây Tiến trực tiếp xuất hiện với một vẻ đẹp độc đáo và kì lạ :
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
………….
… Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
– Quang Dũng đã chọn lọc những nét tiêu biểu nhất của những người lính Tây Tiến để tạc nên bức tượng đài tập thể, khái quát những gương mặt chung của cả đoàn quân. Qua ngòi bút của ông, những người lính Tây Tiến hiện ra đầy oai phong và dữ dội khác thường. Thực tế gian khổ thiếu thốn đã làm cho người lính da dẻ xanh xao, sốt rét làm họ trụi cả tóc. Quang Dũng không hề che giấu những sự thực tàn khốc đó. Song, cái nhìn lãng mạn của ông đã thấy họ ốm mà không yếu, đã nhìn thấy bên trong cái hình hài tiều tụy của họ chứa đựng một sức mạnh phi thường. Và ngòi bút lãng mạn của ông đã biến họ thành những bức chân dung lẫm liệt, oai hùng. Cái vẻ xanh xao vì đói khát, vì sốt rét của những người lính, qua cái nhìn của ông, vẫn toát lên cái oai phong của những con hổ nơi rừng thiêng. Cái vẻ oai phong, lẫm liệt ấy còn được thể hiện quan ánh mắt giận dữ (mắt trừng gửi mộng) của họ …
– Cái nhìn nhiều chiều của Quang Dũng đã giúp ông nhìn thấy xuyên qua cái vẻ oai hùng, dữ dằn bề ngoài của những người lính Tây Tiến là những tâm hồn còn rất trẻ, những trái tim rạo rực, khao khát yêu đương (Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm). Như vậy, trong bốn câu thơ trên, Quang Dũng đã tạc lên bức tượng đài tập thể những người lính Tây Tiến không chỉ bằng những đường nét khắc họa dáng vẻ bề ngoài mà con thể hiện được cả thế giới tâm hồn bên trong đầy mộng mơ của họ.
b. Chất bi tráng của hình tượng người lính Tây Tiến.
– Khi viết về những người lính Tây Tiến, Quang Dũng đã nói tới cái chết, sự hi sinh nhưng không gây cảm giác bi lụy, tang thương. Cảm hứng lãng mạn đã khiến ngòi bút ông nói nhiều tới cái buồn, cái chết như là những chất liệu thẩm mỉ tạo nên cái đẹp mang chất bi hùng:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
……………….
….Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
– Khi miêu tả những người lính Tây Tiến, ngòi bút của Quang Dũng không hề nhấn chìm người đọc vào cái bi thương, bi lụy. Cảm hứng của ông mỗi khi chìm vào cái bi thương lại được nâng đỡ bằng đôi cánh của lí tưởng, của tinh thần lãng mạn. Chính vì vậy mà hình ảnh những nấm mồ chiến sĩ rải rác nơi rừng hoang biên giới xa xôi đã bị mờ đi trước lí tưởng quên mình vì Tổ quốc của người lính Tây Tiến. Cái sự thật bi thảm những người lính Tây Tiến gục ngã bên đường không có đến cả mảnh chiếu che thân, qua cái nhìn của nhà thơ, lại được bọc trong những tấm ào bào sang trọng. Và rồi, cái bi thương ấy bị át hẳn đi trong tiếng gầm thét dữ dội của dòng sông Mã :
“Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.
Cái chết, sự hi sinh của những người lính Tây Tiến được nhà thơ miêu tả thật trang trọng. Cái chết ấy đã tạo được sự cảm thương sâu sắc ở thiên nhiên. Và dòng sông Mã đã trân trọng đưa tiễn linh hồn người lính bằng cách tấu lên khúc nhạc trầm hùng.
→ Hình ảnh những người lính Tây Tiến trong đoạn thơ này thấm đẫm tính chất bi tráng, chói ngời vẻ đẹp lí tưởng, mang dáng vẻ của những anh hùng kiểu chinh phu thuở xưa một đi không trở lại.
3. Nghệ thuật thể hiện.
– Thể thơ 7 tiếng chắc khoẻ mang giọng điệu hào hùng như một khúc quân hành.
– Kết hợp hài hoà giữa cái nhìn hiện thực với cảm hứng lãng mạn.
– Những vần thơ giàu chất nhạc, chất hoạ, nghệ thuật chạm khắc…
– Hình ảnh thơ vừa gân guốc, khoẻ khoắn, vừa mềm mại, trữ tình.
– Quang Dũng đã phát huy sức mạnh của thủ pháp tương phản – đối lập, một trong những yếu tố nghệ thuật mang dấu ấn thi pháp của chủ nghĩa lãng mạn.
– Ngôn ngữ vừa giản dị, trẻ trung vừa có yếu tố cổ điển trang trọng ở những từ Hán Việt.
– Cách nói giảm, nói tránh kết hợp với bút pháp phóng đại, lí tưởng hoá…
III. Kết thúc vấn đề :
– Tây Tiến là sự kết tinh những sắc thái vừa độc đáo vừa đa dạng của ngòi bút Quang Dũng. Nhà thơ đã sáng tạo được hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến, miêu tả được vẻ đẹp tinh thần của những con người tiêu biểu cho một thời kì lịch sử một đi không trở lại. Hình tượng này thể hiện rõ nét những đặc sắc trong phong cách thơ Quang Dũng.
– Thơ ca kháng chiến chống Pháp đã miêu tả thành công hình ảnh người lính. Và Quang Dũng, qua bài thơ Tây Tiến nổi tiếng của mình nói chung, đoạn thơ trên nói riêng đã góp vào bảo tàng hình ảnh những người lính bức chân dung người lính Tây Tiến rất độc đáo của mình.
Đề bài 2: Cảm nhận của anh/chị về đoạn thơ sau đây:
– Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…
(Trích “Việt Bắc”- Tố Hữu)
Gợi ý:
I. Mở bài :
– Tố Hữu là một nhà thơ tiêu biểu của thơ ca Cách mạng Việt Nam.
– “Việt Bắc” là một trong những bài thơ được xếp vào hạng những bài thơ “tống biệt” của Tố Hữu. Mặc dù là đề tài cũ nhưng bài thơ vẫn mới mẻ bởi “Việt Bắc” ra đời trong cuộc chia tay đặc biệt giữa nhân dân Việt Bắc và cán bộ kháng chiến vào tháng 10/1954.
– Ra đời trong hoàn cảnh ấy, bài thơ không mang cảnh trạng của một cuộc chia ly với nỗi buồn đầy nước mắt, mà là nỗi niềm chia ly trong tình cảm giữa cán bộ và nhân dân sâu đậm ân tình.
– Đoạn thơ mở đầu của bài thơ là sự thể hiện tinh tế và sâu sắc những rung động trong trái tim của người đi và người ở trong giờ phút phân l:
“Mình về mình có nhớ ta
….
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”.
II. Thân bài:
1. Toàn đoạn thơ có 8 câu, được viết theo thể thơ lục bát với âm điệu nhẹ nhàng tha thiết mang âm hưởng của ca dao dân ca, là lời ướm hỏi và sự giãi bày nỗi niễm, cảm xúc của cả người đi lẫn người ở lại.
2. Trước hết, mở đầu đoạn thơ là 4 câu thơ đầu là lời ướm hỏi chân thành của Việt Bắc với cán bộ kháng chiến trong giây phút ban đầu của cuộc chia tay:
“Mình về mình có nhớ ta.
…
Nhìn cây nhớ núi nhìn song nhớ nguồn”.
– Giọng thơ như chảy ra từ trong nguồn mạch của ca dao.
+ Cách xưng hô “mình- ta” cứ như lời bày tỏ tình yêu đôi lứa trong dân gian .Đại từ “mình” trong dân gian chỉ thể hiện ở cao trào của tình yêu khi hai con người hoá thân thành một. Ở đây, tác giả lấy phép màu nhiệm của tình yêu để cắt nghĩa, lý giải cho mối quan hệ gắn bó giữa các bộ với nhân dân.
+ Điệp ngữ và kết cấu câu hỏi tu từ “ mình về mình có nhớ” được láy lại 2 lần như khơi vào trong kỷ niệm của người đi và người ở.
+ Cách dùng những từ ngữ gợi ý niệm về thời gian “mười lăm năm…” làm cho nỗi nhớ càng như thăm thẳm .Con số mười lăm nămvừa mang nghĩa thực, vừa mang nghĩa hư ảo : đó là mười lăm năm các mạng. mười lăm năm chiến khu Việt Bắc nhưng đồng thời cũng là mười lăm năm gắn bó thuỷ chung giữa cán bộ kháng chiến với nhân dân Việt Bắc (như mối tình Kim- Kiều qua bao nhiêu năm thử thách vẫn hướng về nhau).
+ Cách dùng hình ảnh gợi ý niệm về không gian “cây…núi”; “sông…nguồn” làm cho nỗi nhớ bồng bềnh, thăm thẳm . Các cặp hình ảnh “cây-núi”; “sông-nguồn” cũng vừa mang nghĩa thực, vừa mang nghĩa ảo gợi được không gian núi rừng Việt Bắc với những nét riêng, đặc thù. Ngoài ra, nó còn gợi lên tình cảm chung thuỷ trong mối quan hệ cội nguồn : Cán bộ từ dân mà ra, nhớ về nhân dân như nhớ về cội nguồn.
+ Cách liên tưởng so sánh trong bài thơ đã nới rộng về không gian của nỗi nhớ, làm cho kỷ niệm cứ được tuôn ra tầng tầng lớp lớp.
3. Tiếp theo, 4 câu sau là sự thể hiện tâm trạng bâng khuâng, lưu luyến, bịn rịn của người đi với người ở lại:
“Tiếng ai tha thiết bên cồn
….
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”.
– Giây phút chia li trong tưởng tượng diễn ra cực kỳ sâu sắc với những cảm xúc ghìm nén trong tâm trạng của người đi :
+ Đại từ phiếm chỉ “ai” tạo nên một cõi mơ hồ, mông lung trong nỗi nhớ (như cách bày tỏ trong ca dao : Ai về ai có nhớ ai…).
+ Những từ láy “ tha thiết, bâng khuâng, bồn chồn” diễn tả chính xác con sóng lòng đang dấy lên trong tâm hồn nhà thơ lúc phân li.
+ Hình ảnh hoán dụ “aó chàm” (chỉ người Việt Bắc) đã thể hiện tình cảm gắn bó của nhà thơ với những người dân Việt Bắc giản dị, nghèo khổ mà sâu đậm ân tình.
+ Cách ngắt nhịp 3/3; 3/3/2 ở hai câu thơ cuối đoạn diễn tả mộc cách thân tình cái ngập ngừng ,bịn rịn trong tâm trạng, trong cử chỉ của người đi kẻ ở vẫn quyến luyến không thể rời xa.
III. Kết bài:
– Có thể nói, đây là một trong những đoạn thơ hay nhất của bản tình ca Việt Bắc, bởi lẽ :
+ Nhà thơ đã miêu tả rất đúng quy luật nỗi nhớ trong tình cảm của con người ở vào giờ phút chia li: nỗi nhớ nào cũng làm cho thời gian đằng đẵng và không gian mênh mông. Nhớ nhau , người ta tính từng khoảng cách. Có điều ở đây, chưa chia li mà đã nhớ. Người còn đấy, cảnh còn đây, mặt đối mặt mà lòng đã bâng khuâng , lưu luyến.
+ Dù miêu tả tình cảm mang tính chất chính trị, nhưng đoạn thơ không khô khan, trừu tượng bởi tác giả nắm vững quy luật của tình đời, tình người. Chính vì thế, đoạn thơ (nói riêng) ; “Việt Bắc” (nói chung) đã vượt qua ranh giới của thời đại, thấm sâu vào hồn của người đọc qua nhiều thế hệ.
Đề bài 3:
Cảm nhận của anh/chị về đoạn thơ sau đây:
“Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người.
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.”
(Trích “Việt Bắc”- Tố Hữu)
Gợi ý:
I. Mở bài:
– Kể về những thành tựu xuất sắc của văn học Việt Nam thời kì kháng chiến chống thưc dân Pháp xâm lược, có lẽ chúng ta không thể nào không nhắc đến “Việt Bắc” của Tố Hữu. Đây là một bài thơ mang đậm đà màu sắc dân tộc, tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu. Thông qua đó, tác giả thể hiện niềm nhớ thương tha thiết và tình cảm sắt son đầm thắm của nhân dân Việt Bắc với cách mạng, với Đảng, với Bác Hồ, đồng thời cũng thể hiện tình cảm của người cán bộ kháng chiến với thiên thiên, núi rừng và con người Việt Bắc.
– Đoạn thơ gồm năm câu lục bát nhắc lại những cảnh thân thiết và tươi đẹp nhất về cảnh và người Việt Bắc trong hồi ức của người cán bộ cách mạng miền xuôi:
“Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
………………
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung”
II. Thân bài:
Đoạn thơ được viết theo thể thơ lục bát với giọng thơ ngọt ngào tha thiết , diễn tả sâu sắc nỗi nhớ của người đi với Việt Bắc:
1. Hai câu đầu : Khái quát nỗi nhớ.
– Hoa và người là những gì đẹp nhất của núi rừng Việt Bắc.“hoa” là cách nói của nghệ thuật tượng trưng cho thiên nhiên và cũng là một bộ phận của thiên nhiên.
– Trong nỗi nhớ của người về, hoa và người là hai hình ảnh đồng hiện, soi chiếu vào nhau. Hoa là hình ảnh đẹp nhất của thiên nhiên; người là sản phẩm kỳ diệu tuyệt vời của tạo hoá. Vì vậy, khi nhớ người thì hiện lên bong hoa, khi nhớ hoa thì hiện lên bóng người à ngụ ý ngợi ca vẻ đẹp người ở lại.
2. Tám câu sau : Một bức tranh thiên nhiên Việt Bắc phong phú, rực rỡ, tươi thắm tượng trưng cho vẻ đẹp của bốn mùa:
a.Trước hết, bức tranh mùa đông với “Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi”:
– Mùa đông xuất hiện bằng màu một gam màu lạnh- nền xanh mênh mông tĩnh lặng của rừng già à gợi ra một xứ sở êm đềm, lặng lẽ, xa vắng…Trên cái nền màu lạnh ấy lại nổi lên một gam màu nóng của “hoa chuối đỏ tươi” (ở đây có thể liên tưởng : màu đỏ của hoa chuối gợi ra ý nghĩa tượng trưng cho màu đỏ của cách mạng mới được nhen nhóm, như xua đi cái lạnh ngàn năm của núi rừng mùa đông).
b.Tiếp theo,bức tranh mùa xuân với “Mơ nở trắng rừng” – một mùa xuân tràn ngập màu trắng của hoa mơà gợi sự dịu dàng, tinh khiết, thanh bạch, mộng mơ của tạo vật. Hai tiếng “trắng rừng” như làm cho khắp núi rừng bừng sáng hẳn lên. Đây là hình ảnh giàu tính hiện thực nhưng thấp thoáng ý nghĩa tượng trưng: nó như gợi lên nét đẹp trong sáng trong tâm hồn của con người Việt Bắc. Có thể nói, màu trắng của hoa mơ là màu sắc đặc trưng của núi rừng Việt Bắc.
c. Bức tranh mùa hè hiện lên trong nỗi nhớ người đi không chỉ có màu sắc, đường nét, ánh sang mà còn có cả âm thanh ngân vang của tiếng ve gọi hè: “ve kêu rừng phách…”. Ve kêu gọi hè, hè về là rừng phách chuyển màu. Sống ở Việt Bắc, con người thường hay có cảm xúc bang khuâng trước những hình ảnh kỳ lạ của rừng phách: trong những ngày cuối xuân, nụ hoa vẫn náu kín trong những kẽ lá. Khi tiếng ve cất lên thì chúng nhất loạt trổ hoa vàng. Cách dùng từ “đổ” khá tinh tế, nhấn mạnh sự mau lẹ đột ngột của quá trình chuyển đổi của cây lá, nó diễn tả sức mạnh của những trận mưa hoa vàng khi gió thổi, ve kêu gọi hè.
d. Bộ bức tranh bốn mùa kết thúc bằng bức tranh thu : đêm thu có ánh trăng rọi qua vòm lá tạo thành khung cảnh huyền ảo. Cảnh tượng này thích hợp với việc bộc lộ tâm tư thầm kín dành cho bộc lộ tâm tư thầm kín dành cho thời điểm kết thúc những cuộc hát giao duyên . Câu thơ gợi không khí thanh bình,yên ả, báo hiệu sự bắt đầu cuộc sống yên vui. Câu thơ cũng gợi sự hoà hợp giữa thiên nhiên (rừng thu) với vũ trụ (trăng) với cuộc sống thanh bình yên vui trong sự hoà hợp của những tấm lòng nhân ái giữa người đi và người ở lại.
3. Hình ảnh con người Việt Bắc:
Bên cạnh nỗi nhớ thiên nhiên là nỗi nhớ con người Việt Bắc. Con người là hình ảnh luôn được đan cài, xen kẽ, hoà hợp với thiên nhiên. Sau mỗi câu lục nói về hoa là đến câu bát nói về người . Con người gắn bó khăng khít với thiên nhiên làm cho thiên nhiên bớt vẻ hoang sơ và thêm có hồn. Giữa thiên nhiên gợi cảm, con người hiện lên thật bình dị, đáng yêu và luôn gắn bó với lao động :
– Hình ảnh con người trong mùa đông hiện lên với một dáng vẻ, tư thế hiên ngang trong lao động “ dao gài thắt lưng”; mùa xuân lại gắn với bàn tay dịu dàng, cần mẫn của các cô gái “chuốt từng sợi giang” (hình ảnh giống như cảnh phim quay chậm, không chỉ giúp người đọc thấy rõ đường nét, hình khối, động tác của người lao động mà còn thấy cả ý nghĩ đắn đo, thận trọng, tỉ mỉ trong từng công việc).
– Hình ảnh “cô em gái hái măng một mình” trong mùa hạ vừa gợi sự cần cù, chăm chỉ, kiên nhẫn lại vừa gợi cái không gian bao la, mênh mông của núi rừng Việt Bắc.
– Nhớ người Việt Bắc, người về còn nhớ cả “tiếng hát ân tình thuỷ chung” . Đó là tâm hồn, là tình cảm của những con người miệt mài, chăm chỉ với công việc, lặng lẽ mang trong mình những rung động, cảm xúc trước đất trời, trước cuộc đời.
3. Thiên nhiên và con người đã hòa quyện vào nhau, tô điểm cho nhau.
– Bao trùm cả đoạn thơ là tình cảm nhớ thương tha thiết tiếp tục âm hưởng chung của nghệ thuật ca dao:
+ Câu thơ lục bát nhịp nhàng, uyển chuyển, ý nọ gợi ý kia cứ trào lên dào dạt trong lòng người ra đi và người ở lại.
+ Đặc biệt là qua cách xưng hô “mình” với “ta”. Ở đây điệp từ “nhớ” dùng để xoáy sâu vào cảm hứng chủ đạo là hồi ức. Từ “rừng” lặp lại là khoảng không gian cho nỗi nhớ tồn tại. Màu sắc cũng ảnh hưởng không ít tới bức tranh, đỏ lặng lẽ, nhưng có sức sống. Màu con dao thể hiện sự hoạt động. Màu trắng làm thanh thoát con người và màu vàng làm cho bức tranh rực rỡ trong hoàng hôn. Rõ ràng bức tranh đã có sự hòa điệu của màu sắc.
+ Bên cạnh đó,nhạc đệu dịu dàng trầm bổng khiến cả đoạn thơ mang âm hưởng bâng khuâng, êm êm như một khúc hát ru – khúc hát ru kỉ niệm.
→ Có lẽ khúc hát này không của ai khác là của “ta” và cho người nhận là “mình”. Cả “ta” và “mình” đều cùng chung nỗi nhớ, cùng chung “Tiếng hát ân tình” và ân tình sâu nặng ấy mãi còn lưu luyến vấn vương trong những tâm hồn chung thủy.
– Trong bộ tranh bốn màu này, hoa – người đều đẹp lung linh, rạng rỡ, gắn bó mật thiết với nhau : hoa đứng cạnh người, người đứng cạnh hoa …tất cả như càng làm tôn lên vẻ đẹp của nhau.
– Có thể nói đây là đoạn thơ hay và có giá trị nhất trong bài “Việt Bắc”. Cảnh thiên nhiên và con người ở đây được miêu tả hết sức tuyệt vời và tươi đẹp, tràn ngập sức sống. Và với giọng thơ ngọt ngào, tâm tình khiến đoạn thơ như một bản tình ca về lòng chung thủy sắt son của người cách mạng đối với cả nhân dân, quê hương Việt Bắc.
Đề bài 4: Phân tích đoạn thơ sau đây:
Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng, bạn cùng mũ nan.
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.
(Trích “Việt Bắc”- Tố Hữu)
Bài tham khảo.
Tố Hữu là nhà thơ của lý tưởng cộng sản, lá cờ đầu của nền thơ ca cách mạng Việt Nam. Mỗi thời kỳ lịch sử đi qua, Tố Hữu đều để lại dấu ấn riêng mang đậm hồn thơ trữ tình chính trị:Từ ấy, Việt Bắc, Gió lộng, Ra trận, Máu và hoa… Trong đó, Việt Bắc là đỉnh cao của thơ Tố Hữu nói riêng và thơ ca chống Pháp nói chung. Bài thơ được làm vào tháng 10.1954, khi Trung ương Đảng và Chính phủ cùng cán bộ chiến sĩ rời chiến khu để về tiếp quản thủ đô Hà Nội. Lấy cảm hứng từ không khí của buổi chia tay lịch sử ấy, Tố Hữu đã xúc động viết nên bài thơ này. Đoạn thơ ta sắp phân tích sau đây là đoạn thơ để lại dấu ấn về nội dung và giá trị nghệ thuật đặc sắc nhất trong bài thơ Việt Bắc:
Những đường Việt Bắc của ta
………
Vui lên VB đèo De núi Hồng
Nếu như ở những đoạn thơ trước, Tố Hữu mang đến cho người đọc vẻ đẹp của tình nghĩa quân dân qua những kỷ niệm ngọt ngào gắn bó. Thì ở đoạn thơ này, nhà thơ đã đột ngột chuyển dòng. Không còn những dòng thơ ngọt ngào như ca dao nữa mà đoạn thơ này đã mang âm hưởng của cảm hứng sử thi hùng tráng. Đó là những hình ảnh gợi ra ấn tượng chung về sức mạnh của dân tộc trong kháng chiến, là hình ảnh của những đoàn quân ra trận vô tận điệp trùng, là hình ảnh hùng vĩ của cuộc chiến tranh nhân dân từ hình ảnh những đoàn dân công, là hình ảnh những đoàn xe cơ giới trên đường ra trận làm bừng sáng những đêm kháng chiến. Đó là khí thế của “40 thế kỷ cùng ra trận” ngời sáng trong trận chiến sinh tử với kẻ thù.
Trước hết đó là ấn tượng chung về sức mạnh của dân tộc ta trong kháng chiến với “những đường VB của ta… đất rung”. Đọc câu thơ ta đã thấy ngay âm hưởng hết sức hùng tráng của bài ca kháng chiến vang lên từ những điệp từ “đêm đêm”, từ láy “rầm rập”. Và từ gợi tả hình ảnh “đất rung”. Những từ ấy đều là những từ được cấu tạo bởi phụ âm nổ (đ – “đêm đêm”), những phụ âm rung (r – “rầm rập”). Ấn tượng ở những câu thơ này còn được nổi bật lên bởi ý nghĩa khái quát, ý nghĩa biểu trưng của hình ảnh con đường. Khi tác giả nói “những đường Việt Bắc” đó là những con đường vừa rất thực như tác giả từng viết “đường ta rộng thênh thang tám thước”. Đường Bắc Sơn, Đình Cả, Thái Nguyên, đường qua Tây Bắc, đường lên Điện Biên… những con đường mở ra cùng với chiến thắng của quân dân ta, nhưng cũng là con đường đầy ý nghĩa tượng trưng khái quát cả một quá trình đi lên của kháng chiến và cách mạng. Con đường đang dẫn tới thành công.
Hình ảnh một đất nước trong kháng chiến, của Việt Bắc trong tháng năm hào hùng bỗng trở nên rực sáng và hùng vĩ bởi hình ảnh những đoàn quân ra trận:
“Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng, bạn cùng mũ nan”
Còn nhớ ngày 22.12.1944, tại cây đa Tân Trào, đồng chí Võ Nguyên Giáp đã làm lễ xuất quân cho đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân (Tiền thân của QĐND Việt Nam). Khi ấy, đội quân mới chỉ có 34 người. Vậy mà mấy năm sau từ 34 người với trang bị vũ khí thô sơ, quân đội ta dã phát triển thành tinh nhuệ với “điệp điệp trùng trùng”. Điệp ngữ “điệp điệp trùng trùng” gợi lên sự đông đảo, lớn mạnh, đoàn quân như trải dài vô tận, vươn ra khắp núi rừng Việt Bắc. Sự tinh nhuệ ấy là sức mạnh vô địch chứng tỏ sự trưởng thành của quân dân ta, đồng thời cũng cho thấy, quân đội ta đã thực sự lớn mạnh cả về chất và lượng, có thể đương đầu với mọi kẻ thù to lớn.
Hình ảnh đoàn quân ra trận đã được cảm hứng lãng mạn tạo nên tầm vóc vũ trụ bởi hình ảnh ánh sao đầu súng, một hình ảnh rất thực nhưng đã vụt lớn lên bởi cảm hứng lãng mạn. Ba hình ảnh: súng – sao – mũ như đi cùng nhau. Khẩu súng tượng trưng cho ý chí đánh giặc của người lính, chiếc mũ là cách nói hoán dụ để nói về người lính nhưng đồng thời lại để chỉ tầm vóc vươn tới sao trời của người lính. Ánh sao là hình ảnh chỉ ngôi sao trên mũ người chiến sĩ. Sao cũng là biểu tượng của tổ quốc. Người lính ra chiến trận mang theo cả tổ quốc bên mình:
Anh vào bộ đội sao trên mũ
Vẫn mãi là sao sáng dẫn đường
Em mãi là hoa thơm trên đỉnh núi
Bốn mùa thơm mãi cánh hoa thơm
(Núi đôi – Vũ Cao)
Nhà thơ đã dùng thước đo vũ trụ để đo tầm vóc của người chiến sĩ cách mạng. Những người chiến sĩ đang hành quân ra trận. Đó là âm hưởng của những chữ “đi”, “điệp điệp”, “trùng trùng”. Từ hình ảnh ấy Tố Hữu như dựng lên trước mắt người đọc vẻ đẹp của những đoàn binh ra trận mà như một dải ngân hà lấp lánh đang cuồn cuộn đổ về phía tiền phương.
Trong bức tranh tổng hợp về sức mạnh của dân tộc ta trong kháng chiến, Tố Hữu còn dùng một màu sáng, một màu sáng chói loà để làm bừng lên vẻ đẹp hùng vĩ của cuộc chiến tranh nhân dân, dù chỉ qua một chi tiết về đoàn dân công. Đó là hình ảnh:
“Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đã muôn tàn lửa bay”
Câu thơ không hề có một chữ “điệp điệp”, “trùng trùng” nào mà ta vẫn thấy sự điệp trùng ấy. Đó là cảm giác có được bởi cấu trúc hết sức độc đáo của câu thơ. Tác giả không viết “từng đoàn dân công đỏ đuốc”, mà mở đầu câu thơ là hai chữ “dân công”, cuối câu thơ là hai chữ “từng đoàn”. Cấu trúc ấy gợi ra sự điệp trùng vô tận của những đoàn dân công. Ở đây là hình ảnh “bước chân nát đá muôn tàn lửa bay”. Hình tượng bàn chân là hình tượng biểu trưng cho sức mạnh của con người gắn liền với những chặng đường đấu tranh cách mạng. Ở đây hình ảnh bàn chân đã được thủ pháp phóng đại, cường điệu làm bừng sáng lên ánh sáng lãng mạn nhưng đầy khí thế oai hùng lẫm liệt tựa như “tam quân tì hổ khí thôn ngưu” (thế mạnh ba quân như hổ báo nuốt trôi trâu). Sức mạnh bàn chân ấy cũng đã từng được Tố hữu nhắc đến trong bài Ta đi tới:
Những bàn chân từ than bụi, lầy bùn
Đã bước dưới mặt trời cách mạng.
Những bàn chân của Hóc Môn, Ba Tơ, Cao Lạng
Lừng lẫy Điện Biên, chấn động địa cầu
Những bàn chân đã vùng dậy đạp đầu
Lũ chúa đất xuống bùn đen vạn kiếp!.
Với hai dòng thơ tiếp theo, bức tranh kháng chiến hiện lên với những hình ảnh mới. Đó là hình ảnh “Nghìn đêm thăm thẳm sương dày”, hình ảnh của những đoàn xe cơ giới ra trận. Sự hùng vĩ của nó được đo bằng thước đo của nghìn đêm lịch sử, “Nghìn đêm thăm thẳm sương dày” đã bị xua đi bởi “Đèn pha bật sáng như ngày mai lên”. Sự tương phản giữa quá khứ “thăm thẳm sương dày” với ánh sáng của “ngày mai lên” là sự tương phản làm nổi bật giá trị của nghìn đêm kháng chiến. Chữ “bật sáng” nhằm nhấn mạnh cái khoảnh khắc chói loà, kháng chiến chuyển sang thời kỳ mới, thời kỳ chiến thắng.
Bốn câu thơ cuối khép lại bằng niềm vui chiến thắng :
Tin vui chiến thắng trăm miền
…
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng
Tố Hữu sử dụng bốn câu thơ để miêu tả không khí chiến thắng đang dồn dập trên khắp đất nước. Cũng là một thủ pháp liệt kê nhưng những địa danh ở đây không gắn với chữ “nhớ” như ở những dòng thơ mở đầu của đoạn mà gắn với những chữ “vui” để thấy tin vui đang như bay lên từ khắp trăm miền. Kết cấu của bốn câu thơ này cũng là một kết cấu khá chặt chẽ. Câu một là cảm xúc bao quát: “Tin vui chiến thắng trăm miền”, còn ở câu sau nhằm thể hiện sự lan toả của những tin vui khắp trăm miền ấy. Vì thế những địa danh liên tiếp xuất hiện gắn liền với các tin vui chiến thắng. Sự liệt kê các địa danh chiến thắng cũng chứa đựng những giá trị tư tưởng-nghệ thuật. Đó là sự sắp xếp nhằm làm nổi bật tin vui như bay đi trong một tốc độ “siêu tốc”. Vừa mới đó là Hòa Bình – Tây Bắc – Điện Biên, tiếp sau đã là Đồng Tháp (Nam Bộ), An Khê (Tây Nguyên), lại đã là Việt Bắc, đèo De núi Hồng.
Tóm lại, đoạn thơ đã rất thành công khi thể hiện niềm vui chiến thắng của quân và dân ta trong những ngày kháng chiến chống thực dân pháp gian khổ nhưng rất đỗi hào hùng. Thành công ấy là nhờ vào một số thủ pháp nghệ thuật thể hiện: thể thơ lục bát truyền thống; ngôn ngữ sử thi hào hùng; hình ảnh thơ giàu sức sống; nhịp thơ dồn dập, nhiều điệp từ, điệp ngữ… tất cả đã tạo nên một đoạn thơ hùng tráng về những ngày sục sôi đánh Pháp. Hơn nửa thế kỷ trôi qua rồi mà sức sống mãnh liệt của thời đại ấy vẫn còn rực lửa trong trái tim mỗi con người Việt Nam.
Đề bài 5:
“Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bểÔi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ”
(Xuân Quỳnh – trích Sóng – Ngữ văn 12, Tập 1, tr. 155, Nxb Giáo dục, 2013)
Phân tích đoạn thơ trên để làm rõ sự tương đồng giữa các trạng thái tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu với những con sóng biển.
Gợi ý:
* Yêu cầu về kĩ năng: Thí sinh biết cách làm bài nghị luận về một đoạn thơ. Biết cách cảm nhận cái hay, vẻ đẹp của một đoạn thơ, bố cục rõ ràng, diễn đạt trong sáng, không mắc lỗi chính tả, dùng từ.
* Yêu cầu về kiến thức: Thí sinh hiểu đúng nội dung của đoạn thơ: những cảm nhận sâu sắc của Xuân Quỳnh về sóng và tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu. Bài làm có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng cần đáp ứng các ý cơ bản sau:
I. Mở bài:
– Xuân Quỳnh (1942 – 1988) là một trong những gương mặt tiêu biểu của thế hệ thơ trẻ thời chống Mĩ cứu nước. Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của một phụ nữ nhiều trắc ẩn, vừa hồn nhiên, tươi tắn, vừa chân thành, đằm thắm và luôn da diết trong khát vọng hạnh phúc bình dị đời thường.
– Sóng là bài thơ tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật thơ Xuân Quỳnh. Bài thơ được sáng tác năm 1967 trong chuyến đi thực tế của Xuân Quỳnh về vùng biển Diêm Điền – Thái Bình và được in trong tập Hoa dọc chiến hào (1968).
– Đoạn trích trên cho thấy rõ sự tương đồng giữa các trạng thái tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu với những con sóng biển.
II. Thân bài:
* Nội dung:
– Sóng được cảm nhận với hai tính chất, trạng thái mâu thuẫn, đối lập và thống nhất: dữ dội >< dịu êm; ồn ào >< lặng lẽ. Sóng cũng như tâm hồn người phụ trong tình yêu. Khi yêu, họ sống với những trạng thái biến động của tâm hồn, lúc nồng nàn, say đắm, mãnh liệt; lúc dịu dàng, lắng sâu.
– Sóng luôn khao khát tìm ra biển rộng cũng như người phụ nữ luôn khao khát tình yêu rộng lớn, đồng cảm, bao dung.
– Sóng được cảm nhận như sự tồn tại vĩnh hằng với thời gian (Ôi con sóng ngày xưa/ Và ngày sau vẫn thế) như muôn đời con người vẫn mãi tìm đến với tình yêu; đặc biệt, với tuổi trẻ, tình yêu mãi mãi là một khát vọng bồi hồi.
* Nghệ thuật:
– Thể thơ năm tiếng với cách gieo vần, ngắt nhịp linh hoạt gợi âm hưởng những con sóng dào dạt, nhịp nhàng, đó cũng là con sóng lòng với nhiều trạng thái, cung bậc tâm hồn của người phụ nữ.
– Kết cấu song trùng sóng và em, nghệ thuật ẩn dụ, nhân hóa được vận dụng sáng tạo góp phần tạo nên sức sống, vẻ đẹp của hình tượng sóng trong mối quan hệ tương đồng với trái tim, tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu.
* Đánh giá.
– Qua đoạn thơ, Xuân Quỳnh thể hiện vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ: chân thành, sâu sắc, chủ động, mãnh liệt, minh bạch, quyết liệt trong tình yêu.
– Đoạn thơ đã góp phần làm nên thành công bài thơ Sóng và tên tuổi Xuân Quỳnh, thi sĩ của tình yêu.
Đề bài 6: Phân tích đọan thơ sau đây trong đọan trích “Đất Nước” (Trích trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm:
“Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”
Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ
Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng
Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”.
Gợi ý:
I/ Mở bài:
– Nguyễn Khoa Điềm (1943) thuộc thế hệ nhà thơ chống Mỹ cứu nước. Đất nước, nhân dân, cách mạng luôn là nguồn cảm hứng phong phú của thơ ông.
– “Đất nước” là một đọan trích thuộc chương V trong bản trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm, sáng tác năm 1971, tại chiến trường Bình Trị Thiên.
– Có thể nói, bằng giọng thơ sôi nổi thiết tha, hình ảnh thơ sinh động và gợi cảm…đọan thơ sau đây trong “Đất Nước” có thể xem như là những định nghĩa về đất nước thật mới mẻ và độc đáo của nhà thơ :
“Đất là nơi anh đến trường
……
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”.
II/ Thân bài :
– Nếu như chín câu thơ đầu của đọan thơ là sự trả lời của nhà thơ cho câu hỏi : Đất nước có từ bao giờ? Thì ở 16 câu thơ này, nhà thơ tiếp tục bày tỏ sự cảm nhận của mình về đất nước để trả lời cho câu hỏi : Đất nước là gì?
– Câu hỏi đã được nhà thơ trả lời bằng cách nêu ra những định nghĩa về đất nước ở hai phương diện : không gian địa lý và thời gian lịch sử .
+ Trước hết, về không gian địa lý, đất nước là nơi sinh sống của mỗi người :
“Đất là nơi anh đến trường,
Nước là nơi em tắm”.
+ Không những vậy, đất nước còn là nơi tình yêu lứa đôi nảy nở say đắm, thiết tha .Đó là “nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”. Đất nước còn là núi sông, rừng bể, là “hòn núi bạc”, là “nước biển khơi”. Và còn nữa, đất nước còn là không gian sinh tồn của cộng đồng qua nhiều thế hệ với “những ai đã khuất…những ai bây giờ…”
+ Cùng với cách cảm nhận về đất nước ở phương diện không gian địa lý, nhà thơ còn cảm nhận đất nước ở phương diện thời gian lịch sử. Ở phương diện này, đất nước có cả chiều sâu và bề dày được nhận thức từ huyền thoại Lạc Long Quân và Âu Cơ, từ truyền thuyết Hùng Vương và ngày giỗ Tổ .
– Đoạn thơ với cấu trúc ngôn ngữ “Đất là…, Nước là…Đất Nước là…” , nhà thơ đã định nghĩa bằng cách tư duy “chiết tự” để giải thích, cắt nghĩa hai tiếng Đất Nước thiêng liêng bằng tinh thần luận lí chân xác. Nếu tách ra làm những thành tố ngôn ngữ độc lập thì Đất và Nước chỉ có ý nghĩa là không gian sinh tồn về mặt vật chất của con người cá thể. Nhưng nếu hợp thành một danh từ thì “Đất Nước” lại có ý nghĩa tinh thần thiêng liêng, chỉ không gian sinh sống của cả một cộng đồng người như anh em một nhà.
– Cách sử dụng sáng tạo các yếu tố ca dao, truyền thuyết dân gian nhà thơ đã lý giải một cách sinh động , cụ thể cho câu hỏi: Đất nước là gì? Từ đó , hình ảnh đất nước hiện lên qua đọan thơ vừa gần gũi – cụ thể, vừa thiêng liêng – khái quát trên cả bề rộng không gian địa lý mênh mông và thời gian lịch sử đằng đẵng của dân tộc.
III/ Kết bài:
– Đoạn thơ là những định nghĩa đa dạng, phong phú về đất nước từ chiều sâu văn hóa dân tộc, xuyên suốt chiều dài của thời gian lịch sử đến chiều rộng của không gian đất nước.
– Nhà thơ cũng vận dụng rộng rãi các chất liệu văn hóa dân gian để cảm nhận và định nghĩa về đất. Từ đó, đoạn thơ giúp cho chúng ta hiểu và gắn bó hơn với đất nước, quê hương mình bằng một tình yêu và ý thức trách nhiệm sâu sắc .
Đề bài 7: Phân tích đọan thơ sau đây trong đọan trích “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm:
“Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng mình hài hoà nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất nước vẹn tròn, to lớn
Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang đất nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó san sẻ
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời…”.
Gợi ý:
I/ Mở bài:
– Nguyễn Khoa Điềm (1943) thuộc thế hệ nhà thơ chống Mỹ cứu nước.Đất nước, nhân dân, cách mạng luôn là nguồn cảm hứng phong phú của thơ ông.
– “Đất nước” là một đọan trích thuộc chương V trong bản trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm, sáng tác năm 1971, tại chiến trường Bình Trị Thiên.
– Đọan thơ sau đây là những lời nhắn nhủ tâm tình về sự gắn bó và trách nhiệm của mỗi người với đất nước :
“Trong anh và em hôm nay,
…….
Làm nên Đất Nước muôn đời”.
II/ Thân bài :
– Sau những cảm nhận mới mẻ và sâu sắc của nhà thơ về đất nước qua những phương diện không gian – địa lý, thời gian – lịch sử, phong tục- văn hóa … Nguyễn Khoa Điềm đã đi đến khẳng định :
“Trong anh và em hôm nay,
Đều có một phần Đất Nước”.
+ Đây là một sự thực mà mỗi người Việt Nam ai cũng đều cảm thấy. Đất nước đã hóa thân vào mỗi con người, bởi chúng ta đều là con Rồng, cháu Tiên, đều sinh ra và lớn lên trên đất nước này. Mỗi người Việt Nam đều đã và đang thừa hưởng những giá trị vật chất, tinh thần của đất nước thành máu thịt, tâm hồn, nếp cảm, nếp nghĩ và cách sống của mình.
– Từ việc khẳng định: đất nước hóa thân và kết tinh trong cuộc sống của mỗi người, nhà thơ tiếp tục nói về mối quan hệ gắn bó sâu sắc của mỗi người với đất nước bằng những dòng thơ giàu chất chính luận :
“Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn, to lớn”
– Với những cảm nhận tinh tế, mới mẻ về sự hòa quyện giữa cái riêng và cái chung, giữa tình yêu và niềm tin, đồng thời kết hợp sử dụng các tính từ “hài hòa, nồng thắm”; “vẹn tròn, to lớn” đi liền nhau; đặc biệt là kiểu câu cấu tạo theo hai cặp đối xứng về ngôn từ (“Khi / Khi; Đất Nước / Đất Nước), nhà thơ muốn gửi đến cho người đọc bức thông điệp: đất nước là sự thống nhất hài hòa giữa tình yêu đôi lứa với tình yêu Tổ quốc, giữa cá nhân với cộng đồng.
– Không chỉ khẳng định mối quan hệ gắn bó giữa Đất nước và nhân dân, giữa tình yêu cá nhân với tình yêu lớn của đất nước; nhà thơ còn thể hiện niềm tin mãnh liệt vào tương lai tươi sáng của đất nước :
“Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng”.
ba dòng thơ đã mở ra một tầng ý nghĩa mới, đó là niềm tin mãnh liệt vào tương lai tươi sáng của đất nước.Thế hệ sau “con ta lớn lên sẽ mang Đất Nước đi xa- Đến những tháng ngày mơ mộng”. Đất nước sẽ đẹp hơn, những tháng ngày mơ mộng ở hiện tại sẽ trở thành hiện thực ở ngày mai.
– Khi đã hiểu hết ý nghĩa thiêng liêng của đất nước, nhà thơ muốn nhắn gửi với mọi người :
“Em ơi em Đất nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời…”
– Giọng văn trữ tình kết hợp với chính luận; bằng cách sử dụng câu cầu khiến, điệp ngữ “phải biết – phải biết” nhắc lại hai lần cùng các động từ mạnh “gắn bó, san sẻ, hóa thân” …nhà thơ như nhắn nhủ mình, nhưng cũng là nhắn nhủ với mọi người (nhất là thế hệ trẻ) về trách nhiệm thiêng liêng của mình với đất nước. Cái hay là lời nhắn nhủ mang tính chính luận nhưng lại không giáo huấn mà vẫn rất trữ tình, tha thiết như lời tự dặn mình, dặn người của nhà thơ.
III/ Kết bài:
– Tóm lại, đây là một trong những đọan thơ hay và sâu sắc trong “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm. Bởi lẽ, qua đọan thơ, nhà thơ đã giúp cho chúng ta hiểu hơn về sự gắn bó giữa mỗi người với đất nước. Từ đó, ý thức hơn về trách nhiệm của mỗi người với đất nước quê hương.
– Đồng thời, đọan thơ cũng giúp ta thấy được vẻ đẹp trong phong cách thơ trữ tình – chính luận của nhà thơ.
Đề bài 8: Phân tích đọan thơ sau đây trong đọan trích “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm:
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo giúp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên.
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta…”
Gợi ý:
I/ Mở bài:
– Nguyễn Khoa Điềm (1943) thuộc thế hệ nhà thơ chống Mỹ cứu nước. Đất nước, nhân dân, cách mạng luôn là nguồn cảm hứng phong phú của thơ ông.
– “Đất Nước” là một đọan trích thuộc chương V trong bản trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm, sáng tác năm 1971, tại chiến trường Bình Trị Thiên.
– Đọan thơ sau đây là sự khẳng định của nhà thơ về vai trò của nhân dân trong việc làm nên không gian địa lý – bức tranh văn hóa đất nước muôn màu muôn vẻ :
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi vọng phu,
…..
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta”.
II/ Thân bài:
– Đây là 12 câu thơ mở đầu phần hai của đọan thơ “Đất Nước” với nội dung ngợi ca, khẳng định tư tưởng đất nước của nhân dân.
– Trước hết, tác giả nêu ra một cách nhìn mới mẻ, có chiều sâu địa lý về những danh lam thắng cảnh trên khắp các miền đất nước. Nhà thơ đã kể, liêt kê một loạt kì quan thiên nhiên trải dài trên lãnh thổ từ Bắc vào Nam như muốn phác thảo tấm bản đồ văn hóa đất nước. Đây là những danh lam thắng cảnh do bàn tay tự nhiên kiến tạo nhưng từ bao đời nay, ông cha ta đã phủ cho nó tính cách, tâm hồn, lẽ sống của dân tộc.Những ngọn núi, những dòng sông kia chỉ trở thành thắng cảnh khi nó gắn liền với con người, được cảm thụ qua tâm hồn, qua lịch sử dân tộc.
+ Trong thực tế, bao thế hệ người Việt đã tạc vào núi sông vẻ đẹp tâm hồn yêu thương thủy chung để ta có những “núi Vọng Phu”, những “hòn Trống mái” như những biểu tượng văn hóa. Hay vẻ đẹp lẽ sống anh hùng của dân tộc trong buổi đầu giữ nước để ta có những “ao đầm”…như những di tích lịch sử về quá trình dựng nước và giữ nước hào hùng…
“Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên
Con cóc, con gà quê hương cũng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh”.
+ Thật sự, nếu không có những người vợ mòn mỏi chờ chồng cả thời chinh chiến thì không có sự cảm nhận về núi Vọng Phu. Cũng như nếu không có truyền thuyết Hùng Vương dựng nước thì không thể có sự cảm nhận nét hùng vĩ của núi đồi quanh đền Hùng. Nói cách khác, những núi Vọng Phu, những hòn Trống Mái, những núi Bút, non Nghiên không còn là những cảnh thiên nhiên thuần túy nữa, mà được cảm nhận thông qua những cảnh ngộ, số phận của nhân dân, được nhìn nhận như là những đóng góp của nhân dân, sự hóa thân của những con người không tên, không tuổi.
– Thiên nhiên đất nước, qua cái nhìn của Nguyễn Khoa Điềm, hiện lên như một phần tâm hồn, máu thịt của nhân dân. Chính nhân dân đã tạo dựng nên đất nước này, đã đặt tên, ghi dấu vết cuộc đời mình lên mỗi ngọn núi, dòng sông, tấc đất này. Từ những hình ảnh, những cảnh vật, hiện tượng cụ thể, nhà thơ đã “quy nạp” thành một khái quát sâu sắc:
“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta…”.
– Với cấu trúc quy nạp (đi từ liệt kê các hình ảnh, địa danh…đến khái quát mang tính triết lý), dường như nhà thơ không thể kể ra hết những danh lam thắng cảnh và những nét đẹp văn hóa dân tộc vô cùng phong phú, đa dạng trên khắp đất nước. Nên cuối cùng, nhà thơ đã khẳng định: trên không gian địa lý đất nước, mỗi địa danh đều là một địa chỉ văn hóa được làm nên bằng sự hóa thân của bao cuộc đời, bao tâm hồn người Việt.
– Động từ góp được nhắc lại nhiều lần nhấn mạnh những đóng góp và hi sinh thầm lặng của nhân dân.
III/ Kết bài:
– Đoạn thơ thể hiện được đặc điểm tiêu biểu của trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm : chất chính luận hài hòa với chất trữ tình, giọng thơ tự sự; ngôn từ, hình ảnh đẹp, giàu sức liên tưởng.
– Viết về đề tài đất nước – một đề tài quen thuộc, nhưng thơ Nguyễn Khoa Điềm vẫn mang những nét riêng, mới mẻ, sâu sắc. Những nhận thức mới mẻ về vai trò của nhân dân trong việc làm nên vẻ đẹp của đất nước ở góc độ địa lý – văn hóa càng gợi lên lòng yêu nước, tinh thần trách nhiệm với đất nước cho mỗi người.
b. Dạng đề nghị luận về một tác phẩm thơ.
Đề bài 1: Anh (chị) cảm nhận được gì về vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu qua bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh?
Gợi ý:
- Mở bài:
– Bài thơ sáng tác tại biển Diêm Điền năm 1967, in trong tập thơ Hoa dọc chiến hào (1968).
– Sóng là một bài thơ tình đặc sắc của Xuân Quỳnh và của thơ ca hiện đại Việt Nam. Bài thơ là nỗi niềm yêu thương tha thiết, đầy trăn trở và khát khao hoàn thiện mình của người phụ nữ đang yêu được soi chiếu qua một hình tượng nghệ thuật độc đáo- hình tượng sóng và cũng rất tiêu biểu cho vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam hiện đại.
- Thân bài:
1. Cảm nhận vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu
a. Về nội dung:
– Người phụ nữ mạnh dạn chủ động bày tỏ khao khát yêu thương mãnh liệt,những rung động rạo rực của lòng mình: Dữ dội và dịu êm / Ồn ào và lặng lẽ → tâm lí phức tạp của trái tim đang yêu lúc nồng nàn sâu lắng, lúc sôi nổi dịu dàng.
– Người phụ nữ không chấp nhận sự tầm thường,nhỏ hẹp mà luôn vươn tới cái lớn lao có thể đồng cảm ,đồng điệu với mình: Sông không hiểu nổi mình / Sóng tìm ra tận bể → khát khao yêu thương nhưng không nhẫn nhục, cam chịu.
– Người phụ nữ yêu say đắm, nhớ lạ lùng, thủy chung trong sáng: Lòng em nhớ đến anh / Cả trong mơ còn thức hay Nơi nào em cũng nghĩ / Hướng về anh một phương→ tình yêu chân thành phải gắn liền với sự thủy chung.
– Khát vọng có được một tình yêu vĩnh hằng, bất tử; được sống trọn vẹn trong tình yêu: làm sao được tan ra, để ngàn năm còn vỗ → cuộc đời có hạn nhưng tình yêu vô hạn.
b. Về nghệ thuật:
– Nghệ thuật ẩn dụ: mượn hình tượng sóng để thể hiện tình yêu một cách sinh động.
– Thể thơ năm tiếng với nhịp điệu linh hoạt, nhịp nhàng gợi âm vang của sóng.
– Ngôn từ giản dị, trong sáng, hình ảnh thơ giàu sức gợi.
– Kết cấu song hành cùng phép đối.
3. Đánh giá:
– Sóng là vẻ đẹp của người phụ nữ đam mê sống, đam mê yêu trong thơ Xuân Quỳnh.
– Sóng góp thêm một tiếng nói, một cách diễn tả độc đáo đề tài muôn thuở của loài người – tình yêu.
Đề bài 2: Sức hấp dẫn của bài thơ Sóng (Xuân Quỳnh)?
Gợi ý:
- Mở bài:
– Giới thiệu xuất xứ bài thơ Sóng.
– Bài thơ ra đời đã gần nửa thế kỉ, hoàn cảnh lịch sử – xã hội, tâm lí con người, nhất là tâm lí lứa tuổi thanh niên đã có nhiều thay đổi nhưng bài thơ vẫn còn nguyên sức hấp dẫn mạnh mẽ. Điều gì đã tạo nên sức hấp dẫn lâu bền ấy?
- Thân bài:
Sức hấp dẫn lâu bền của bài thơ chính là những tìm tòi sáng tạo của tác giả trong cả hai phương diện: nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật thơ.
1. Sức hấp dẫn về nội dung tư tưởng.
– Sóng bộc lộ một khát vọng tình yêu chân thành sau đắm, thuỷ chung rất có cá tính của Xuân Quỳnh vừa chạm đúng chiều sâu khát vọng tình yêu muôn thuở của con người nhất là tuổi trẻ.
– Bằng hình tượng sóng nhà thơ đã khái quát được các trạng thái đối nghịch trong tâm trạng người đang yêu và khát vọng vươn tối môi trường cao rộng tự do trong tình yêu, vượt qua những định kiến hẹp hòi, những gò bó vô nghĩa. Nhà thơ đã khái quát được một gương mặt đích thực của tình yêu luôn tồn tại cùng nhân loại (khổ 1-2).
– Bài thơ đã nói hộ những trăn trở, băn khoăn, nhu cầu lí giải cội nguồn của tình yêu và lời thú nhận thành thật sự bất lực của con người _ nhận thức trong hành trình đi tìm lời giải đáp cho điểm khởi nguồn đầy bí ẩn của tình yêu ( khổ 3-4).
– Bài thơ đã miêu tả , thể hiện thật sống động, đầy day dứt những trạng thái thường trực của tình yêu: nỗi nhớ , khao khát hướng về nhau có nhau, khát vọng chung thuỷ (Khổ 5-6-7).
– Bài thơ đã diễn tả được những suy tư rất nhân bản về cuộc đời và bày tỏ khát vọng vĩnh viễn hoá tình yêu của mỗi con người, mỗi cuộc đời vào tình yêu vĩnh hằng của nhân loại ( khổ 8+9).
Với bấy nhiêu lời giãi bày của nữ sĩ, tất thảy những người đang yêu, người đã yêu có thể tìm thấy sự đồng điệu ở thi phẩm đặc sắc này.
2. Sức hấp dẫn về nghệ thuật.
Thể hiện rõ nét ở những tìm tòi nghệ thuật đáng trân trọng sau:
– Nghệ thuật xây dựng hình ảnh: Hình ảnh trung tâm là sóng hiện diện suốt chiều dài bài thơ với nhiều biểu hiện độc đáo; những nét đối lập trong tính cách (dữ dội , ồn ào/ dịu êm, lặng lẽ); sóng nhớ bờ, hướng vào bờ, biển lớn tình yêu. Những hình ảnh ấy trùng khít với những trạng thái của tâm trạng của nhân vật trữ tình – người con gái đang yêu, say đắm hết mình.
– Về nghệ thuật kết cấu:
Bài thơ kết cấu theo lối phát triển song song và đan cài vào nhau giữa sóng và “em” – cái tôi trữ tình của nhà thơ để soi chiếu, bổ sung, bồi thấm tạo nên một lực hấp dẫn lớn: Ôi con sóng nhớ bờ / Ngày đêm không ngủ được/ Lòng em nhớ đến anh/ Cả trong mơ còn thức.
Bài thơ đã xây dựng được một hình tượng âm thanh sóng vỗ suốt từ dòng đầu đến dòng cuối và mãi vang vọng dư ba nhờ việc lựa chọn đắc địa thể thơ 5 chữ, nhịp thơ nhanh tươi tắn; sử dụng linh hoạt phép điệp, phép song hành.
3/ Nhận định, đánh giá
– Về nội dung: Sóng biểu hiện một hồn thơ có khát vọng về một tình yêu đích thực, lớn lao và vĩnh hằng mà cũng rất đời thường. Tình yêu trong bài thơ mang vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam ân nghĩa, thuỷ chung nhưng cũng thật hiện đại: đó là một tình yêu tự do, chân thành, say đắm và biết hi sinh của người phụ nữ.
-Về nghệ thuật: Bài thơ là một khúc nhạc lòng sôi nổi trào dâng, một hình tượng đẹp của khát vọng tình yêu. Tạo được hiệu quả nghệ thuật mạnh mẽ ấy là do thi phẩm đạt đến sự hoà quyện tuyệt vời giữa nội dung và hình thức thể hiện.
- Kết bài:
– Sóng có sức hấp dẫn lớn cả về nội dung lẫn nghệ thuật thể hiện.
– Sóng có sức sống lâu bền vì đã tạo nên một “sức đồng cảm mãnh liệt và quảng đại” ở người đọc nhiều thế hệ.
4. Dạng đề so sánh văn học
a. Dạng đề so sánh yêu cầu chỉ ra sự giống nhau giữa các đối tượng
Đề bài: Nét chung trong phong cách nghệ thuật của các nhà thơ Quang Dũng, Tố Hữu, Nguyễn Khoa Điềm được thể hiện qua các bài thơ Tây Tiến, Việt Bắc và đoạn trích Đất Nước?
Gợi ý:
1/ Phong cách nghệ thuật là gì? Biểu hiện của phong cách nghệ thuật?
2/ Mặc dù nói đến phong cách nghệ thuật là nói đến cái riêng sự độc đáo của người nghệ sĩ trong sáng tác nhưng trong những trường hợp đặc biệt như: các tác giả cùng chung phương pháp sáng tác, mục đích sáng tác, hoàn cảnh sáng tác …thì ngoài nét riêng không trộn lẫn họ còn có sự gặp gỡ, điểm chung trong phong cách sáng tác.
3/ Quang Dũng, Tố Hữu, Nguyễn Khoa Điềm là những nhà thơ tiêu biểu của văn học Việt Nam 1945-1975 nên có gặp gỡ trong một số nét phong cách.
a/ Giới thiệu thật ngắn gọn 3 tác giả tác phẩm.
b/ Nét chung trong phong cách nghệ thuật của 3 nhà thơ.
– Các tác phẩm của họ đều mang đặc điểm của văn học Việt Nam giai đoạn 1945-1975 hay nói cách khác “phong cách văn học của thời đại chi phối sự hình thành phong cách nghệ thuật của các nhà văn và ngược lại” (SGK Ngữ văn 12 nâng cao trang 171).
+ Văn học phục vụ cách mạng, cổ vũ chiến đấu.
+ Văn học hướng về đại chúng.
+ Văn học chủ yếu mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn.
– Biểu hiện cụ thể:
+ Về đề tài: Các tác giả thường viết về đề tài Tổ quốc, nhân dân, người lính và đề cập đến những vấn đề trọng đại liên quan đến vận mệnh của dân tộc và cộng đồng.
+ Về nhân vật trung tâm: là nhân dân anh hùng (người lính trong Tây Tiến, những người kháng chiến trong Việt Bắc, những con người bình dị vô danh làm nên Đất Nước trong đoạn trích Đất Nước).
+ Giọng điệu, cảm hứng chính: là cảm hứng tự hào, ngợi ca – ca ngợi Tổ quốc, ca ngợi nhân dân, ca ngợi những tình cảm lớn (đồng chí, tình yêu quê hương đất nước, tình quân dân, tình cảm với người lính, tình yêu lãnh tụ); lạc quan, tin tưởng vào tương lai tươi sáng của dân tộc…
+ Về ngôn ngữ: trong sáng, dễ hiểu, sử dụng các biện pháp nghệ thuật tu từ truyền thống gần gũi, quen thuộc với đông đảo quần chúng nhân dân….
c/ Lí giải vì sao có sự giống nhau:
– Các tác giả đều là những người con ưu tú trực tiếp tham gia vào cuộc chiến của dân tộc (nhà thơ-chiến sĩ).
– Cùng sáng tác dưới ánh sáng soi đường của Đảng, đề cương văn hoá của Đảng.
– Cùng sáng tác trong 30 năm chiến tranh.
– Cùng có tình yêu Tổ quốc, nhân dân anh hùng,…
4/ Đánh giá:
– Nét chung trong phong cách nghệ thuật của các tác giả đã góp phần làm nên diện mạo của văn học Việt Nam 30 năm chiến tranh và cổ vũ chiến đấu.
– Ngoài nét chung mỗi tác giả vẫn có nét riêng đáp ứng yêu cầu nghiêm ngặt của sáng tạo nghệ thuật: không lặp lại người khác và không lặp lại chính mình (nêu qua phong cách nghệ thuật của mỗi nhà thơ).
– Các tác giả và tác phẩm của họ sẽ sống mãi cùng độc giả mọi thời đại bởi những đóng góp lớn lao cho nền văn học dân tộc và mỗi chúng ta tự hào về họ.
b. Dạng đề so sánh yêu cầu chỉ ra sự khác nhau giữa các đối tượng
Đề bài: Khi bàn về công việc sáng tạo nghệ thuật, M. Goorki khuyên các nhà văn: “Bạn hãy giữ lấy cái gì là riêng của mình, làm sao cho nó phát triển tự do”.Anh/chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy phân tích vẻ đẹp của hình tượng dòng sông trong hai doạn thơ sau để làm nổi bật cái riêng của từng tác giả khi khắc họa hình tượng đó:“Rải rác biên cương mồ viễn sứChiến trường đi chẳng tiếc đời xanhÁo bào thay chiếu anh về đấtSông Mã gầm lên khúc độc hành”(Tây Tiến – Quang Dũng, Ngữ văn 12, Tập 1, NXB Giáo dục, 2008, tr.89)“Ôi những dòng sông bắt nước từ đâuMà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hátNgười đến hát khi chèo đò kéo thuyền vượt thácGợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”(Đất Nước, trích Mặt đường khát vọng – Nguyễn Khoa Điềm, Ngữ văn 12, Tập 1, NXB Giáo dục, 2008, tr.122)
Gợi ý:
I. Yêu cầu về hình thức và kĩ năng.
Cần xác định đây là kiểu bài nghị luận văn học. Học sinh có thể có những cách làm khác nhau nhưng phải giải thích đúng câu nói của M. Goorki và phân tích hình tượng dòng sông để làm sáng tỏ “cái riêng”, sự sáng tạo của mỗi nhà thơ. Kết cấu chặt chẽ, viết văn lưu loát, có hình ảnh và cảm xúc; không mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp.
II. Yêu cầu về nội dung.
Trên cơ sở những hiểu biết cơ bản về kiến thức lí luận văn học, tác giả, tác phẩm thuộc phạm vi đề bài, học sinh cần làm rõ những nội dung sau:
1. Giải thích ý kiến của M. Goorki
– Cái riêng của mình mà M. Goorki nói đến ở đây chính là dấu ấn cá nhân, nét độc đáo, mới lạ, nổi bật về tư tưởng cũng như nghệ thuật, có phẩm chất thẩm mĩ của nhà văn trong sáng tạo nghệ thuật mà ta gọi là phong cách. Phong cách mang tính ổn định, ít nhiều chịu sự chi phối của phong cách thời đại.
– Phát triển tự do: được hiểu là phát triển không bị gò bó, trói buộc, không bị lệ thuộc, chi phối bởi người khác.
– Cả câu trên khẳng định vai trò, ý nghĩa quan trọng của nét riêng, cá tính sáng tạo trong phong cách nghệ thuật của nhà văn.
– Nét riêng trong sáng tác biểu hiện ở cách nhìn, cách cảm thụ, giọng điệu, sự sáng tạo các yếu tố nội dung cũng như hình thức tác phẩm…Đặc điểm riêng trong sáng tác là dấu ấn trưởng thành về bản lĩnh nghệ thuật của tác giả và làm nên phong cách độc đáo của nhà văn.
– Nhu cầu cuộc sống nói chung, văn học nói riêng là sự xuất hiện những nhân tố mới mẻ. Nếu không có cái riêng, sự độc đáo cá nhân thì văn học nghệ thuật sẽ đơn điệu và không còn hấp dẫn nữa.
2. Phân tích vẻ đẹp hình tượng dòng sông trong hai đoạn trích để làm nổi bật “cái riêng” của từng tác giả.
a. Giới thiệu chung về tác giả, tác phẩm, đoạn thơ
b. Vẻ đẹp của hình ảnh dòng sông trong Tây Tiến
– Hình ảnh dòng sông mã xuất hiện ở đầu bài thơ và lặp lại ở khổ thơ này. Lần đầu, sông Mã là đối tượng gợi niềm thương nhớ, hoài niệm về một thời Tây Tiến…Lần sau, Sông Mã độc hành tấu lên khúc nhạc trầm hùng tiễn đưa người lính Tây Tiến về với đất mẹ.
– Dòng sông được khắc họa với bút pháp lãng mạn, bi tráng, nghệ thuật nhân hóa gợi lên vẻ đẹp hào hùng, tráng lệ, thiêng liêng, bất tử hóa cái chết của người lính.
– Sông Mã là dòng sông tưởng niệm, tri ân, ngưỡng mộ…thể hiện tấm lòng của nhân dân, đất nước trước sự hi sinh cao cả của những chiến binh Tây Tiến.
b. Vẻ đẹp của hình tượng dòng sông trong Đất Nước.
– Hình ảnh dòng sông không gợi bóng hình những dòng sông Việt Nam mà mang vẻ đẹp chiều sâu văn hóa, lịch sử.
– Dòng sông được khắc họa với bút pháp trữ tình – chính luận, có vẻ đẹp hài hòa giữa lí trí và tình cảm, cảm xúc và trí tuệ, giàu chất triết lí.
– Dòng sông gắn với vẻ đẹp tâm hồn, tính cách Việt trong sự tiếp nhận, biến đổi làm nên vẻ đẹp đa dạng, phong phú của văn hóa dân tộc.
3. Đánh giá chung.
– Hai đoạn thơ cùng khắc họa hình ảnh dòng sông nhưng mỗi dòng sông đều hiện lên với vẻ đẹp riêng với bút pháp, phong cách nghệ thuật riêng mang đậm dấu ấn sáng tạo của mỗi tác giả:
+ Thơ Quang Dũng mang vẻ đẹp hồn nhiên, tinh tế, hào hoa, phóng khoáng, đậm chất lãng mạn; sáng tạo về hình ảnh, ngôn từ, giọng điệu…
+ Thơ Nguyễn Khoa Điềm có sự kết hợp giữa cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng, giọng thơ trữ tình – chính luận…
c. Dạng đề so sánh yêu cầu chỉ ra cả sự giống và khác nhau giữa các đối tượng.
Đề bài 1: Cảm nhận của anh/ chị về hai đoạn thơ sau:Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơiSài Khao sương lấp đoàn quân mỏiMường Lát hoa về trong đêm hơi( Trích “Tây Tiến”- Quang Dũng)Nhớ gì như nhớ người yêuTrăng lên đầu núi nắng chiều lưng nươngNhớ từng bản khói cùng sươngSớm khuya bếp lửa người thương đi về(Trích “Việt Bắc”- Tố Hữu)
Gợi ý:
– Quang Dũng ( 1921- 1988), Hà Nội. Ông là một nghệ sĩ đa tài với hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn.
– Tố Hữu ( 1920- 2002), Huế. Ông là một tác gia tiêu biểu có vị trí đặc biệt quan trọng, một nhà thơ tiêu biểu của dòng thơ cách mạng Việt Nam với hồn thơ đậm đà tính dân tộc.(0, 25 điểm)
– “Tây Tiến” (1948), “Việt Bắc” (1954) là những thành tựu đặc sắc của thơ ca kháng chiến chống Pháp, là những bài ca không thể nào quên về một thời gian khổ mà hào hùng hùng, hào hoa của lịch sử dân tộc.
– Đoạn thơ trong bài Tây Tiến:
+ Đoạn thơ bộc lộ nỗi nhớ da diết, vời vợi về miền Tây và người lính Tây Tiến. Thiên nhiên miền Tây xa xôi mà thân thiết, hoang vu mà thơ mộng; con người Tây Tiến gian khổ mà hào hoa..
+ Hình ảnh thơ có sự hài hoà nét thực nét ảo, vừa mông lung vừa gợi cảm về cảnh và người; nhạc điệu có sự hoà hợp giữa lời cảm thán với điệu cảm xúc (câu mở đầu như một tiếng kêu vọng vào không gian), giữa mật độ dày những âm vần (rồi, ơi, chơi vơi, mỏi, hơi) với điệp từ (nhớ / nhớ) và lối đối uyển chuyển (câu 3 với câu 4) đã tạo ra một âm hưởng tha thiết, ngậm ngùi.
– Đoạn thơ trong bài Việt Bắc
+ Đây là lời của người đi, khẳng định về xuôi sẽ nhớ Việt Bắc “ như nhớ người yêu”. Từ đó muốn nói nỗi nhớ của tình yêu là nỗi nhớ da diết nhất, thường trực nhất.
+ Sau lời khẳng định là những hình ảnh thiên nhiên và con người Việt Bắc đẹp như khúc hát đồng quê. Trăng đầu núi, nắng chiều lưng nương, bản khói cùng sương… là những hình ảnh rất đặc trưng cho khung cảnh núi rừng êm đềm, thơ mộng. Trên cái nền trữ tình là hình ảnh con người Việt Bắc tần tảo, chịu thương chịu khó. Con người và thiên nhiên hài hòa gắn bó trong nỗi nhớ người về xuôi.
+ Các hình ảnh trong hoài niệm nhưng hiện lên thật cụ thể, rõ nét, chứng tỏ sự gắn bó sâu sắc và nỗi nhớ thiết tha.
– So sánh:
– Điểm tương đồng giữa hai đoạn thơ: Đều bộc lộ nỗi nhớ của người trong cuộc: tha thiết, bồi hồi, sâu lắng về thiên nhiên và con người một thời gắn bó, yêu thương trong kháng chiến.
+ Việt Bắc sử dụng hình thức thơ lục bát, Tây Tiến sử dụng hình thức thơ thất ngôn trường thiên.
+ Nỗi nhớ của nhà thơ Quang Dũng được bộc lộ trực tiếp, cụ thể: Nỗi nhớ đơn vị cũ trào dâng, không kìm nén nỗi bật lên thành tiếng gọi “Tây Tiến ơi”. Hai chữ “chơi vơi”: vẽ ra trạng thái cụ thể của nỗi nhớ, hình tượng hoá nỗi nhớ là nỗi nhớ da diết, thường trực, ám ảnh; mênh mông, bao trùm cả không gian, thời gian.Trích đoạn thơ của Tố Hữu dùng nỗi nhớ trong tình yêu để khẳng định nỗi nhớ với quê hương cách mạng.
Đề bài 2: Đoạn thơ sau trong bài Việt Bắc của Tố Hữu:
Ta về, mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.
được coi là bức tranh tứ bình về Việt Bắc.
Đoạn thơ:Những đường Việt Bắc của ta
Ðêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Ðèn pha bật sáng như ngày mai lên.
được xem là bức tranh Việt Bắc ra quân.
Em hãy phân tích và so sánh hai bức tranh đó.
Gợi ý:
1. Nêu vấn đề cần nghị luận.
2. Phân tích 2 đoạn thơ.
a. Đoạn 1:
– Giải thích bức tranh tứ bình: loại tranh dân gian đặc biệt, miêu tả bốn mùa trong năm, mỗi mùa với một cảnh sắc riêng biệt, với những loại cây, loại hoa đặc trưng cho mùa đó. Qua bức tranh ấy, tác giả gửi vào đó ước mong và khát vọng hướng thiện của mình. Tranh thường treo trong nhà nhất là nhân dịp xuân về, tết đến, tạo ra một phong cảnh bốn mùa thanh đạm.
– Gọi đoạn thơ này của Tố Hữu là bức tranh tứ bình là phù hợp bởi ở đây Tố Hữu đã miêu tả rất đạt phong cảnh bốn mùa của núi rừng Việt Bắc với những nét đặc trưng riêng của từng mùa (phân tích lần lượt bức tranh bốn mùa Đông-Xuân- Hạ – Thu).
– Trong bức tranh ấy có gam màu xanh tĩnh lặng của núi rừng Việt Bắc làm nền. Lồng trong các bức tranh ấy là những nét chấm phá của hoạt động con người (phân tích dẫn chứng). Sự kết hợp giữa âm thanh và hình ảnh đã tạo ra sự sống động cho bộ tranh tứ bình này mà qua đó cảnh đẹp càng đẹp thêm, tình người được nhấn mạnh và toát lên một không khí đầm ấm, yên vui như là khát vọng hoà bình của con người nơi đây.
– Bức tranh tứ bình của Tố Hữu tạo nên cảnh trong tình, tình trong cảnh nên có vẻ đẹp riêng, qua đó người dân miền núi được hiện ra với vẻ đẹp chân chất, hồn hậu, chịu thương chịu khó, một lòng che chở và thuỷ chung với cách mạng, sẵn sàng hi sinh vì cách mạng.
– Nghệ thuật: Tính chất đối đáp quen thuộc của ca dao, đại từ mình và ta được sử dụng hiệu quả, ngôn ngữ thơ giàu hình ảnh, sử dụng nhuần nhuyễn phép trùng điệp của ngôn ngữ dân gian…tạo ra giọng điệu trữ tình nghe êm ái, ngọt ngào như âm hưởng lời ru đưa ta vào thế giới của kỉ niệm và nghĩa tình chung thuỷ.
b. Đoạn 2:
– Việt Bắc không chỉ là căn cứ địa, nơi chỉ huy của cách mạng mà Việt Bắc còn là nơi tập trung lực lượng để tạo ra chiến thắng và giành chiến thắng cách mạng.
– Đằng sau bức tranh thiên nhiên có vẻ tĩnh lặng là hoạt động sôi nổi của các lực lượng cách mạng (phân tích dẫn chứng để thấy đội ngũ trùng trùng, điệp điệp của những đoàn bộ đội, dân công, xe vận tải ra chiến trường…có thể liên hệ với những câu thơ của Tố Hữu trong Ta đt tới: Ta đi tới!/Trên đường ta bước tiếp Rắn như thép, vững như đồng/ Đội ngũ ta trùng trùng, điệp điệp/Cao như núi, dài như sông/ Chí ta lớn như Biển Đông trước mặt hay Xuân hãy xem! Cuộc diễu binh hùng vĩ/Ba mươi mốt triệu nhân dân/ Tất cả hành quân/Tất cả thành chiến sĩ) không khí xuất quân của Việt Bắc được miêu tả với phong cách sử thi với một khí thế oai hùng đặc biệt. Những câu thơ mang âm hưởng của anh hùng ca, mang màu sắc của một sử thi hiện đại cho thấy khí thế mạnh mẽ của một dân tộc đứng lên chiến đấu giành độc lập tự do. Dân tộc ấy dám hi sinh, vượt qua bao gian khổ thiếu thốn để lập chiến công, biến đau thương thành sức mạnh lớn để tiêu diệt kẻ thù.
– Sự xuất quân đó đã dẫn tới tin vui “chiến thắng trăm miền”, niềm vui đưa đến từ mọi chiến trường: Từ Nam ra Bắc, từ Tây sang Đông, từ đồng bằng đến miền núi, từ miền ngược xuống miền xuôi… càng làm cho Việt Bắc vui hơn. Việt Bắc trở thành tâm điểm của niềm vui và nơi tạo dựng niềm vui Việt Nam bất tận. Bức tranh đã cho thấy khí thế hào hùng của cả một dân tộc và sức mạnh vĩ đại của cả cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện.
– Nghệ thuật:
+ Nhịp thơ từ êm ả, tha thiết trong hoài niệm về nghĩa tình với Việt Bắc đã chuyển sang nhịp điệu sôi nổi, dồn đập, mạnh mẽ.
+ Về bút pháp xây dựng hình ảnh: thiên về những hính ảnh rộng lớn, hùng tráng, kì vĩ, đậm chất sử thi.
+ Biện pháp tu từ được sử dụng hiệu quả: từ láy, động từ, tính từ gợi tả, các phép tu từ…
2. Vẻ đẹp chung của hai bức tranh:
– Hai bức tranh mà Tố Hữu tạo ra trong bài thơ này mỗi bức có một vẻ đẹp riêng song cùng làm nổi bật vẻ đẹp của chiến khu Việt Bắc: vẻ đẹp của núi rừng, vẻ đẹp của sự trưởng thành cách mạng, vẻ đẹp tình người, vẻ đẹp của tư thế xung trận…
– Hai bức tranh chính là những ấn tượng, những kỉ niệm không thể nào quên của những người cán bộ cách mạng đã từng hoạt động ở chiíen khu Việt Bắc. Tác giả không chỉ tái hiện mà còn thể hiện niềm tự hào về cảnh sắc thiên nhiên, đất trời và con người ở đó. Tôi phải lòng đất nước quê hương vì vậy tôi viết về nó một cách say mê như viết về người phụ nữ tôi yêu (Tố Hữu).
– Hai bức tranh đều thể hiện lòng yêu chuộng hoà bình của dân tộc Việt Nam.
– Cả hai bức tranh đều tạo ra những gam màu đặc trưng để tạo hình, tạo cảnh.
– Mỗi đoạn đều có hai dòng thơ mở đầu khái quát nội dung toàn đoạn, các dòng còn lại cụ thể hoá nội dung đó.
– Âm điệu những câu thơ lục bát làm cho cảnh vật được miêt tả trở nên trong trẻo, du dương, tạo nên nền nhạc cảnh hài hoà giữa thiên nhiên và con người. Cả hai đoạn thơ đều rất thành công góp phần làm nên vẻ đẹp của bài thơ.
Đề bài 3: Hình ảnh đất nước trong Việt Bắc của Tố Hữu và Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm?
Gợi ý:
1. Giới thiệu tác giả, tác phẩm. Cảm hứng về đất nước mang lại cho người đọc những ấn tượng sâu sắc về hình ảnh Đất Nước với những nét chung và riêng đầy ấn tượng.
2. Khái quát về hình ảnh đất nước trong văn học Việt Nam.
– Thơ ca giai đoạn 1945-1975 có nhiều sáng tác đặc sắc về đề tài đất nước : Vũ Cao (Núi đôi) cảm nhận về Đất Nước gắn liền với tình yêu lứa đôi và sự hi sinh, mất mát. Tố Hữu (Việt Bắc) viết về Đất Nước với khúc ca hùng tráng về cuộc kháng chiến của những con người tình nghĩa, sắt son đạo lí cách mạng, Dương Hương Ly (Đất quê ta mênh mông) viết về Đất Nước gắn liền với những chiến công của các bà mẹ đào hầm trong tầm đại bác, Lê Anh Xuân (Dáng đứng việt Nam) viết về Đất Nước gắn với hi sinh của người chiến sĩ vô danh ngã xuống trên đường băng Tân Sơn Nhất, Hoàng Cầm (Bên kia sông Đuống) xót xa trước cảnh quê hương bị dày xéo để rồi có khát vọng vùng lên, Đất Nước trong Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng? của Chế Lan Viên gắn với hình ảnh những người anh hùng danh tiếng. Các sáng tác kể trên đều có sức sống lâu bền qua nhiều thế hệ những người yêu thơ bởi những đóng góp riêng độc đáo.
– Bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu và đoạn trích Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm cũng có một đóng góp riêng đặc sắc thể hiện cái nhìn mới mẻ của các tác giả về đất nước.
3. Nét chung về hình ảnh đất nước trong 2 đoạn trích.
– Cảm hứng về tư thế độc lập, tự do của một nước Việt Nam mới, tư thế của con người tự hào làm chủ đất nước.
– Cảm hứng tự hào và tình yêu Tổ quốc của hai nhà thơ tạo nên hình ảnh đất nước chân thực, tươi đẹp, gần gũi như những gì đang hiện hữu trong cuộc sống của con người Việt Nam.
– Đất nước gắn liền với những trang sử hào hùng của dân tộc, đặc biệt là tự hào về truyền thống bất khuất , anh hùng trong đánh giặc ngoại xâm:
+ Việt Bắc là khúc ca hùng tráng về cuộc kháng chiến chống Phấp của dân tộc, đặc biệt ca ngợi những chiến thắng dồn dập đã đi vào lịch sử.
+ Đất Nước tái hiện truyền thống đánh giặc ngoại xâm qua 4000 năm.
– Cảm hứng về đất nước của nhân dân, nhân dân làm nên đất nước.
– Đất nước đẹp hùng vĩ, khoáng đạt, tráng lệ in đậm dấu ấn một dân tộc có nền văn hiến 4000 năm.
– Cảm hứng lãng mạn, lạc quan hướng tới ngày mai chiến thắng.
– Hai bài thơ đều hướng đến nghệ thuật truyền thống, đậm chất dân gian: thi liệu, ngôn ngữ, giọng điệu, chất chính tri, chính luận kết hợp chất trữ tình, cảm xúc.
4. Nét riêng – đóng góp của mỗi nhà thơ.
* Việt Bắc (Tố Hữu)
– Viết vào thời điểm kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp, vì vậy cảm hứng đất nước tập trung vào mảnh đất Việt Bắc – một thời gian dài nó có ý nghĩa đại diện cho đất nước, là linh hồn của đất nước cả về cảnh sắc và những trang sử. Bài thơ là khúc ca hào hùng về cuộc kháng chiến gian khổ mà vĩ đại.
– Bài thơ tô đậm phẩm chất anh hùng cách mạng, tình đoàn kết, nghĩa tình, chia ngọt sẻ bùi, thuỷ chung vẹn toàn của con người Việt Nam trong thử thách. Tất cả dồn trong nỗi nhớ da diết, sâu nặng giữa người đi-kẻ ở.
– Cảm hứng về Việt Bắc – đất nước hoà quyện trong nghĩa tình lưu luyến nhớ nhung- cách thể hiện độc đáo: thể thơ lục bát, hình thức đối đáp, ngôn từ giọng điệu của ca dao dân ca và các biện pháp tu từ.
* Đất Nước (Nguyễn Khoa Điềm)
– Trích từ một chương trong trường ca Mặt đường khát vọng nhưng phần thơ cũng có ý nghĩa như một bài thơ được viết độc lập vì cảm hứng có tính tập trung về hình tượng đất nước. Đất Nước được cảm nhận ở tầm khái quát với nhiều phương diện: Sự hình thành, phát triển, khái niệm, lịch sử dựng nước và giữ nước, nền văn hoá và tâm hồn dân tộc → hình tượng Đất Nước trọn vẹn, tổng thể.
– Hình tượng Đất Nước được nhìn nhận từ một tư tưởng bao trùm chi phối tất cả, đó là tư tưởng Đất Nước của Nhân dân hay Nhân dân làm ra Đất Nước. Khẳng định điều này, chương thơ làm xúc động người đọc về một chân lí thiêng liêng và giản dị, tính giáo dục cao cần thiết cho nhận thức của thế hệ trẻ thanh niên vùng địch tạm chiếm thời kì chống Mĩ và cho hôm nay, mai sau.
– Nghệ thuật thể hiện: thơ tự do không vần, hai chữ Đất Nước viết hoa, mượn hình thức tâm tình của anh-em (đôi lứa đang yêu)…
5. Lí giải:
– Có sự giống nhau là do thời đại, sự gặp gỡ trong tư tưởng các nhà thơ.
– Có sự khác nhau do phong cách nghệ thuật, cảm quan nghệ thuật của mỗi nhà thơ là khác nhau, do yêu cầu sáng tạo nghệ thuật không được lặp lại người khác và lặp lại chính mình.
6. Bình luận:
Những nét chung và riêng như đã phân tích ở trên làm cho đất nước trong thơ trở nên phong phú, đa dạng, lấp lánh sắc màu hơn. Và hai tác giả đã góp hai bông hoa tươi thắm mãi trong vườn thơ dân tộc. Từ cảm nhận về đất nước trong hai đoạn trích, mỗi chúng ta không chỉ tự hào về quá khứ hào hùng của đất nước mà còn thêm yêu mến và mong được góp phần công sức nhỏ bé của mình tô thắm non sông.
Đề bài 4: Cảm nhận của anh/chị về hai đoạn thơ sau:
Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ.
(Sóng – Xuân Quỳnh)Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời
(Đất Nước – Nguyễn Khoa Điềm)
Gợi ý:
I. MỞ BÀI:
– Dẫn dắt vấn đề theo định hướng của đề.
II. THÂN BÀI.
1. Giới thiệu về hai tác giả :
– Xuân Quỳnh là một trong các nhà thơ tiêu biểu nhất của thế hệ các nhà thơ thời chống Mỹ. Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng người phụ nữ khi yêu, nhiều trắc ẩn – vừa hồn nhiên, tươi tắn lại vừa đằm thắm, chân thành. “Sóng” là thi phẩm xuất sắc của Xuân Quỳnh rất tiêu biểu cho phong cách thơ của chị. Bài thơ được trích trong tập “Hoa dọc chiến hào”.
– Nguyễn Khoa Điềm thuộc thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Thơ Nguyễn Khoa Điềm hấp dẫn bạn đọc bởi sự kết hợp giữa xúc cảm nồng nàn và suy tư sâu lắng của người trí thức về đất nước, con người Việt Nam. Đoạn trích Đất Nước trích từ phần đầu trường ca “Mặt đường khát vọng”.
2 . Cảm nhận
a. Đoạn thơ trong bài Sóng của Xuân Quỳnh thể hiện cái tôi đầy khao khát
– Khát vọng được hòa thành trăm con sóng nhỏ, khát vọng được tan thành trăm con sóng nhỏ là khát vọng được cho đi và dâng hiến bởi có một nghịch lí trong tình yêu là “Hạnh phúc thật sự chỉ đến khi bạn dám mạnh dạn cho đi chứ không phải nắm giữ thật chặt ” (Christopher Hoare).
– Khát vọng muốn hòa nhập tình yêu của mình để ngàn năm còn vỗ . Đây là khát vọng muốn được vĩnh cửu hóa, bất tử hóa tình yêu.
– Trong quan niệm tình yêu của Xuân Quỳnh ta thấy được một tư tưởng nhân văn : ” yêu và sự hiến dâng” (chữ ” hiến dâng” không hiểu theo nghĩa thông tục). Tình yêu của cá nhân không tách rời cộng đồng.
– Đặt bài thơ trong hoàn cảnh năm 1968 khi đất nước đang có chiến tranh ta càng hiểu một cách thấm thía và sâu sắc về tình yêu và những khát vọng của những con người trong thời đại ấy.
* Nghệ thuật : bài thơ sử dụng thể thơ năm chữ giàu nhịp điệu, âm hưởng của những con sóng biển; sử dụng phép nhân hóa, so sánh.
b. Đoạn thơ trong bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm là lời nhắn của nhà thơ về trách nhiệm của thế hệ trẻ với non sông đất nước.
– Câu thơ mở đầu được so sánh ngầm. Đất Nước được ví như máu xương. Cách ví von ấy thể hiện sự thiêng liêng và niềm tự hào mãnh liệt về đất nước. Đất nước là một phần không thể thiếu trong mỗi con người. Nó là hồng cầu trong dòng máu lưu chuyển dưỡng nuôi sự sống của mọi người.
– Điệp ngữ “phải biết” được nhắc lại hai lần như một mệnh lệnh, nhưng mệnh lệnh này không khô khan cứng nhắc mà lại làm lay động trái tim con người.
+ “Gắn bó” là đoàn kết, đồng lòng; “san sẻ” là chia bùi sẻ ngọt.
+ Hóa thân là sự cống hiến, dâng hiến tuổi trẻ mình cho non sông, đất nước.
– Có “gắn bó” , “san sẻ”, “hóa thân” thì mới làm nên được đất nước muôn đời. Nói một cách khác, để đất nước và non sông mãi mãi trường tồn thì mỗi con người phải biết đoàn kết, san sẻ, hóa thân.
* Nghệ thuật: thể thơ tự do, giọng thơ chính luận; điệp ngữ “phải biết” được nhắc lại hai lần đầy thiêng liêng; ngôn ngữ thơ giản dị như lời nói từ trái tim truyền thông điệp đến trái tim.
3. So sánh:
– Giống nhau: tư tưởng của hai đoạn thơ đều là tư tưởng tình yêu và sự hiến dâng, khát vọng đều lớn lao và cao thượng.
– Khác nhau: Sóng là vẻ đẹp của tình yêu lứa đôi. Đất Nước là vẻ đẹp tình cảm cá nhân của con người đối với tổ quốc. Sóng được diễn tả bằng thể thơ năm chữ. Đất nước được diễn tả bằng thể thơ tự do.
III. KẾT BÀI: Tổng hợp, đánh giá vấn đề và để lại ấn tượng cho người đọc.
Đề bài 5: Cảm nhận của anh/chị về vẻ đẹp của hai đoạn thơ sau:
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới,
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
Rải rác biên cương mồ viễn xứ,
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.
Áo bào thay chiếu, anh về đất,
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.
(“Tây Tiến” – Quang Dũng)
“Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng, bạn cùng mũ nan.
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên”
(“Việt Bắc” – Tố Hữu)
Gợi ý:
I. Mở bài:
Giới thiệu về tác giả, tác phẩm và hai đoạn thơ:
– Quang Dũng là hồn thơ đôn hậu, hào hoa thanh lịch, yêu tha thiết quê hương đất nước, có khuynh hướng khai thác vẻ đẹp lãng mạn anh hùng.
– Tố Hữu là cánh chim đầu đàn của thơ ca cách mạng Việt Nam. Thơ Tố Hữu có sức chinh phục mạnh mẽ bởi niềm say mê lí tưởng, khuynh hướng sử thi, cảm hứng lãng mạn, tính dân tộc đậm đà.
– Tây Tiến và Việt Bắc là thành công xuất sắc của thơ cách mạng Việt Nam thời kì kháng chiến chống Pháp. Cả hai tác phẩm đều khắc họa hình tượng tập thể anh hùng những con người Việt Nam trong cuộc kháng chiến.
II. Thân bài:
1. Đoạn thơ trong bài Tây Tiến.
a/ Vị trí của đoạn thơ: là đoạn ba của bài thơ. Sau khi khắc họa hình tượng người lính trên con đường hành quân nhà thơ đã khắc họa tượng đài tập thể của những người lính Tây Tiến.
b/ Đặc điểm của hình tượng:
+ Người lính Tây Tiến được khắc họa như những con người bình dị nhất có những giới hạn không thể vượt qua như bệnh tật “không mọc tóc, xanh màu lá, anh về đất”
+ Những con người có vẻ đẹp phi thường, hào hùng: dữ oai hùm, mắt trừng.
+ Lãng mạn, hào hoa: đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
+ Lý tưởng sống cao đẹp: sự hi sinh tự nguyện “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Bằng trí tưởng tượng của Quang Dũng, người lính được khoác trên mình tấm áo bào sang trọng của các chiến tướng mặc khi ra trận, mang vẻ đẹp của chủ nghĩa anh hùng cổ điển. Sự ra đi của người lính nhẹ nhàng thanh thản như là sự trở về với đất mẹ yêu thương. Âm thanh tiếng gầm của dòng sông Mã như khúc tráng ca đưa người lính về nơi an nghỉ. Cảm xúc tiếc thương, đau đớn, nhưng vẫn tràn đầy niềm tự hào.
c/ Nghệ thuật biểu hiện: thể thơ 7 tiếng, nhịp thơ nhanh như khúc quân hành, sắc thái cổ điển , hình ảnh ước lệ, sử dụng nhiều từ Hán Việt, cảm hứng lãng mạn và giọng điệu bi tráng.
2. Đoạn thơ trong bài Việt Bắc
a/ Vị trí của đoạn: là lời người ra đi đáp lại người ở lại, thể hiện nỗi nhớ Việt bắc trong những ngày chiến dịch.
b/ Đặc điểm của hình tượng tập thể anh hùng trong đoạn thơ:
+ Không gian xuất hiện: những con đường Việt Bắc
+ Thời gian: ban đêm cho thấy sự gian khổ, và sự bất thường của chiến tranh
+ Hình tượng tập thể của những người lính đông đảo và có sức mạnh lay trời chuyển đất, ánh sáng lí tưởng đẹp đẽ, tâm hồn lãng mạn (chú ý các hình ảnh: rầm rập như là đất rung, điệp điệp trùng trùng, ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan).
+ Hình tượng tập thể của đoàn dân công phục vụ cho chiến dịch miêu tả trong ánh sáng của ngày hội kháng chiến và ánh sáng của tuơng lai, họ có trái tim cách mạng rực lửa và sức mạnh san phẳng mọi khó khăn. (Chú ý các hình ảnh: đỏ đuốc từng đoàn, bước chân nát đá, đèn pha bật sáng).
– Cảm xúc: tự hào tin tuởng, lạc quan: Hình ảnh “Những đường Việt Bắc của ta”, “đèn pha bật sáng như ngày mai lên”.
c/ Nghệ thuật biểu hiện là những yếu tố thể hiện tính dân tộc trong thơ: thể thơ lục bát, vận dụng thành ngữ, từ láy, tiểu đối, hình ảnh ước lệ. Đổi mới thơ lục bát bằng cảm hứng anh hùng ca và giọng điệu hào hùng. Xây dựng hình tượng tập thể và bút pháp phóng đại mang màu sắc sử thi.
3. Những điểm tương đồng và khác biệt của hình tượng tập thể anh hùng trong hai đoạn thơ.
a/ Tương đồng:
– Đều khắc họa hai hình tượng tập thể với phẩm chất anh hùng, dũng cảm trái tim yêu nước nồng nàn và sẵn sàng hi sinh cho lý tưởng, tâm hồn lãng mạn. Khẳng định lẽ sống cao đẹp sẵn sàng hiến dâng tuổi thanh xuân cho đất nước
– Cảm xúc tự hào ngợi ca.
– Bút pháp lãng mạn và mang âm hưởng sử thi, nhịp thơ nhanh, hình ảnh ước lệ, nghệ thuật đối…
b/ Khác biệt:
– Tập thể anh hùng trong bài thơ Tây Tiến hội tụ sức mạnh của tuổi trẻ Việt Nam và mang nét rất riêng của đoàn binh Tây Tiến mang vẻ đẹp của thanh niên trí thức Hà Nội. Được khắc họa trong mất mát hi sinh nhưng vẫn đẹp, âm hưởng của đoạn thơ là âm hưởng bi tráng.
– Tập thể anh hùng trong đoạn thơ của bài Việt Bắc hội tụ sức mạnh của cả dân tộc, sức mạnh của quá khứ, được khắc họa trong không khí ra trận, âm hưởng anh hùng ca.
– Người lính Tây Tiến hiện lên rõ ràng, chân thực, có sự đối nghịch giữa ngoại hình và tâm hồn khí phách. Tất cả thể hiện qua những câu thơ 7 tiếng mang âm hưởng cổ điển, trang nghiêm.
– Con người kháng chiến trong Việt Bắc không hiện lên rõ ràng, cụ thể mà thông qua những hành động bật lên sức mạnh phi thường, có sự thống nhất, đoàn kết đồng lòng giữa quân và dân. Tất cả thể hiện qua những câu thơ lục bát mang âm hưởng ca dao dân ca, âm hưởng mạnh mẽ, hào hùng.
5. Lí giải.
– Có sự giống nhau vì: hai tác giả đều là những nhà thơ – chiến sĩ và đều là người trong cuộc, đều tự hào và ca ngợi con người Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp vĩ đại.
– Có sự khác biệt vì: mỗi nhà thơ có một phong cách nghệ thuật riêng, đối tượng phản ánh khác nhau, yêu cầu người sáng tác phải đem đến cái mới…
6. Đánh giá,
– Xây dựng hình tượng tập thể anh hùng, hai đoạn thơ góp phần thể hiện đặc điểm của thơ ca cách mạng, là khuynh hướng sử thi vẻ đẹp lãng mạn.
– Thể hiện lòng yêu nuớc, đề cao lí tưởng sống cao đẹp của con người.
– Góp phần khẳng định giá trị là bản anh hùng ca của cuộc kháng chiến của hai bài thơ .
Đề bài 6: Cảm nhận của anh/chị về hai đoạn thơ sau:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
(Tây Tiến – Quang Dũng)
“Nhớ sao lớp học i tờ
Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo”
(Việt Bắc – Tố Hữu)
Gợi ý:
I. Mở bài:
– Dẫn dắt vấn đề.
II. Thân bài:
1. Giới thiệu hai tác giả, tác phẩm.
2. Cảm nhận về hai đoạn thơ.
a. Đoạn thơ trong tác phẩm Tây Tiến là hồi ức của nhà thơ về đêm liên hoan văn nghệ đậm tình quân dân.
+ Đoạn thơ trở lên lung linh với hội đuốc hoa, tiếng khèn và điệu múa của cô thiếu nữ miền sơn cước.
+ Động từ “bừng” diễn tả không khí lễ hội và tâm trạng thăng hoa của người lính. “Đuốc hoa” chỉ niềm vui lan tỏa làm ấm lòng người chiến sĩ.
+ Cô gái trong bộ xiêm áo lộng lẫy với dáng vẻ “nàng e ấp”. Cùng lúc là tiếng khèn man điệu nổi lên cuốn hút người lính hòa vào không khí đêm hội.
→ Tất cả đã góp phần xây hồn thơ bồi đắp tinh thần lãng mạn và hào hoa của tâm hồn người lính trẻ.
Nghệ thuật: thể thơ thất ngôn mang đậm chất nhạc và chất thơ. Tác giả đã vẽ ra khung cảnh thiên nhiên và con người miền Tây Bắc thật mĩ lệ, thơ mộng và trữ tình.
b. Đoạn thơ trong tác phẩm Việt Bắc là nỗi nhớ của tác giả về những ngày tháng gắn bó với con người nơi căn cứ địa kháng chiến.
+ Điệp từ “nhớ” được lặp lại nhiều lần đã tạo nên sự da diết trong tâm hồn người đi và kẻ ở. Mỗi nỗi nhớ lại gắn với một kỉ niệm: nhớ lớp bình dân học vụ, nhớ nhưng đêm liên hoan văn nghệ đậm tình quân dân. Hay đó chính là nỗi nhớ những ngày sinh hoạt ở cơ quan. Đó là những ngày đầy gian nan và vất vả vì:
+ Phải chống chọi với thiên nhiên và thời tiết khắc nghiệt “mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù”.
+ Những khó khăn thiếu thốn về vật chất “miếng cơm chấm muối” hay “bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”.
– Tuy nhiên, sự gian khổ ấy không ngăn được tinh thần lạc quan bởi tất cả đều hướng đến nhiệm vụ chung là giải phóng dân tộc. Có được tinh thần lạc quan ấy là cũng bởi tất cả cán bộ, chiến sĩ và nhân dân đều đồng lòng để hướng đến nhiệm vụ cao cả ấy.
– Nghệ thuật: điệp từ nhớ được nhắc lại nhiều lần, thể thơ lục bát ngọt ngào.
c. So sánh.
– Điểm giống: cả hai đều là những hoài niệm đẹp về quá khứ. Nỗi hoài niệm đều hướng về tình quân dân. Tất cả đều thể hiện tinh thần lạc quan của người chiến sĩ.
– Điểm khác:
+ Đoạn thơ trong Tây Tiến được nhìn qua lăng kính hào hoa, lãng mạn của người lính. Hình ảnh thơ hiện lên sống động tươi đẹp.
+ Đoạn thơ trong Việt Bắc hiện lên với âm điệu nhẹ nhàng. Hình ảnh thơ bình dị. Gửi gắm trong đó là tình cảm của nhà thơ sâu nặng, vương vấn và lưu luyến.
– Lí giải: Căn cứ vào phần hướng dẫn làm kiểu bài so sánh văn học.
III. Kết bài:
– Đánh giá chung.
5. Dạng đề nghị luận về một (hoặc hai) ý kiến bàn về văn học
a. Dạng đề nghị luận về một ý kiến bàn về văn học
Đề bài 1:Văn chương không có gì riêng sẽ không là gì cả.Anh/chị hiểu như thế nào về ý kiến trên ? Hãy phân tích bài thơ Tây Tiến để làm sáng tỏ ý kiến đó.
Gợi ý:
1. Giải thích nhận định:
– Riêng: nét mới, cái độc đáo.
– Vì sao văn chương phải có cái riêng: văn chương là lĩnh vực của cái độc đáo. Mỗi tác phẩm văn chương phải có nét riêng, nét mới ở ý tưởng nghệ thuật cũng như ở hình thức biểu hiện. Mỗi nhà văn phải có một thế giới nghệ thuật riêng, một “chân trời” riêng, một “biên cương” riêng. Nhà văn có phong cách thì mới được người đọc chấp nhận và yêu mến. Phong cách càng độc đáo thì sức hấp dẫn càng lớn.
– Vì sao văn chương không có gì riêng sẽ không là gì cả: mới mẻ, độc đáo là điều kiện tồn tại của tác phẩm văn chương. Tác phẩm chương không có gì mới sẽ không được người đọc tiếp nhận. Nhà văn có phong cách nghệ thuật mờ nhạt sẽ bị người đọc quên lãng ; lặp lại mình hoặc lặp lại người khác đều là điều tối kị trong hoạt động sáng tác của nhà văn. Cái bình thường là cõi chết của nghệ thuật (M.Gorki).
→ Nhận định nhấn mạnh tầm quan trọng của phong cách nghệ thuật của người nghệ sĩ ngôn từ trong việc đem đến cái độc đáo cho tác phẩm.
2. Phân tích bài thơ để làm rõ vấn đề nghị luận:
a/ Giới thiệu chung về tác giả, tác phẩm:
b/ Phân tích:
– Nét riêng trong lựa chọn, xử lí đề tài, xác định chủ đề: Người lính Tây Tiến xuất thân là những trí thức Hà Thành. Họ vừa có dáng dấp của những tráng sĩ thuở trước vừa mang đậm vẻ đẹp của người lính chống Pháp, vừa mang vẻ đẹp lãng mạn vừa có chất bi tráng.
– Cách nhìn, cách cảm thụ giàu khám phá nghệ thuật (cách nhìn, cách cảm mới mẻ về người lính): trong số những bài thơ viết về người lính năm 1948 như Nhớ của Hồng Nguyên, Cá nước của Tố Hữu, Đồng chí của Chính Hữu…..thì Tây Tiến của Quang Dũng nói nhiều đến sự hi sinh. Tác giả không ngần ngại nói đến cái chết của người lính ở chiến trường, ở rừng sâu nước độc, ở biên giới Tây Bắc, cái chết vì súng đạn, cái chết vì bệnh tật, thiếu thốn….nhưng đoạn thơ và cả bài thơ vẫn không hề gây cảm giac bi lụy.
– Giọng điệu riêng của bài thơ: Cả bài thơ được bao trùm trong nỗi nhớ. Nỗi nhớ ấy gợi về những kỉ niệm, những hình ảnh với nhiều trạng thái cảm xúc khác nhau, được diễn tả bằng những giọng điệu phù hợp với mỗi trạng thái cảm xúc.
+ Đọan 1: gịong tha thiết, bồi hồi, được cất lên thành những tiếng gọi những từ cảm thán.
+ Đọan 2: tái hiện kỉ niện về những đêm liên hoan thắm tình quân dân, giọng điệu chuyển sang hồn nhiên , tươi vui; sau đó bâng khuâng, man mác khi gợi lại một cảnh chia tay trong một chiều sương mờ bao phủ Châu Mộc.
+ Đọan 3: giọng thơ trang trọng bi tráng, tái hiện hình ảnh người lính Tây Tiến và sự hi sinh cao cả của họ.
+ Đọan 4: tha thiết, bồi hồi….
→ Giọng điệu chủ đạo của bài thơ là bi tráng.
– Sử dụng các thủ pháp nghệ thuật mang đậm dấu ấn riêng:
+ Hình ảnh trong bài thơ được sáng tạo bằng nhiều bút pháp khác nhau, tạo nên những sắc thái thẩm mỹ phong phú. Trong bài thơ có hai hình ảnh chính: thiên nhiên miền Tây và người lính Tây Tiến. Ở mỗi loại hình ảnh có hai dạng chính, tạo nên sắc thái thẩm mỹ phối hợp, bổ sung cho nhau.
+ Thiên nhiên có cái dữ dội, khắc nghiệt, hoang sơ, hùng vĩ: thanh trắc, nét vẽ khoẻ khoắn, dữ dằn. Bên cạnh đó, có những hình ảnh thiên nhiên đầy thơ mộng, ẩn hiện trong sương khói, trong màn mưa, hoa đong đưa : thanh bằng, nét vẽ nhoè mờ kiểu tranh lụa. Tác giả đã sử dụng nhiều bút pháp để miêu tả, dựng hình ảnh, có khi tả cận cảnh, dừng lại ở những chi tiết khá cụ thể, có khi lại lùi xa để bao quát khung cảnh rộng, mở ra bức tranh phóng khoáng và hùng vĩ của miền Tây.
+ Hình ảnh người lính Tây Tiến cũng hiện ra với nhiều sắc thái, chủ yếu là hào hùng và hào hoa. Hào hùng ở ý chí, tư thế hiên ngang, coi thường gian khổ. Hào hoa ở tâm hồn nhạy cảm trước thiên nhiên, đằm thắm tình người và cả những khát khao, mơ mộng.
→ Trong thơ có nhạc, có hoạ, có chạm khắc theo một cách riêng.
+ Đặc sắc ngôn ngữ của Tây Tiến là sự phối hợp, hòa trộn của nhiều sắc thái phong cách với ngôn ngữ những lớp từ vựng đặc trưng. Có thứ ngôn ngữ trang trọng, mang màu sắc cổ kính, chủ yếu miêu tả hình ảnh Tây Tiến và sự hi sinh bi tráng của họ. Có lớp từ ngữ sinh động của tiếng nói hàng ngày, in đậm phong cách người lính.
+ Một nét sáng tạo trong ngôn ngữ là có những kết hợp từ độc đáo mới lạ tạo nghĩa mới hoặc sắc thái mới : nhớ chơi vơi, đêm hơi, súng ngửi trời, mưa xa khơi, mùa em thơm nếp xôi…
+ Sử dụng địa danh : tạo ấn tượng về tính cụ thể, xác thực của bức tranh thiên nhiên và cuộc sống con người; gợi được vẻ heo hút nhưng cũng rất hấp dẫn của xứ lạ phương xa.
+ Thể thơ 7 chữ với các biện pháp tu từ: nhân hoá, sử dụng từ láy, liệt kê, nghệ thuật đối…
c. Đánh giá chung:
– Nội dung: Tây Tiến của Quang Dũng đã dựng lên đươc một bức tượng đài bất tử về người lính Tây Tiến hào hoa, dũng cảm. Nhà thơ đã tái hiện được hiện thực bi hùng của cuộc kháng chống Pháp trong niềm cảm hứng lãng mạn dạt dào.
Đề bài 2: ”Việt Bắc cũng rất tiêu biểu cho giọng thơ tâm tình ngọt ngào tha thiết của Tố Hữu và nghệ thuật biểu hiện giàu tính dân tộc của thơ ông”. Hãy chứng minh điều đó qua đoạn trích bài thơ ” Việt Bắc” của Tố Hữu.
Gợi ý:
- Mở bài:
– Thơ Tố Hữu dễ đến với mọi tấm lòng không chỉ vì nội dung mà còn do giọng thơ tâm tình ngọt ngào tha thiết và nghệ thuật biểu hiện giàu tính dân tộc. Điều này được bộc lộ khá rõ trong phần đầu bài thơ Việt Bắc.
- Thân bài:
1/ Giải thích:
– Giọng thơ là thái độ, tình cảm, lập trường tư tưởng, đạo đức của nhà thơ đối với hiện tượng được miêu tả thể hiện trong lời thơ quy định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa gần, thân, sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm. Ngoài ra, giọng điệu còn phản ánh lập trường xã hội, thái độ tình cảm và thị hiếu thẩm mĩ của tác giả, có vai trò rất lớn trong việc tạo nên phong cách nhà thơ và tác dụng truyền cảm cho người đọc.
– Giọng tâm tình, ngọt ngào: giọng của tình thương mến, tự nhiên, đằm thắm, chân thành.
– Tính dân tộc trong văn học là một khái niệm thuộc phạm trù tư tưởng thẩm mĩ chỉ mối liên hệ khăng khít giữa văn học và dân tộc, thể hiện qua những đặc điểm độc đáo, tương đối bền vững chung cho các sáng tác của một dân tộc, được hình thành trong quá trình phát triển lịch sử và phân biệt với văn học các dân tộc khác…Tính dân tộc thể hiện ở mọi yếu tố từ nội dung đến hình thức của sáng tác văn học.
– Nghệ thuật biểu hiện giàu tính dân tộc (tính dân tộc thể hiện ở hình thức nghệ thuật): mỗi nền văn học dân tộc có hệ thống thể loại truyền thống, có các phương tiện miêu tả, biểu hiện riêng, nhất là có ngôn ngữ dân tộc thể hiện bản sắc riêng trong tư duy và tâm hồn của dân tộc mình, góp phần làm giàu có kho mĩ từ pháp và thi pháp của thơ ca dân tộc.
→ Bài thơ Việt Bắc rất tiêu biểu cho hai nét phong cách thơ Tố Hữu: giọng thơ tâm tình ngọt ngào, tính dân tộc trong hình thức.
2/ Chứng minh.
a/ Giọng thơ tâm tình ngọt ngào tha thiết của Tố Hữu trong Việt Bắc.
– Bài thơ nói đến nghĩa tình cách mạng nhưng thi sĩ lại dùng giọng của tình thương, lời của người yêu để trò truyện, giãi bày tâm sự.Cả bài thơ được viết theo lối đối đáp giao duyên của nam nữ trong ca dao dân ca và phần đầu này cũng thế-nó là lời giãi bày tâm sự giữa người ra đi (người ở xuôi) với người ở lại là đồng bào Việt Bắc. Mười lăm năm cách mạng thành ”Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”, người đi – người ở thành mình – ta , ta – mình quấn quýt bên nhau trong một mối ân tình sâu nặng:
”Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn”
– Giọng thơ tâm tình ngọt ngào tha thiết ấy tạo nên âm hưởng trữ tình sâu đậm của khúc hát ân tình cách mạng VB :từ khúc hát dạo đầu Mình về rừng núi nhớ ai….Ta đi ta nhớ những ngày -Mình đây ta đó ,đắng cay ngọt bùi…,đến những nỗi nhớ da diết sâu nặng :
– Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu ngõ nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói chiều sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về
– Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rãy bẻ từng bắp ngô…
b/ Nghệ thuật biểu hiện giàu tính dân tộc trong Việt Bắc/
– Tố Hữu là nhà thơ dân tộc trong cái ý nghĩa đầy đủ và tự hào của khái niệm này. Kế tục truyền thống thơ ca dân tộc, nhất là thơ ca dân gian và thơ cổ điển, thơ Tố Hữu nói chung và bài thơ Việt Bắc nói riêng đậm đà tính dân tộc trong cả nội dung và hình thức biểu hiện.Tính dân tộc của thơ Tố Hữu được thể hiện xuyên thấm trong Việt Bắc: Về nội dung (phản ánh và thể hiện được đời sống tinh thần, đời sống tâm hồn, tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của dân tộc). Hình thức (có ngôn ngữ nghệ thuật, thể thơ và nhạc điệu mang đậm màu sắc dân tộc góp phần vào sự phát triển ngôn ngữ Tiếng Việt). Tuy nhiên đề chỉ yêu cầu làm sáng tỏ tính dân tộc trong hình thức. Cụ thể:
– Thể thơ: Tố Hữu đã sử dụng thể thơ truyền thống của dân tộc: lục bát. Thi sĩ đã sử dụng rất nhuần nhuyễn thể thơ này và có những biến hóa ,sáng tạo cho phù hợp với nội dung, tình ý câu thơ. Có câu tha thiết sâu lắng như bốn câu mở đầu, có câu nhẹ nhàng mơ mộng (Nhớ gì như nhớ người yêu…), lại có đoạn hùng tráng như một khúc anh hùng ca (Những đường Việt Bắc của ta…Đèn pha bật sáng như ngày mai lên).
– Kết cấu: Kết cấu theo lối đối đáp giao duyên của nam nữ trong ca dao dân ca là kết cấu mang đậm tính dân tộc,và nhờ hình thức kết cấu này mà bài thơ có thể đi suốt 150 câu lục bát không bị nhàm chán.
– Hình ảnh: Tố Hữu có tài sử dụng hình ảnh dân tộc một cách tự nhiên và sáng tạo trong bài thơ: Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn; mưa nguồn suối lũ; bước chân nát đá (sáng tạo từ ca dao: trông cho chân cứng đá mềm). Có những hình ảnh chắt lọc từ cuộc sống thực cũng đạm tính dân tộc: Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai,hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son và đặc biệt là hình ảnh đậm đà của tình giai cấp”:
“Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng”
– Ngôn ngữ và các biệp pháp tu từ :Tính dân tộc được thể hiện rõ nhất trong cặp đại từ nhân xưng” ta – mình, mình – ta” quấn quýt với nhau và đại từ phiếm chỉ ”ai” (dẫn chứng). Đây là một sáng tạo độc đáo và cũng là một thành công trong ngôn ngữ thơ ca của Tố Hữu. Các biện pháp tu tù quen thuộc: sử dụng từ láy, điệp từ, so sánh, nhân hoá…
– Nhạc điệu: Trong bài thơ là nhạc điệu dân tộc từ thể thơ lục bát: nhịp nhàng tha thiết, ngọt ngào, sâu lắng nhưng biến hóa, sáng tạo, không đơn điệu (có lúc hùng tráng như cảnh ”Việt Bắc ra quân”, trang nghiêm như cảnh buổi họp của Trung ương ,Chính phủ …)
- Kết bài:
Giọng thơ tâm tình ngọt ngào và nghệ thuật tiêu biểu giàu tính dân tộc của Tố Hữu đã góp phần quan trọng vào thành công của bài thơ Việt Bắc làm cho nó nhanh chóng đến với người đọc và sống lâu bền trong lòng nhân dân ta từ khi ra đời cho đến hôm nay.
Đề bài 3 : Nhận định về bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu, có ý kiến cho rằng: “Bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu là khúc tình ca và cũng là khúc anh hùng ca về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến”. Qua đoạn trích Việt Bắc trong sách giáo khoa, anh (chị) hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.
Gợi ý:
1. Giới thiệu chung.
– Giới thiệu chung về tác giả Tố Hữu, về đoạn trích Việt Bắc.
– Trích dẫn nhận định.
2. Giải thích nhận định.
– Khúc hùng ca:Là khúc ca hào hùng, hùng tráng còn gọi là bản anh hùng ca. Việt Bắc là khúc hùng ca : Việt Bắc là khúc ca hào hùng, ngợi ca cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ mà oanh liệt của dân tộc.
– Khúc tình ca:Là khúc ca ân tình thể hiện tình cảm yêu thương thắm thiết còn gọi là bản tình ca. Việt Bắc là khúc tình ca, là bài ca trữ tình, dạt dào yêu thương, chan chứa ân tình của cái tôi trữ tình nhà thơ, của người kháng chiến, của nhân dân dành cho Đảng, cho đất nước, dân tộc, cho Bác Hồ kính yêu.
→ Việt Bắc vừa là bản anh hùng ca ca ngợi cuộc kháng chiến hào hùng của dân tộc, vừa là bản tình ca ca ngợi ân tình cách mạng của những con người kháng chiến thủy chung, nghĩa tình. Lời nhận định đã thâu tóm được nét đặc sắc về nội dung tư tưởng của bài thơ Việt Bắc và một đặc điểm phong cách thơ Tố Hữu: Thơ trữ tình – chính trị.
3. Chứng minh
a) Về nội dung:
* Việt Bắc là bản anh hùng ca ca ngợi cuộc kháng chiến hào hùng của dân tộc:
– Việt Bắc là bản hùng ca của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, phản ánh những ngày đầu kháng chiến đầy khó khăn, gian khổ, anh dũng và kết thúc bằng thắng lợi vẻ vang.
– Những ngày đầu kháng chiến gian khổ, thiếu thốn. Cách mạng về khơi dậy sức sống mạnh mẽ của thiên nhiên núi rừng Việt Bắc.
– Bức tranh Việt Bắc ra quân giữa một không gian núi rừng rộng lớn:
+ Hình ảnh nhân dân ta anh hùng: anh bộ đội, chị dân công, Bác Hồ – người tiêu biểu cho nhân dân anh hùng. Những đoàn người tấp nập: Quân đi điệp điệp trùng trùng/ Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan / Dân công đỏ đuốc từng đoàn / Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay. Hình ảnh, âm thanh hào hùng, sôi nổi dồn dập, náo nức. Hình ảnh Bác…
+ Lời thơ tràn đầy âm hưởng anh hùng ca mang dáng vẻ của một sử thi hiện đại, khẳng định sức mạnh của một dân tộc.
– Những kì tích, những chiến công gắn với những địa danh, với tên đất, tên núi: Phủ Thông, Đèo Giàng, Điện Biên,…có được bởi xuất phát từ:
+ Lòng yêu nước, căm thù giặc.
+ Tình nghĩa thủy chung của con người kháng chiến; khối đại đoàn kết toàn dân.
+ Sự gắn bó của con người, thiên nhiên.
– Việt Bắc là quê hương cách mạng, là căn cứ địa vững chắc, đầu não của cuộc kháng chiến chống Pháp.
* Việt Bắc còn là bản tình ca về ân tình cách mạng của những con người kháng chiến:
– Đề cập đến đề tài chiến tranh nhưng bài thơ Việt Bắc hướng cảm xúc đến nghĩa tình thuỷ chung cách mạng của con người Việt Nam trong kháng chiến, đó là một phẩm chất có ý nghĩa truyền thống của dân tộc. Bài thơ đã làm sống lại vẻ đẹp của thiên nhiên và con người Việt Bắc, vẻ đẹp của cuộc sống chiến đấu gịan khổ nhưng ấm áp tình người, vẻ đẹp của lịch sử cách mạng Việt Nam một thời không quên.Việt Bắc chan chứa tình yêu nước thiết tha.
– Việt Bắc được kết cấu theo cấu tứ đối đáp giao duyên của ca dao:
+ Hai nhân vật mình – ta; ta – mình.
+ Là lời đối đáp giữa người đi và kẻ ở: nhắc lại những kỉ niệm, hồi ức đẹp trong suốt 15 năm gắn bó.
– Cảnh và người Việt Bắc hiện lên thật đẹp. Tất cả khắc sâu trong nỗi nhớ của người cán bộ cách mạng về xuôi:
+ Thiên nhiên Việt Bắc vừa thực, vừa thơ mộng: Có ánh trăng, sương sớm, núi, rừng, sông, suối,…với những cái tên quen thuộc.
+ Bức tranh tứ bình: Bốn mùa đông, xuân, hạ, thu.
+ Người dân Việt Bắc bình dị, cần cù trong lao động, thủy chung.
– Nghĩa tình của nhân dân với cán bộ cách mạng là sự đồng cam cộng khổ cùng chung niềm vui và gánh vác những nhiệm vụ nặng nề: Nhớ khi giặc đến giặc lùng/ Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây.
b) Về nghệ thuật:
– Sử dụng ngôn ngữ giản dị, gần gũi với đời sống.
– Sử dụng thể thơ lục bát có âm hưởng trữ tình vang vọng, tha thiết, êm ái như lời ru; kiểu kết cấu đối đáp mang đậm sắc thái dân gian.
– Giọng thơ ngọt ngào đậm chất trữ tình.
– Kết hợp các biện pháp tu từ nghệ thuật: Liệt kê, ẩn dụ, những so sánh ví von truyền thống nhưng lại biểu hiện được nội dung mới của thời đại.
4. Đánh giá chung:
– Khẳng định tính đúng đắn của câu nói.
– Việt Bắc phản ánh đậm nét hình ảnh Tổ quốc Việt Nam, con người Việt Nam trong thời đại Cách mạng. Việt Bắc là khúc tình ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến – đỉnh cao nghệ thuật của thơ Tố Hữu. Thi phẩm tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu : trữ tình chính trị và đậm đà tính dân tộc.
– Qua bài thơ, Tố Hữu nhắn nhủ mỗi chúng ta: Hãy nhớ mãi và phát huy truyền thống quý báu anh hùng bất khuất, ân nghĩa thủy chung của cách mạng, của con người Việt Nam.
Đề bài 4: Xuân Diệu cho rằng: “Tố Hữu đã đưa thơ chính trị lên đến trình độ là thơ rất đỗi trữ tình”. Bằng đoạn trích Việt Bắc trong SGK Ngữ văn 12, anh (chị) hãy làm sáng tỏ ý kiến ấy.
Gợi ý:
1. Mở bài:
– Tố Hữu là nhà thơ tiêu biểu cho khuynh hướng thơ trữ tình chính trị. Dẫn ý kiến.
2. Thân bài:
a. Giải thích:
– Thơ chính trị: Là thơ trực tiếp đề cập đến những vấn đề chính trị, những sự kiện chính trị nhằm mục đích tuyên tuyền, cổ động. Chính vì thế, thơ chính trị thường có nguy cơ rơi vào khô khan, áp đặt.
– Ý kiến của Xuân Diệu: Tố Hữu đã “trữ tình hóa” thơ chính trị, để thơ chính trị thực sự là thơ, có sức rung cảm sâu xa. Đây là ý kiến đánh giá rất cao về thơ Tố Hữu.
b. Bình luận.
– Ý kiến của Xuân Diệu rất xác đáng và tinh tế, đánh giá, ghi nhận đúng vị trí đặc biệt và thành tựu lớn lao của đời thơ Tố Hữu.
– Thơ Tố Hữu đúng là thơ chính trị, bởi đề tài trong thơ Tố Hữu là những vấn đề chính trị, hồn thơ Tố Hữu luôn hướng tới cái ta chung với lẽ sống lớn, tình cảm lớn và niềm vui lớn của Đảng, dân tộc, cách mạng (chứng minh điều này qua các tập thơ từ Từ ấy đến Máu và hoa, phần đầu của phong cách thơ Tố Hữu trong SGK).
– Nhưng thơ Tố Hữu cũng rất đỗi trữ tình. Tố Hữu đã đưa thơ trữ tình chính trị lên đến đỉnh cao. Có được điều ấy là nhờ những vấn đề chính trị trong thơ Tố Hữu đã được thực sự chuyển hóa thành những vấn đề của tình cảm, cảm xúc rất mực tự nhiên, chân thành, đằm thắm với một giọng thơ ngọt ngào, tâm tình, giọng của tình thương mến (Tiếng ru, Bác ơi, Quê mẹ…).
c. Chứng minh qua Việt Bắc.
– Việt Bắc là thơ chính trị: (đề cập đến sự kiện lịch sử là cuộc chia tay giữa những người kháng chiến với nhân dân Việt Bắc tháng 10 năm 1954, cảm hứng chủ đạo của bài thơ là cảm hứng ân tình cách mạng, niềm biết ơn sâu sắc với Đảng, Bác Hồ, căn cứ địa cách mạng, nhân dân…).
– Nhưng Việt Bắc cũng rất đỗi trữ tình:
+ Nỗi nhớ đằm sâu, tràn trào, mênh mang, lan tỏa cả không gian và thời gian của “ta” và “mình”, người đi và kẻ ở gắn liền với tình cảm sắt son chung thủy – nỗi nhớ về cảnh và người, nỗi nhớ về những kỉ niệm… Bài thơ mang âm điệu của một bản tình ca ngọt ngào, đằm thắm (chú ý những câu nói về nỗi nhớ, khẳng định tình nghĩa ).
+ Cùng với nỗi nhớ, cảnh và người Việt Bắc hiện lên với những chi tiết vừa chân thực, giản dị, vừa lộng lẫy, tươi tắn, thơ mộng, giàu sức rung động lòng người (chú ý “Nhớ gì như nhớ người yêu…Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung).
+ Niềm vui hân hoan, âm điệu hùng tráng đậm chất sử thi (đoạn 2 – khúc hùng ca).
+ Giọng điệu ngọt ngào, tâm tình với kết cấu đối đáp, cách xưng hô mình – ta và thể thơ lục bát truyền thống, sở trường sử dụng từ láy và các hình ảnh so sánh ví von đậm đà tính dân tộc.
3. Kết bài:
– Những câu thơ giản dị và đằm thắm về Việt Bắc của nhà thơ Tố Hữu, ta càng thêm kính, thêm yêu miền đất cội nguồn.
– Khẳng định ý nghĩa và đóng góp quan trọng của thơ Tố Hữu trong dòng văn học cách mạng của dân tộc.
Đề bài 5:Sóng của Xuân Quỳnh không chỉ là Hoa dọc chiến hào mà còn là bài thơ đi cùng năm tháng?
Gợi ý:
- Mở bài:
– Giới thiệu ngắn gọn về nhà thơ Xuân Quỳnh và bài thơ Sóng gắn với định hướng “hoa dọc chiến hào” và bài thơ đi cùng năm tháng.
- Thân bài:
1. Sóng là hoa dọc chiến hào.
– Mỗi tác phẩm văn học ra đời đều mang dấu ấn của thời đại lịch sử cụ thể.
– Hoa dọc chiến hào là tên tập thơ của Xuân Quỳnh ra đời năm 1967, in năm 1968- thời kì cả dân tộc sẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước. Các tác phẩm văn học Việt Nam thời bấy giờ ra đời ngay trên những chiến hào chống Mĩ, là sáng tác của những thế hệ nhà văn cầm súng nên thường mang đậm tính sử thi. Thơ chống Mĩ thường có giọng điệu rắn rỏi, trang trọng, hào sảng khi viết về đất nước và con người trong kháng chiến.
– Sóng của Xuân Quỳnh, trong hoàn cảnh ấy, xuất hiện như một bông hoa – hoa dọc chiến hào đem đến cho thi đàn dân tộc thời kì chống Mĩ nói chung, phong trào thơ trẻ chống Mĩ nói riêng một hương sắc độc đáo: giàu nữ tính và luôn da diết những khát vọng hạnh phúc đời thường, đặc biệt là khát vọng của con người về tình yêu muôn thuở.
2. Sóng là bài thơ đi cùng năm tháng.
– Để đi cùng năm tháng, một bài thơ phải có nội dung cảm xúc sâu lắng (phải là tiếng lòng, tình cảm, ý nghĩ…) và có những vẻ đẹp riêng về nghệ thuật (sử dụng ngôn từ, hình ảnh, nhịp điệu, cấu tứ…).
– Sóng là bài thơ đi cùng năm tháng với đề tài tình yêu muôn thuở. Nét độc đáo của Sóng là diễn tả tình yêu của người phụ nữ tha thiết, nồng nàn, chung thuỷ, muốn vượt lên thử thách của thời gian và hữu hạn của đời người. Sóng là lời tự bạch của một tâm hồn phụ nữ về những khám phá, trải nghiệm, triết lí vừa chân thành, mạnh bạo,da diết những lo âu mà lại đầy lạc quan tin tưởng. Đó là một tình yêu dâng hiến cao đẹp mà con người trong mọi thời đại còn hướng tới.
(Có thể so sánh liên hệ với những bài thơ khác của Xuân Quỳnh hoặc các nhà thơ khác cùng viết về đề tài tình yêu để thấy đây là một nội dung cảm hứng hấp dẫn đối với cả người sáng tác và người đọc).
– Nghệ thuật: Sóng là bài thơ đi cùng năm tháng với một giọng thơ trữ tình dạt dào, sâu lắng mang âm điệu của sóng, của thể thơ ngũ ngôn truyền thống.
+ Ngôn từ giản dị, trong sáng.
+Cặp hình tượng sóng và em song trùng, tương ứng, hoà nhập, khi đan xen, khi soi chiếu, khi tạo kết cấu vòng tròn liên tiếp, miên man…
(Dùng hình tượng sóng để diễn tả cảm xúc tình yêu không chỉ có Xuân Quỳnh. Nguyễn Du trong Truyện Kiều có viết: “Sóng tình dường đã xiêu xiêu/ Xem trong âu yếm có chiều lả lơi”; Xuân viết: “Anh muốn làm sóng biếc/ Hôn mãi cát vàng em/Hôn thật khẽ thật êm/Hôn êm đềm mãi mãi”. Con sóng trong thơ Xuân Diệu mang thiên tính nam. Sóng của Xuân Quỳnh mang thiên tính nữ nhưng không kém da diết, táo bạo, chân thành).
4. Đánh giá:
– Khẳng định giá trị bài thơ không chỉ gắn với một thời mà còn mãi mãi.
– Mở rộng: Để đi cùng năm tháng một bài thơ ngoài tự phát sáng còn nhờ vào quá trình tiếp nhận của người đọc . Vì thế, mỗi người đọc cũng phải có ý thức trau dồi, bồi đắp tâm hồn, trí tuệ để biết tri âm cùng tác giả.
Đề bài 6: “Thơ Xuân Quỳnh thể hiện một trái tim phụ nữ hồn hậu, chân thành, nhiều lo âu và luôn da diết trong khát vọng hạnh phúc đời thường”. (SGK Văn học 12, tập 1,Nxb Giáo dục, Hà Nội,2000, tr.250).Phân tích bài thơ Sóng để làm rõ nhận định trên.
Gợi ý:
I. Mở bài:
– Bài thơ sáng tác tại biển Diêm Điền năm 1967, in trong tập thơ Hoa dọc chiến hào (1968).
– Bài thơ đã hội tụ những vẻ đẹp của tâm hồn Xuân Quỳnh trong tình yêu – một trái tim phụ nữ hồn hậu, chân thành, nhiều lo âu và luôn da diết trong khát vọng hạnh phúc đời thường.
II. Thân bài:
1. Giải thích nhận định.
– Nhận định trên có ý nghĩa khái quát về thơ và con người Xuân Quỳnh. Đấy là những vần thơ thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của nhà thơ: tình yêu là cái đẹp, cái cao cả, tình yêu là sự hoàn thiện con người.
– Nhận định còn có ý nghĩa khái quát: thơ Xuân Quỳnh tiêu biểu cho tiếng nói tâm tư, tình cảm của giới mình.
2. Phân tích bài thơ để chứng minh nhận định.
a. Một trái tim phụ nữ hồn hậu, chân thành, nhiều lo âu và luôn da diết trong khát vọng hạnh phúc đời thường:
– Một tâm hồn phụ nữ luôn có những rung động mãnh liệt, luôn rạo rực đầy khát khao, luôn tìm cách lí giải tâm hồn mình và đi tìm nguồn cội của tình yêu:
“Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể”
Và:
“Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau”
– Một tâm hồn phụ nữ hồn hậu, chân thành với tình yêu đắm say, trong sáng và chung thủy:
“Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”
Hay:
“Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh- một phương”
– Một tâm hồn phụ nữ hi vọng vào tình yêu cao cả trước thử thách nghiệt ngã của thời gian và cuộc đời sẽ hoàn thiện mình:
“Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở”
– Một tình yêu không vị kỉ mà đầy trách nhiệm, muốn hòa nhập vào cái chung để hiến dâng trọn vẹn:
“Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ”
b. Nghệ thuật biểu hiện:
– Sử dụng thể thơ năm chữ, âm điệu bắng trắc của những câu thơ thay đổi, đan xen nhau, nhịp điệu phù hợp với nhịp điệu vận động của sóng và phù hợp với cảm xúc của nhân vật trữ tình.
– Sử dụng từ ngữ gợi hình, gợi cảm, diễn tả những trạng thái đối lập mà thống nhất của sóng và của tình cảm con người.
– Hình tượng sóng trong bài thơ đã thể hiện sinh động và chính xác những cảm xúc và khát vọng trong tâm hồn người phụ nữ đang yêu.
3. Đánh giá:
– Nhận định trên hoàn toàn xác đáng.
– Từ ý kiến trên và bài thơ giúp ta nhìn lại tâm hồn mình để sống đẹp trong tình yêu và trong cuộc đời.
Đề bài 7: Bàn về chương “Đất nước” trích từ “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm, có ý kiến cho rằng: Tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại” là tư tưởng chủ đạo, chi phối cả nội dung và hình thức chương V của bản trường ca này.Từ cảm nhận của mình về đoạn trích “Đất Nước”, anh / chị hãy bình luận về ý kiến trên.
Gợi ý:
I. Mở bài:
– Nguyễn Khoa Điềm là một nhà thơ tiêu biểu của thế hệ thơ trẻ thời chống Mĩ cứu nước. Thơ Nguyễn Khoa Điềm giàu chất suy tư, cảm xúc lắng đọng. Đất nước nhân dân là một nguồn cảm hứng phong phú của thơ ông.
– Trích dẫn ý kiến : Tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại” là tư tưởng chủ đạo, chi phối cả nội dung và hình thức chương V của bản trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm.
II. Thân bài:
1. Giải thích ý kiến.
– “Đất Nước của Nhân dân”: nhằm đề cao vai trò to lớn của nhân dân- người kiến tạo dựng xây, bảo vệ đất nước. Nhân dân chính là chủ thể của đất nước để “Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân”.
– “Ca dao thần thoại” là 2 thể loại tiêu biểu, đặc trưng nhất trong kho tàng văn học dân gian, kết tinh lưu giữ vẻ đẹp tâm hồn dân tộc, gợi mở một thế giới bay bổng lãng mạn huyền thoại. Tác giả của “ca dao thần thoại” chính là nhân dân. Khi nói “Đất Nước của ca dao thần thoại” là tác giả muốn khẳng định: Đất Nước của Nhân dân còn là đất nước của văn hóa dân gian.
– Chủ đạo: chính, quan trọng, chịu trách nhiệm điều khiển.
– Chi phối: có tác dụng điều khiển, quyết định đối với cái gì.
→ Nhận định nhấn mạnh: Trong “Đất Nước”, Nguyễn Khoa Điềm khẳng định Nhân dân là chủ thể của Đất Nước, Đất Nước của nhân dân cũng là Đất Nước của văn hoá, văn học dân gian. Tư tưởng này điều khiển, chi phối đến nội dung và hình thức nghệ thuật của toàn bộ chương thơ.
2. Tư tưởng Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại thấm nhuần trong nội dung của đoạn trích:
– Tư tưởng “Đất Nước của nhân dân” được nhà thơ thể hiện cụ thể sinh động và được triển khai trên nhiều bình diện: trong “thời gian đằng đẵng”, trong “không gian mênh mông” và từ bề dày truyền thống văn hoá, phong tục, tâm hồn và tính cách dân tộc, để rồi tác giả đi cắt nghĩa cho câu hỏi ai làm nên đất nước và đó chính là nhân dân.
– Nhân dân đặt tên cho các danh thắng, tên đất, tên làng để rồi nhân dân thả hồn vào sông núi. Tác gia liệt kê một loạt các danh thắng từ Bắc vào Nam đều trong sự gắn bó với nhân dân biết bao thế hệ. Sau mỗi hình thể của sông núi là hình ảnh của cuộc đời, là ước nguyện của nhân dân: núi Vọng Phu, hòn Trống Mái, núi Bút non Nghiên…
– Nhân dân làm nên lịch sử bốn nghìn năm. Nhân dân chính những người dân bình dị sinh ra lớn lên, lao động và chiến đấu, “khi có giặc người con trai ra trận”, “người con gái trở về nuôi cái cùng con”, “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”… Họ là những anh hùng vô danh không ai nhớ mặt đặt tên, sống “giản dị” chết “bình tâm”, hi sinh thầm lặng cho đất nước.
– Nhân dân là chủ thế sáng tạo ra văn hóa để truyền lại cho thế hệ mai sau bao gồm các giá trị tinh thần và vật chất của đất nước từ hạt lúa ngọn lửa tiếng nói, tên xã tên làng, đến những truyện thần thoại, câu ca dao, tục ngữ. Nhân dân là anh hùng văn hóa đã làm nên đất nước.
3. Tư tưởng đất nước của nhân dân thấm nhuần trong hình thức thể hiện.
– Chất liệu của “ca dao thần thoại” được Nguyễn Khoa Điềm sử dụng một cách đậm đặc, sáng tạo và vô cùng hiệu quả khi nói về nhân dân – chủ thể đất nước. Cả đoạn trích “Đất nước” như được bao bọc bởi không khí của văn hoá dân gian. Cách sử dụng cũng rất linh hoạt, sáng tạo, tác giả thường gợi ra bằng một vài chữ của câu ca dao, hay 1 hình ảnh, 1 chi tiết trong truyền thuyết, cổ tích, khi trích dẫn nguyên văn, khi tái tạo trong một cảm xúc mới:
+ Vốn ca dao dân ca, tục ngữ được tác giả vận dụng bằng cách gợi ra bằng một vài chữ của câu ca, cũng có khi dẫn ra cả câu (“cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”, “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”, “ yêu em từ thuở trong nôi”…)
+ Thần thoại, truyền thuyết, cổ tích từ xa xưa: truyền thuyết về Hùng Vương, truyện cổ Trầu cau, Sự tích hòn Vọng Phu, hòn Trống Mái…
+ Phong tục tập quán, lối sống, vật dụng dân gian như: miếng trầu; bới tóc sau đầu; cái kèo cái cột; hạt gạo xay, giã, dần, sàng, hòn than, con cúi…
– Hiệu quả:
+ Tạo nên một không gian nghệ thuật rất riêng vừa bình dị gần gũi hiện thực vừa bay bổng lãng mạn huyền thoại giàu chất thơ gợi lên được hồn thiêng của non sông, đất nước.
+ Giúp nhà thơ thể hiện thành công ý tưởng Đất Nước của nhân dân một cách thuyết phục bởi đã dùng chính chất liệu của nhân dân để nói về nhân dân.
4. Bình luận.
– Ý kiến trên đúng đắn sâu sắc. Tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại” là tư tưởng chủ đạo, chi phối cả nội dung và hình thức chương V của bản trường ca.
– Đúng vì trong quan niệm, nhận thức và cảm xúc đều thấm nhuần tư tưởng nhân dân làm nên đất nước – nhân dân không phải ai khác mà là những người vô danh đã kiến tạo bảo vệ, giữ gìn đất nước, đã dựng xây nên những truyền thống văn hoá, lịch sử ngàn đời của dân tộc; trong hình thức thể hiện như hình tượng đến chi tiết đều thấm nhuần chất dân gian.
– Tư tưởng này vô cùng sâu sắc mới mẻ, độc đáo: văn học trung đại quan niệm đất nước là của nhà vua, văn học hiện đại có ý tưởng đề cao vai trò của nhân dân nhưng chưa được nâng lên thành cảm hứng nghệ thuật và được lí giải một cách toàn diện cặn kẽ từ nhiều bình diện trong sự gắn bó với nhân dân như Nguyễn Khoa Điềm ở chương “Đất Nước” này.
– Ý kiến trên cô đúc được cả cảm hứng chủ đạo và đặc sắc nghệ thuật của đoạn trích “Đất Nước”. Ý kiến trên giúp người đọc nhận thức sâu sắc những đóng góp độc đáo mới mẻ của Nguyễn Khoa Điềm khi cảm nhận về đất nước, thấm thía hơn về ý tưởng “Đất Nước của Nhân dân’.
– Với đương thời: thức tỉnh thế hệ trẻ thời đại đánh Mĩ, nhận thức rõ về đất nước nhân dân để rồi có trách nhiệm với đất nước, đứng dậy đấu tranh giành độc lập tự do.
– Với hôm nay: nhắc nhở thế hệ trẻ cần biết trân trọng giá trị truyền thống, phát huy giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, có trách nhiệm với đất nước trong thời đại mới.
b. Dạng đề nghị luận về hai ý kiến bàn về văn học
Đề bài: Nhận xét về 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến (Quang Dũng) có ý kiến cho rằng: Đoạn thơ là bức tranh thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, thơ mộng song cũng đầy dữ dội, khắc nghiệt. Ý kiến khác lại cho rằng: Đoạn thơ vẽ nên bức tượng đài về người chiến sĩ Tây Tiến gian khổ, hi sinh song cũng rất lãng mạn, hào hoa.Từ cảm nhận về đoạn thơ, em suy nghĩ như thế nào về 2 ý kiến trên?
Gợi ý:
I. Mở bài:
– Giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm. Khái quát về đoạn thơ và trích ý kiến nhận định.
II. Thân bài:
1. Nhận định thứ nhất:
+ Các hình ảnh sương mờ bao phủ cả vùng Tây Bắc rộng lớn, hoa về trong đêm hơi, những ngôi nhà bồng bềnh trong mưa rừng, trong biển sương mờ.
+ Không gian núi rừng bao la cứ trải ra mênh mông, vô tận trước mắt người lính.
+ Những câu thơ nhiều thanh bằng giúp người đọc tưởng tượng về một Tây Băc thơ mộng với nét vẽ nhoè mờ kiểu tranh lụa.
+ Các địa danh gợi sự xa xôi, heo hút.
+ Các hình ảnh miêu tả núi cao, vực sâu, đèo dốc, sương rừng, mưa núi, cọp dữ, thác gầm..
+ Những câu thơ nhiều thanh trắc, nghệ thuật đối lập, điệp từ, điệp cấu trúc, ngắt nhịp khiến câu thơ giàu nhạc tính.
2. Nhận định thứ hai:
+ Ấn tượng đầu tiên của Quang Dũng về người lính Tây Tiến trên đường hành quân là những bước đi mệt mỏi lẩn khuất như chìm đi trong màn sương dày đặc.
+ Người lính Tây Tiến phải đối mặt, vượt qua dốc núi vô cùng hiểm trở với bao gian lao, vất vả: những dốc núi cao như chạm trời xanh, nối tiếp là những vực sâu thẳm, những sườn đèo dốc.
+ Cái hoang dại, dữ dội của rừng núi thường trực, đeo bám người lính Tây Tiến như một định mệnh, luôn hiện hình để hù doạ và hành hạ họ.
+ Dù can trường, dãi dầu nhưng có khi gian khổ đã quá sức chịu đựng đã khiến người lính gục ngã. Họ hi sinh trong tư thế vẫn hành quân, vẫn chắc tay súng, vẫn ôm lấy và gục lên quân trang.
+ Vẻ tinh nghịch tếu táo, chất lính ngang tàng như thách thức cùng hiểm nguy, gian khổ của người lính Tây Tiến.
+ Trên đường hành quân vất vả, họ thả hồn mình vào thiên nhiên để trút bỏ mọi nhọc nhằn khỏi thân xác, phục tâm, phục sức.
+ Có lúc họ dừng chân một bản làng giữ rừng sâu, quây quần bên những bữa cơm thắm tình quân dân cá nước. Tình cảm đầm ấm xua tan đi vẻ mệt mỏi trên gương mặt, khiến họ tươi tỉnh hẳn lên.
+ Cái nhìn lãng mạn đã nâng đỡ cho ngòi bút Quang Dũng, tạo nên màu sắc bi tráng khi nói tới sự hi sinh của những người lính Tây Tiến.
+ Nét đẹp trong tâm hồn lãng mạn, hào hoa của những chàng lính thủ đô giúp họ vượt qua khó khăn thử thách để bước tiếp trên đường hành quân hoàn thành nhiệm vụ.
3. Đánh giá chung:
– Cả hai cho thấy cái nhìn đầy đủ, rõ nét về thiên nhhiên Tây Bắc và người lính Tây Tiến hiện về trong nỗi nhớ chơi vơi của nhà thơ khi ông rời xa Tây Tiến, rời xa con sông Mã.
– Đoạn thơ không chỉ là thiên nhiên Tây Bắc, người chiến sĩ Tây Tiến mà còn là tình yêu, sự gắn bó máu thịt của nhà thơ với Tây Bắc, Tây Tiến.
– Đoạn thơ là sự kết hợp hài hoà giữa yếu tố hiện thực và bút pháp lãng mạn. cả đoạn thơ như bức tranh thuỷ mặc cổ điển được phác thảo theo lối tạo hình phương Đông (so sánh với bút pháp miêu tả của các nhà thơ khác).
– Khái quát lại và đánh giá về thành công của tác giả, tác phẩm trong văn học Việt Nam giai đoạn 1945-1954.
6. Dạng đề liên quan đến đặc trưng của thơ.
Lưu ý:
– Thực chất đây vẫn là dạng đề nghị luận về một (hoặc hai) ý kiến bàn về văn học nhưng chúng đều đề cập đến kiến thức lí luận là đặc trưng của thơ nên chúng tôi tách thành một dạng đề riêng để học sinh dễ nhận biết.
– Đây là dạng đề khó, yêu cầu rất cao ở học sinh về kiến thức lí luận văn học, cách xử lí đề và khả năng tạo lập văn bản.
– Vì vậy giáo viên nên sử dụng dạng đề này để bồi dưỡng cho học sinh khá giỏi, giúp các em tăng điểm số môn Ngữ văn trong các kì thi.
Đề bài 1 :Thơ là thơ đồng thời là hoạ, là nhạc, là chạm khắc theo một cách riêng. (Sóng Hồng)Anh (chị) hiểu ý kiến trên như thế nào? Qua phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.
Gợi ý:
(Xem minh hoạ ở mục D.I)
Đề bài 2 :”Điều kì diệu của thơ là mỗi tiếng, mỗi chữ, ngoài cái nghĩa của nó, ngoài công dụng gọi tên sự vật, bỗng tự phá tung mở rộng ra, gọi đến xung quanh nó những cảm xúc, những hình ảnh không ngờ, toả ra xung quanh nó một vùng ánh sáng động đậy. Sức mạnh nhất của câu thơ là sức gợi ấy.”(Mấy ý nghĩ về thơ, Ngữ văn 12 Nâng cao, tập 1, tr.52, NXBGD, 2008).Qua bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh, anh/chị hãy làm sáng tỏ nhận xét trên.
Gợi ý:
I. Mở bài:
– Nêu vấn đề cần nghị luận.
II. Thân bài:
1. Hiểu ý kiến của Nguyễn Đình Thi.
– Ngôn ngữ thơ (chữ và nghĩa trong thơ) vừa có nghĩa do bản thân câu chữ mang lại (nghĩa của nó, nghĩa gọi tên) vừa có nghĩa do câu chữ gợi ra (cảm xúc, hình ảnh, vùng ánh sáng lay động, sức gợi).
– Khẳng định sức mạnh nhất của thơ là sưc gợi ấy.
↓ Bằng cách diễn đạt hình ảnh rất cụ thể và sinh động, Nguyễn Đình Thi đã nhấn mạnh và làm nổi bật một đặc trưng bản chất của thơ ca: ngôn ngữ trong thơ, vấn đề chữ và nghĩa. Tác giả vừa khẳng định vừa cắt nghĩa, lí giải sức mạnh của thơ nằm ở sức gợi.
2. Chứng minh.
Học sinh phải chỉ ra và phân tích được đặc điểm ngôn ngữ thơ trong bài Sóng (Xuân Quỳnh). Không nhất thiết phải phân tích cả bài mà có thể lựa chọn những câu thơ, đoạn thơ tiêu biểu để làm sáng tỏ vấn đề:
– Về chữ: ngôn ngữ dung dị mà chọn lọc, tinh tế, gợi cảm, hàm súc, giàu tính ẩn dụ.
– Về nghĩa:
+ Nghĩa câu chữ: con sóng thực và các đặc tính của nó (dữ dội, dịu êm, trên mặt nước, dưới lòng sâu).
+ Nghĩa mà sóng gợi ra (hình ảnh, cảm xúc, sức gợi): những cung bậc tâm trạng người con gái trong tình yêu, những khát vọng hạnh phúc đời thường và khao khát tự hoàn thiện bản thân.
→ Ngôn ngữ thơ Xuân Quỳnh dung dị mà có sức gợi sâu xa từ hình ảnh thực mà liên tưởng đến tâm trạng người con gái trong tình yêu, khát vọng bất tử hoá, tự hoàn thiện bản thân để hướng tới những giá trị đích thực của cuộc sống. Chính sức gợi này đã tạo nên sức sống cho bài thơ.
3. Đánh giá chung.
– Về ý nghĩa của vấn đề: ý kiến của Nguyễn Đình Thi nói về một trong những đặc trưng bản chất của thơ không chỉ có tác dụng nhất thời mà ngày nay vẫn còn nguyên giá trị bởi ý nghĩa thời sự, tính chất khoa học đúng đắn.
+ Đối với người sáng tác: định hướng cho sự sáng tạo, làm thơ phải biết lựa chọn ngôn ngữ hàm súc, giàu sức gợi, sức lôi cuốn, hấp dẫn.
+ Đối với người thưởng thức: định hướng tiếp nhận, đọc thơ không chỉ hiểu nghĩa của câu chữ mà phải dựng dậy lớp nghĩa được gợi ra từ câu chữ.
– Về thành công sử dụng ngôn ngữ của Xuân Quỳnh trong bài thơ Sóng.
Đề bài 3 : Hành động sáng tạo trong thơ ca là một sự giải toả những cảm xúc tràn đầy trong tâm hồn nhà thơ. Anh/chị hãy trình bày và làm sáng tỏ ý kiến trên.
Gợi ý:
Yêu cầu: Học sinh hiểu đúng vấn đề: đề bài bàn về vai trò của tình cảm, cảm xúc trong thơ. Đó là một trong những đặc trưng của thơ, nhất là thơ trữ tình. Bài viết cần xuất phát từ điều đó để bình luận và chứng minh vấn đề. Quá trình viết bài phải có dẫn chứng để phân tích và làm nổi bật các luận điểm. Học sinh có thể trình bày bằng nhiều cách khác nhau nhưng cần trình bày được các ý sau đây:
1. Giải thích:
– Thơ là một hình thức sáng tạo văn học nghiêng về thể hiện cảm xúc thông qua tổ chức ngôn từ đặc biệt, giàu nhạc tính, giàu hình ảnh và gợi cảm.
– Hành động sáng tạo thi ca: là quá trình làm thơ của người nghệ sĩ trước tác động của đời sống hiện thực.
– Sự giải phóng những cảm xúc tràn đầy được hiểu là: mỗi khi có điều gì chất chứa bên trong lòng, không nói ra không chịu được, đó là lúc thi sĩ tìm đến thơ để giãi bày.
→ Ý kiến trên đã chỉ ra đặc trưng của thơ trữ tình và đề cao vai trò của tình cảm, cảm xúc trong thơ.
2. Bình luận và chứng minh
– Khẳng định ý kiến trên hoàn toàn đúng, ý kiến đó đã xuất phát từ đặc trưng của thể loại thơ trữ tình và quy luật chung của sáng tạo nghệ thuật. Đã có nhiều ý kiến của các nhà thơ, nhà phê bình văn học xưa nay có những quan điểm tương đồng. Thơ chỉ bật ra khi trong tim ta cuộc sống đã tràn đầy (Tố Hữu), Hãy xúc động hồn thơ cho ngọn bút có thần (Ngô Thì Nhậm), Một bài thơ hay là thơ chín đỏ trong cảm xúc (Xuân Diệu). Thiếu tình cảm, cảm xúc chỉ có thể trở thành người thợ làm những câu chữ có vần chứ không làm được nhà thơ.
– Thơ là tiếng nói tình cảm của con người trước cuộc sống. Thơ trữ tình lấy cảm xúc bên trong đời sống tinh thần của nhà thơ để biểu hiện. Khi rung động sâu sắc với cuộc sống, trong những trạng thái vui buồn ở mức thăng hoa, con người có nhu cầu bộc lộ tình cảm, khi đó người ta cần đến thơ (dẫn chứng).
– Thơ ra đời từ rất sớm trong lịch sử nhân loại. Người ta làm thơ như một nhu cầu cần thiết trong cuộc sống. Con người dùng thơ để bộc lộ tâm tư, tình cảm, nỗi niềm. Thơ là tiếng nói tha thiết của tâm hồn. Đó có thể là những cảm xúc, suy tư về nhân tình thế thái, về số phận con người, thăng trầm của xã hội, những cảm xúc về đát nước, nhân dân, nhân loại. Có khi cũng chỉ là tâm tư của cá nhân trong cuộc đời. (dẫn chứng)
– Tình cảm trong thơ phải là tình cảm chân thật của nhà thơ. Tình cảm ấy là những trạng thái vui buồn, sung sướng, đau khổ mà người nghệ sĩ từng trải qua, từng sống trong những cung bậc ấy. Thơ không chấp nhậ thứ tình cảm giả tạo, mờ nhạt. Nếu nhà thơ không viết thơ bằng nước mắt, bằng máu chính mình, không sống sâu sắc với những tình cảm của con người thì thơ sẽ thiếu sức sống, chỉ có thể làm được những bài thơ vô hồn, chỉ là những chữ hoa mĩ được ép khô trên trang giấy. (dẫn chứng)
– Tình cảm, cảm xúc trong thơ phải có sức lay động lòng người. Thơ là kết quả của sự nhập tâm với đời sống. Chế Lan Viên rất có lí khi cho rằng: Chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép. Như vậy, nhà thơ cần có tấm lòng với cuộc đời, mở lòng với cuộc sống để đón nhận những tình cảm, những rung động từ hiện thực cuộc đời. Đó cũng là cách để nâng cao tâm hồn mình lên, biết yêu thương, đồng cảm, vui buồn với mọi người xung quanh. Nhà thơ phải biết sống đẹp, có trái tim mãnh liệt, phong phú, sâu sắc. Tình cảm là yếu tố ngọn nguồn của cái đẹp trong thơ, khi đó thơ sẽ có sưc mạnh thanh lọc tâm hồn con người. (dẫn chứng)
– Tình cảm, cảm xúc trong thơ phải được truyền tải bằng một hình thức nghệ thuật độc đáo, mang tính thẩm mĩ thể hiện trên các phương diện: Thể loại, ngôn ngữ, hình ảnh, tứ thơ, tính nhạc, chất hoạ…Điều đó đem lại cho thơ vẻ đẹp hoàn mĩ. (dẫn chứng)
3. Bàn luận mở rộng.
– Thơ gắn kết những tâm hồn đồng điệu. Nhà thơ cần nắm bắt cái riêng biệt để biểu hiện được cái phổ quát, qua cảm xúc, nỗi lòng của nhà thơ, người đọc thấy mình trong đó.
– Thơ không chỉ là cảm xúc mà cần cả lí trí. Đó là chiều sâu của nhận thức. Nếu thơ chỉ thiên về cảm xúc, bài thơ sẽ thiếu chất trí tuệ, thiếu sự suy tưởng triết lí mang tính khái quát về cuộc sống.
– Sự tiếp nhận ở người đọc: cần sự tri âm, sự đồng cảm với tác phẩm, với nhà thơ để có thể chia sẻ những tình cảm đồng điệu. Khi ấy, thơ sẽ có sức sống lâu bền trong lòng người đọc nhiều thế hệ.
– Bài học cho người nghệ sĩ: phải biết đề cao yếu tố tình cảm, cảm xúc trong việc sáng tác thơ.
Đề bài 4: Nghệ thuật chỉ làm ra những vần thơ khéo léo, còn trái tim mới làm nên tác phẩm thi ca. (V.Huygô)Anh/chị suy nghĩ như thế nào về vấn đề trên? Hãy phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng để làm sáng tỏ quan điểm của anh/chị.
Gợi ý:
1. Giải thích ý kiến.
– Nghệ thuật chỉ làm ra những vần thơ khéo léo:
+ Nghệ thuật: những yếu tố thuộc phạm trù hình thức của tác phẩm thơ ca: thể loại, cấu tứ, ngôn ngữ, hình ảnh, nhạc điệu, các biện pháp tu từ…
+ Những vần thơ khéo léo: là những vần thơ đẹp, hấp dẫn bởi hình ảnh, ngôn từ, nhạc điệu…tạo ấn tượng ban đầu cho người đọc.
– Trái tim mới làm nên tác phẩm thi ca:
+ Trái tim: cách diễn đạt hình tượng biểu hiện những tình cảm, cảm xúc mãnh liệt…vẻ đẹp tâm hồn của người nghệ sĩ.
+ Tác phẩm thi ca: sản phẩm tinh thần của nhà thơ. Ở đây V.Huygô đề cập đến những tác phẩm thơ ca chân chính, có giá trị, có sức sống mãnh liệt trong lòng độc giả, vượt qua giới hạn của thời gian, không gian, trở thành tác phẩm chung của nhân loại, của muôn đời…
→ Ý kiến nhấn mạnh yếu tố tình cảm, cảm xúc của người nghệ sĩ trong sáng tác thơ ca nói riêng, văn học nói chung. Đó là yếu tố quan trọng, có ý nghĩa quyết định giá trị của tác phẩm.
2. Bình luận.
a. Khẳng định sự đúng đắn của ý kiến.
– Về lí luận:
+ Xuất phát từ đặc trưng của thơ ca là những rung động và cảm xúc của con người trước cuộc sống được bộc lộ một cách tự nhiên, chân thành. Tình cảm, cảm xúc là yếu tố có trước, khơi nguồn cảm hứng sáng tác cho nhà thơ. Thơ là do tình sinh ra (Viên Mai), Thơ khởi phát từ lòng người ta (Lê Quý Đôn)…
+ Chức năng, giá trị của văn học: giáo dục tư tưởng, tình cảm, hướng con người tới vẻ đẹp Chân – Thiện – Mĩ…Thơ ca muốn lay động lòng người, truyền được tư tưởng tình cảm cho người đọc thì người cầm bút phải rung động mãnh liệt, có tình cảm thương yêu hay căm giận sâu sắc…Thơ sinh ra từ nụ cười trong sáng hay những giọt nước mắt đắng cay (Ra-xun Gam – za- tôp).
– Về thực tiễn: trong sáng tác thơ ca từ xưa tới nay, những tác phẩm có giá trị đều là những tác phẩm được tạo nên từ trái tim giàu cảm xúc của người cầm bút.
– Trong văn học nói chung, thơ ca nói riêng, những tác phẩm có giá trị, nội dung và hình thức luôn thống nhất chặt chẽ với nhau, chúng sẽ không thể tồn tại và không thể có ý nghĩa thực sự khi có cái này mà không có cái kia.
– Chính sự thống nhất của các yếu tố nội dung và hình thức nghệ thuật đã tạo nên sức mạnh tư tưởng cho tác phẩm. Yêu cầu lí tưởng là nội dung của tác phẩm phải có ý nghĩa lớn lao đối với đời sống con người, nội dung đó phải được biểu hiện bằng một hình thức độc đáo. Tác phẩm nghệ thuật đích thực, nhất là những tác phẩm ngôn từ, bao giờ cũng là một phát minh về hình thức và một khám phá về nội dung (Lêônôp).
– Muốn làm được điều đó, nhà văn phải có tâm huyết và tài năng.
2. Chứng minh ý kiến của V. Huygô qua việc phân tích bài thơ Tây Tiến.
– Giới thiệu thật ngắn gọn tác giả, tác phẩm, nhấn mạnh Tây Tiến là tác phẩm thơ ca có giá trị nội dung và nghệ thuật được tạo nên từ tâm huyết và tài năng của Quang Dũng.
– Về nội dung:
+ Nỗi nhớ chơi vơi, da diết về một thời Tây Tiến (gắn với hoàn cảnh ra đời của bài thơ).
+ Bức tranh thiên nhiên miền Tây vừa hùng vĩ, dữ dội, khắc nghiệt, vừa thơ mộng, huyền ảo, trữ tình.
+ Hình tượng người lính Tây Tiến với vẻ đẹp lãng mạn đậm chất bi tráng.
– Về nghệ thuật:
+ Bút pháp lãng mạn phát huy cao độ trí tưởng tượng để diễn tả cảm xúc, tình cảm.
+ Thủ pháp đối lập, tương phản, phóng đại, lí tưởng hoá tô đậm vẻ đẹp của thiên nhiên, cuộc sống con người.
+ Ngôn ngữ sáng tạo, độc đáo, giàu tính nhạc, tính tạo hình.
→ Bài thơ thể hiện rõ nét phong cách nghệ thuật thơ Quang Dũng: một cái tôi lãng mạn, tài hoa, phóng khoáng, hồn hậu; có khả năng diễn tả thiên nhiên, tình người một cách gợi cảm, tinh tế. Thi phẩm làm đẹp, phong phú thêm hình tượng người lính trong văn học kháng chiến và qua đó gửi đến người đọc thông điệp về lòng yêu nước và lí tưởng sống cao đẹp nên có sức hấp dẫn độc giả mọi thời đại.
4. Kết luận.
– Đánh giá khái quát nhận định của V.Huygô. Mỗi tác phẩm là một chỉnh thể nghệ thuật được tạo nên từ sự thống nhất của hai yếu tố nội dung và hình thức biểu hiện. Trong đó nội dung bao giờ cũng đóng vai trò quyết định việc lựa chọn hệ thống các phương tiện biểu hiện của người viết.
– Bài thơ Tây Tiến được tạo nên từ tài năng và tâm huyết của Quang Dũng là minh chứng cho sự đúng đắn của nhận định đó.
– Rút ra bài học cho người sáng tạo và tiếp nhận.
Đề bài 5: “Ngàn trái tim mang trong một trái tim” (Cảm xúc – Xuân Diệu) “Em trở về đúng nghĩa trái tim em” (Tự hát – Xuân Quỳnh). Đặc trưng nào của thơ đã được hai thi sĩ nhắc đến trong những ý thơ trên. Sự gặp gỡ và khác biệt của họ khi thể hiện đặc trưng ấy trong Vội vàng và Sóng?
Gợi ý:
1. Giải thích.
– Trái tim trong thơ là biểu tượng của tâm hồn.
+ Câu thơ của Xuân Diệu: muốn nhấn mạnh tâm hồn nhà thơ thật bao dung, nhân hậu không chỉ chứa đựng những tình cảm, những cảm xúc phong phú của riêng mình mà tập trung cho những buồn vui của cuộc đời rộng lớn, của số phận nhân loại.
+ Câu thơ của Xuân Quỳnh: muốn nói đến ước muốn sống chân thật với những khát vọng chân thành; tâm hồn nhà thơ xúc động mãnh liệt với những buồn vui, khổ đau hạnh phúc của mình, của đời “đúng nghĩa trái tim”.
– Học sinh có thể dựa vào lí luận đặc trưng của thơ để giải thích lí do sao hai câu thơ trên đều nói đến “trái tim”.
+ Đặc trưng của văn học là tình cảm. Văn học xuất phát từ tình cảm, từ tâm hồn tác giả tìm đến tâm hồn người đọc. Văn học cần sự đồng cảm, đồng điệu.
+ Nhà thơ, nhà văn phải biết sống chân thành, nhạy cảm với đời, với người thì tác phẩm của họ mới phong phú, giàu giá trị và tìm được sự đồng điệu trong tâm hồn người đọc.
2. Chứng minh.
Học sinh có thể phân tích hai tác phẩm và phát biểu những cảm nhận khác nhau nhưng phải xuất phát từ nội dung, tư tưởng chủ đề của tác phẩm và của đề thi.
a. Giống nhau:
– Cả hai nghệ sĩ đều trăn trở để làm sáng tỏ những điều sâu thẳm trong trái tim mình.
b. Khác nhau:
* Ở Vội vàng: Xuân Diệu muốn thể hiện điều sâu thẳm nhất trong tâm hồn mình đó là khát vọng sống mãnh liệt, một niềm ham sống vô biên, khao khát vô cùng.
– Ca ngợi cuộc sống muôn màu, muôn vẻ, hấp dẫn và quyến rũ.
– Ca ngợi tình yêu và tuổi trẻ.
– Giục giã vội vàng sống từng phút, từng giây, cố níu giữ thời gian cũng như niềm tiếc nuối mùa xuân, tuổi trẻ đều là biểu hiện của những khát vọng sống sâu xa trong trái tim của nhà thơ. Niềm khát sống ấy thể hiện qua cái nhìn của nhà thơ với hiện thực khách quan.
* Ở Sóng: Xuân Quỳnh muốn chứng minh một tình yêu vô bờ vừa truyền thống vừa hiện đại từ sâu thẳm trái tim của người phụ nữ.
– Nét đẹp truyền thống của người phụ nữ: đằm thắm, dịu dàng, hồn hậu, chung thuỷ.
– Nét đẹp hiện đại của người phụ nữ: táo bạo, mãnh liệt, dù có phấp phỏng lo âu trước cái vô tận của thời gian nhưng vẫn vững tin vào sức mạnh của tình yêu.
3. Đánh giá.
– Người sáng tác thơ cần có cảm xúc chân thành.
– Nhưng cách thể hiện cảm xúc của mỗi tác giả có thể khác nhau. Chính điều đó đã góp phần làm nên sự đa dạng, phong phú cho văn học.
– Người đọc khi tìm hiểu tác phẩm phải có sự đồng điệu với tâm hồn thi nhân.
Đề bài 6: Có ý kiến cho rằng: cái đẹp trong nghệ thuật bắt nguồn từ đời sống nhưng quan trọng và trực tiếp hơn cả là cái đẹp trong chính người nghệ sĩ.Anh/chị có đồng tình với quan điểm trên không? Chọn và phân tích một tác phẩm thơ trong giai đoạn 1945 -1975 (lớp 12) để làm sáng rõ ý kiến của mình.
Gợi ý:
1. Giải thích.
– Cái đẹp là một phạm trù mĩ học, chỉ những giá trị tích cực có khả năng bồi dưỡng, nâng cao tâm hồn, nhận thức, trí tuệ và hành động con người.
– Cái đẹp trong nghệ thuật bắt nguồn từ đời sống: nguồn gốc cái đẹp trong nghệ thuật, mối quan hệ gắn bó giữa nghệ thuật và đời sống.
– Cái đẹp trong chính người nghệ sĩ: những giá trị thuộc về tư tưởng, tâm hồn, nhận thức, thái độ và tài năng nghệ thuật.
– Quan trọng, trực tiếp: nhấn mạnh vai trò của cái đẹp trong bản thân người sáng tạo.
– Cách diễn đạt thành hai vế, vừa khẳng định mối quan hệ nghệ thuật và đời sống, vừa nhấn mạnh vai trò có tính quyết định của người nghệ sĩ trong việc sáng tạo cái đẹp ở tác phẩm nghệ thuật, thực hiện sứ mệnh cao cả của nhà văn.
2. Bình luận.
Ý kiến trên đúng đắn bởi:
– Văn học lấy con người và cuộc sống làm đối tượng phản ánh theo quy luật của cái đẹp, nhằm thỏa mãn những tình cảm thẩm mĩ của con người. Bản thân cuộc sống con người đã là đối tượng thẩm mỹ của nghệ thuật muôn đời.
– Quá trình sáng tạo là quá trình mang tính cá nhân, cá thể, chủ quan cao độ. Đời sống khi được khúc xạ qua lăng kính chủ quan nghệ sĩ dù hiện lên thế này hay thế kia, bằng cách này hay cách khác, người ta đều có thể trực tiếp hoặc gián tiếp thấy được chân dung tinh thần người sáng tạo. Bởi thế, điều quan trọng và trực tiếp hơn cả của cái đẹp trong nghệ thuật là cái đẹp trong chính người nghệ sĩ.
– Là nhà văn, phẩm chất quan trọng hàng đầu là tâm hồn, những rung cảm thẩm mỹ. Chính những rung cảm này mang đến cái đẹp cho tác phẩm và nguồn mĩ cảm cho người đọc. Bên cạnh đó, không thể không kể đến những tư tưởng, thái độ, tình cảm đẹp cùng một tài năng nghệ thuật để truyền tải cái đẹp đời sống vào tác phẩm.
3. Chứng minh.
Học sinh có thể chọn bất kì tác phẩm thơ giai đoạn 1945-1975 trong chương trình Ngữ văn 12, miễn là hiểu và phân tích đúng hướng, có ý thức làm nổi bật những ý sau
– Cái đẹp trong tác phẩm bắt nguồn từ đời sống (ý phụ)
– Cái đẹp trong tác phẩm bắt nguồn từ chính người nghệ sĩ (ý chính)
+ Đẹp ở tâm (tấm lòng với cuộc sống, con người; ý thức trách nhiệm… )
+ Đẹp ở tài năng (nghệ thuật, tri thức…).
4. Đánh giá
– Ý kiến đã khẳng định đúng đắn một trong những vấn đề thuộc bản chất của nghệ thuật nói chung, văn học nói riêng.
– Ý kiến có ý nghĩa:
– Với nhà văn:
– Với lịch sử văn học:
– Với độc giả:
Đề bài 7 : Bàn về thơ, nhà thơ Ấn Độ R.Tagore viết: Cũng như nụ cười và nước mắt, thực chất của thơ là phản ánh một cái gì đó hoàn thiện từ bên trong. Anh (chị) hãy bình luận và làm sáng tỏ ý kiến trên qua một số bài thơ giai đoạn 1945-1975 đã học trong chương trình 12.
I. Mở bài:
– R.Tagore là nhà thơ lớn của văn học ấn Độ và của thơ ca thế kỷ XX. Là người đầu tiên châu Á đạt giải thưởng Nobel (1913)
– Trong cuộc đời sáng tạo, R.Tagore hoạt động trên nhiều lĩnh vực (Chính trị,Triết học, âm nhạc, hội hoạ, VHNT), nhưng lĩnh vực kết tinh tài năng của R.Tagore là thơ ca. R.Tagore được xem là một trong những tác giả lớn của thế kỷ XX.
– Có thể nói, ý kiến của R.Tagore như một sự đúc rút từ những trải nghiệm của hơn 70 năm sáng tạo của ông.
II. Thân bài:
1. Giải thích:
– “Nụ cười và nước mắt”: là những trạng thái cảm xúc của tâm hồn, là niềm vui, nỗi buồn, hạnh phúc và đau khổ… Đó là những cung bậc, sắc thái phong phú đa dạng của tâm hồn, là biểu hiện của thế giới “bên trong” con người.
– “Phản ánh một cái gì đó hoàn thiện từ bên trong”: là cảm xúc đã đến độ chín, cao hơn, là sự thống nhất giữa cảm xúc và lí trí, giữa tư tưởng và tình cảm của nhà thơ. Thơ là tình nhưng không phải là những cảm xúc hời hợt mà là lí trí đã chín muồi, nhuần nhuyễn. Bài thơ nào cũng gói ghém bên trong một chiều sâu suy nghĩ, tư tưởng, chứa đựng ít nhiều chân lí của cuộc đời.
→ Câu nói của Tagore đã nêu chính xác bản chất, đặc trưng của thơ là sự bộc lộ tình cảm, cảm xúc mãnh liệt đã được ý thức, được lắng lọc qua cảm xúc thẩm mĩ của nhà thơ.
– “Cái gì đó” mà R.Tagore muốn nói chính là cảm xúc đã đến độ chín, và hơn thế nữa, không chỉ có cảm xúc mà còn là tư tưởng tình cảm, thái độ của nhà thơ trước cuộc đời. Nói khái quát hơn nữa đó là sự thống nhất giữa cảm xúc và lý trí, giữa tư tưởng và tình cảm của nhà thơ.
– “Thơ là tình của tình nhưng không phải là những cảm xúc hời hợt mà là lý trí đã chín muồi nhuần nhuyễn. Bài thơ bao giờ cũng gói ghém bên trong một chiều sâu suy nghĩ, chữa đựng ít nhiều chân lý tinh tế của cuộc đời” (Phương Lựu – Nhà nghiên cứu phê bình lý luận VH)
Ví dụ: Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên , Đất nước của NĐT, BKSĐ của Hoàng Cầm…
2. Bình luận câu nói của R.Tagore :
– “Thơ phải là bông hoa nảy nở ra từ lòng mình” (Quách Mạt Nhược- Nhà thơ cổ Trung Quốc)
– “Đối với thơ: Tình là gốc, lời là cành, thanh là hoa, nghĩa là quả” (Bạch cư Dị)
– Tố Hữu khi nói chuyện về thơ: “Tôi làm thơ không có bố cục trước mà cứ viết theo dòng cảm xúc tuôn chảy, khi nào hết cảm xúc thì hết thơ”
Từ những ý kiến trên đây, có thể thấy ý kiến của R.Tagore đã lột tả được bản chất của quá trình sáng tạo thơ ca, giúp chúng ta hiểu được mối quan hệ giữa nhà thơ và cuộc đời ( trường hợp Phạm Ngọc Cảnh sáng tác bài Vầng trăng Ba Đình…)…
3. Lí giải vì sao thực chất của thơ là phản ánh một cái gì đó hoàn thiện từ bên trong:
+ Vì văn học bắt nguồn từ hiện thực cuộc sống, phản ánh cuộc sống trực tiếp hoặc gián tiếp. Tuy nhiên, không phải đơn giản là mô phỏng, sao chép, miêu tả sự vật bên ngoài, các sự kiện xảy ra mà là sự tái tạo thông qua thế giới chủ quan của người nghệ sĩ. Đối với thơ, điều này lại càng rõ nét .
+ Do đặc trưng của thơ ca: Nói đến thơ là nói đến cảm xúc, nhà thơ tái hiện cuộc sống thông qua những rung động của chủ thể trữ tình, bằng những xúc cảm mãnh liệt. Tình cảm mãnh liệt ở đây không phải là những khóc cười ồn ào bên ngoài mà là sự rung động mãnh liệt ở bên trong, sự giày vò, chấn động trong tâm hồn. Nhà thơ phải sống rất sâu vào tâm hồn mình, lắng nghe các xao động, đau đớn, sướng vui với những xúc động nội tâm. Thiếu tình cảm mãnh liệt và sâu sắc thì sẽ không có thơ. Độ chín của cảm xúc nhà thơ làm nên chiều sâu của sự thể hiện cuộc sống và lay động tâm hồn người đọc.
+ Trước một hiện thực có người có thể làm được thơ nhưng có người lại không làm thơ được. Không thể ép người ta làm thơ…
+ Chiều sâu của sự thể hiện cuộc sống là ở sức lay động tâm hồn người đọc, trước hết phụ thuộc vào độ chín của cảm xúc nhà thơ. “Khi tình cảm tự tìm cho mình một hình thức để bộc lộ ra ngoài thì ta có thơ” (R.Tagore )
4. Đánh giá, bình luận:
– Câu nói của R.Tagore đã nêu chính xác đặc trưng nội dung của thơ là sự thổ lộ tình cảm mãnh liệt đã được ý thức, là những rung động rất sâu ở bên trong tâm hồn nhà thơ, là tấc lòng, tư tưởng tình cảm mà thi sĩ kí thác, gửi gắm. Đó không phải là sự bộc lộ tình cảm một cách bản năng, trực tiếp mà là tình cảm nảy sinh từ những tiếp xúc với cuộc sống, là tình cảm được ý thức, được lắng lọc qua những xúc cảm thẩm mĩ, gắn liền với sự tự ý thức của nhà thơ về mình và cuộc đời.
– Thơ là kết quả của sự thăng hoa cảm xúc, là sự kết tinh vốn văn hoá, thể hiện cái nhìn về cuộc đời và biểu hiện những trạng thái xúc cảm của nhà thơ.
Tình cảm trong thơ phải là tình cảm lớn, cao đẹp, cao thượng, mang tư tưởng sâu sắc, thấm nhuần chất nhân văn, mang giá trị Chân- Thiện- Mĩ… thì thơ mới có sức vang động trong lòng người, tạo nên sức sống lâu bền.
– Ý kiến của Tagore mới chỉ nhấn mạnh đến đặc trưng nội dung của thơ là tình cảm đã được ý thức, mang đậm tính cá thể mà chưa đề cập đến đặc trưng hình thức của thơ. Thơ là tình đời, tình người ngân lên trong những âm vang ngôn ngữ, kết cấu, hình ảnh, giọng điệu, nhịp điệu… Sự hoàn thiện từ bên trong cần được biểu hiện bằng sự hoàn thiện của hình thức nghệ thuật để có thơ hay.
Đề bài 8: “Người đọc thơ muốn rằng thơ phải xuất phát từ thực tại, từ đời sống, nhưng phải đi qua một tâm hồn, một trí tuệ và khi đi qua như vậy, tâm hồn, trí tuệ phải in dấu vào đó thật sâu sắc, càng cá thể, càng độc đáo, càng hay” (Xuân Diệu).Trình bày suy nghĩ của anh, chị về nhận định trên. Phân tích một vài bài thơ giai đoạn 1945-1975 (lớp 12) để làm sáng tỏ quan điểm của mình về vấn đề này.
Gợi ý:
1. Giải thích.
* Ý kiến của Xuân Diệu đã nêu lên một cách khái quát những yêu cầu cơ bản của người đọc thơ đối với thơ ca.
– Nguồn gốc của thơ ca: thơ phải xuất phát từ thực tại.
Thơ được sinh ra từ trong hiện thực cuộc đời, cái đẹp trong thơ phải mang dấu ấn của cái đẹp trong sự thật đời sống.
– Nội dung của thơ ca phải thể hiện một tâm hồn, một trí tuệ.
Thơ ca phải thể hiện được tình cảm và tư tưởng của thi nhân để rồi đưa tình cảm, tư tưởng đó đến với mỗi người đọc. Thơ ca chính là tiếng nói của một cái tôi cá nhân với cuộc đời.
– Nghệ thuật sáng tạo thơ ca càng cá thể, càng độc đáo càng hay.
Thơ ca phải mang dấu ấn sáng tạo và thể hiện phong cách nghệ thuật riêng biệt của thi nhân.
Tóm lại, đối với Xuân Diệu, một tác phẩm thơ cần bắt nguồn từ hiện thực cuộc sống, thể hiện những tìm tòi, sáng tạo mới mẻ, độc đáo cả về nội dung tư tưởng lẫn hình thức nghệ thuật để đem lại giá trị thẩm mỹ.
2. Chứng minh và bình luận.
– Cuộc sống là điểm xuất phát (là đề tài vô tận, gợi nhiều cảm xúc phong phú … ), là đối tượng khám phá chủ yếu và cũng là cái đích cuối cùng của thơ ca nghệ thuật. Thơ ca nghệ thuật luôn vận động và phát triển trong sự ràng buộc tự nhiên với đời sống xã hội. Những giá trị nghệ thuật chân chính xưa nay đều là những sáng tác bắt rễ sâu xa trong mảnh đất thực tế của thời đại mình. Thơ ca chỉ có ý nghĩa thẩm mỹ, chỉ chinh phục trái tim người đọc khi thể hiện những vấn đề, những cảm xúc mà con người hằng quan tâm, trăn trở. Nếu thơ ca không bắt nguồn từ hiện thực, xa rời cuộc đời, thoát ly thực tại, thơ ca sẽ không thể đến với người đọc, không thể tồn tại trong cuộc đời, khi ấy thơ ca đã tự đánh mất chức năng cao quý nghệ thuật vị nhân sinh của mình.
– Vẻ đẹp của thơ ca trước hết thể hiện ở những tư tưởng, tình cảm mà tác phẩm hàm chứa. Không có chất liệu đời sống thì không làm nên nội dung và giá trị của tác phẩm. Nhưng sự việc đời sống mà không âm vang vào tâm hồn, không lay động sâu xa cảm xúc của người nghệ sĩ thì không thể hóa thân thành cái đẹp của nghệ thuật. Chính vì vậy cần thấy rằng thơ ca là cuộc đời nhưng đó không phải là sự sao chép máy móc mà phải được cảm nhận và thanh lọc qua tâm hồn, trí tuệ của thi nhân để thành thơ. Thơ ca là hình ảnh của đời sống tươi nguyên được tái hiện qua lăng kính tình cảm của người nghệ sĩ. Vì vậy nếu thơ không có tư tưởng, tình cảm thì đó chỉ là những lời sáo rỗng, nhạt nhẽo, vô vị, tầm thường, chỉ là trò làm xiếc ngôn từ vụng về chẳng thể đánh lừa được người đọc.
– Vẻ đẹp của thơ ca còn cần được đánh giá ở hình thức thể hiện. Bản chất của nghệ thuật là sáng tạo. Vì vậy, thơ ca cũng đòi hỏi nhà thơ phải in dấu tâm hồn, trí tuệ mình vào đó thật sâu sắc, càng cá thể càng độc đáo, càng hay. Nhờ khả năng sáng tạo tuyệt vời mà các thi nhân luôn tìm ra những cách nói mới về những điều đã cũ. Nếu không có sáng tạo, không có phong cách riêng thì tác phẩm và tác giả đó sẽ không thể tồn tại trong văn chương. Những sáng tạo về hình thức biểu hiện rất phong phú qua thể loại, cấu tứ tác phẩm, ngôn ngữ thơ, hình ảnh thơ…
(Học sinh biết vận dụng, phân tích một số bài thơ giai đoạn 1945-1975 trong chương trình Ngữ văn 12 để chứng minh và bình luận về ý kiến của Xuân Diệu. )
3. Đánh giá, nâng cao.
– Ý kiến của Xuân Diệu đã thể hiện tiêu chuẩn để đánh giá một thi phẩm đích thực và giúp ta hiểu rõ hơn về ý nghĩa to lớn của thơ ca đối với cuộc sống con người.
– Đây cũng là một quan điểm sáng tác định hướng cho mọi nhà thơ: thơ phải từ cuộc đời, hướng về cuộc đời, vẻ đẹp của một tác phẩm văn học phải kết hợp hài hòa cả nội dung và hình thức. Từ đó giúp nhà thơ có ý thức và trách nhiệm hơn trong quá trình sáng tạo thơ ca.
Đề bài 9: Bài thơ hay là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo có khả năng làm sống dậy trong lòng người đọc những liên tưởng phong phú. Bằng việc cảm nhận một bài thơ trong Ngữ văn 12, anh/chị hãy bình luận và làm sáng tỏ quan điểm trên.
Gợi ý:
1. Giải thích.
– Bài thơ hay là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo: mới mẻ về nội dung, đặc sắc về nghệ thuật.
– Có khả năng làm sống dậy trong lòng người đọc những liên tưởng phong phú: gợi nhắc các tác phẩm văn học nghệ thuật khác, đánh thức những rung động trong lòng người …
2. Cảm nhận về một bài thơ như thế.
Học sinh có thể chọn một bài thơ theo cảm nhận riêng của mình, miễn là:
– Bài viết chỉ ra và phân tích được những đặc sắc trong nghệ thuật sử dụng ngôn từ, sáng tạo hình ảnh, nhịp điệu, xây dựng hình tượng,… để làm nổi bật cảm xúc của chủ thể trữ tình.
– Từ cảm nhận về bài thơ, người viết có được những liên tưởng đa chiều hướng đến những lời thơ, câu văn đẹp khác có nét gần gũi về đề tài, chủ đề, bút pháp…; gợi những cảm xúc sâu lắng trước vẻ đẹp muôn màu của cuộc sống; bài học quý giá cho bản thân sau khi cảm nhận bài thơ đó…
3. Đánh giá:
– Đóng góp của bài thơ về nội dung và nghệ thuật.
– Người đọc cần có ý thức bồi dưỡng tâm hồn, trau dồi kĩ năng, tích lũy kiến thức để phát huy khả năng liên tưởng trong quá trình cảm nhận tác phẩm văn học.
Đề bài 10: Có ý kiến cho rằng ngôn ngữ thơ phải giản dị. Ý kiến khác lại nhấn mạnh làm thơ là cần một phần nghìn miligam quặng chữ. Quan điểm của em về vấn đề này?
Gợi ý:
– “Vạt áo của triệu nhà thơ không bọc hết vàng mà đời rơi vãi / Hãy nhặt lấy chữ của đời mà góp nên trang”
– “Nhà thơ như con ong biến trăm hoa thành mật ngọt/ Một mật ngọt thành đòi vạn chuyến ong bay” (Chế Lan Viên)
1/ Ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên của tác phẩm văn học (Goorki). Etmông Fabex nói: “Chữ bầu lên nhà thơ”. Ngôn ngữ trong văn học giống như màu sắc trong hội họa, âm thanh trong âm nhạc. Trong sự lao động của nhà văn có sự lao động về ngôn ngữ, trong sự giày vò của sáng tạo nghệ thuật có sự giày vò về ngôn từ. Thành công của tác phẩm một phần lớn là nhờ khả năng ngôn ngữ của tác giả.
2/ Ngôn ngữ thơ giản dị là ngôn ngữ thơ giống như ngôn ngữ hằng ngày của đời sống nhân dân.
Vì sao ngôn ngữ thơ phải giản dị:
– Thơ tồn tại như sự minh chứng cho sức sống của ngôn ngữ dân tộc. Một đất nước yêu thơ ca chứng tỏ quốc gia ấy có tâm hồn lành mạnh, sâu sắc và tinh tế. Chưa có dân tộc nào chối bỏ hay hạ thấp các nhà thơ chân chính, những người biết tôn vinh và chia sẻ với tổ quốc, đồng bào mình bằng thi ca.
– Cũng không ai đánh giá, ghi nhận, xếp hạng nhà thơ chính xác, công bằng và sòng phẳng như đông đảo quần chúng nhân dân. Họ đọc thơ bằng trái tim và sự chiêm nghiệm, từng trải cuộc sống, bằng những linh cảm bản năng, bằng lòng yêu không gì có thể thay thế được với tiếng nói mẹ đẻ.
– Với các thi sĩ chúng ta, tôi nghĩ, làm thơ, trước hết là để đi vào thẳm sâu hay bay cao trong cõi ngôn ngữ Việt. Sau đó mới là giao lưu, hội nhập với bè bạn bốn phương. Khó đạt tới sự thấu tỏ tuyệt đối về cảm xúc và ý tứ, về những lung linh của con chữ, về tiết tấu nhịp điệu mang dấu ấn văn hóa, lịch sử, phong tục, thói quen bản địa khi đọc thơ không nguyên văn ngôn ngữ nguồn cội của thi sĩ. Thơ không chỉ có nghĩa mà chủ yếu phải là tình, là hồn, những khái niệm ai cũng biết nhưng lý giải một cách thấu triệt và sâu sắc là vô cùng khó. Trong thơ có hơi thở, hồn vía của dân tộc mình, đồng bào mình. Nó chính là cái thấm sâu nhất, lâu nhất và đương nhiên chi phối nhiều hơn cả trong hành trình sáng tạo của người cầm bút.
– Các nhà thơ đích thực ít ai không khởi đầu và đề cao chất truyền thống trong sáng tác thi ca, trong đó có việc sử dụng ngôn ngữ. Nhà văn không biết đến văn học dân gian là nhà văn tồi (M.Goorki)
(dẫn chứng)
3/ Nhưng làm thơ còn là cần một phần nghìn mili gam quặng chữ: ngôn ngữ thơ ca phải tinh luyện, mang dấu ấn sáng tạo riêng của người nghệ sĩ.
– Vì sao ngôn ngữ thơ ca cần sáng tạo, tinh luyện:
+ Vì đặc trưng của ngôn ngữ thơ: hàm súc, cảm xúc, hình tượng (khác với văn xuôi).
+ Vì yêu cầu mỗi nhà thơ thứ thiệt cần có một vân chữ / không trộn lẫn (Lê Đạt).
+ Vì căn cứ vào đối tượng miêu tả, nội dung bài thơ và ý tưởng nghệ thuật của nhà thơ=> lựa chọn ngôn ngữ phù hợp.
(Dẫn chứng- lựa chọn những từ đắt, hay trong một số bài thơ để phân tích. Ý này cần làm rõ hơn ý ngôn ngữ thơ giản dị.)
4/ Đánh giá.
– Hai ý kiến bổ sung cho nhau.
– Việc sử dụng lựa chọn ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên quyết định thành công của mỗi tác phẩm.
– Bên cạnh ngôn ngữ hay, độc đáo bài thơ cần có nội dung sâu sắc và ý nghĩa được diễn đạt những qua ngôn ngữ đó.
– Bài học với người sáng tao: lựa chọn và sáng tạo ngôn ngữ phù hợp, sáng tạo trong sự kế thừa và cách tân.
– Bài học cho người tiếp nhận: tìm hiểu thơ bắt đầu từ việc tiếp cận ngôn ngữ văn bản, bám vào đặc trưng của thơ, phong cách nghệ thuật nhà thơ để thấy đóng góp riêng trong sử dụng từ ngữ của người nghệ sĩ ngôn từ.
Đề bài 11:
Trong Nhân giai từ thoại, Vương Quốc Duy, nhà thơ đời Thanh của Trung Quốc, có đưa ra nhận định:”Nhà thơ, đối với vũ trụ nhân sinh, nên bước vào bên trong, mà lại nên đi ra bên ngoài. Bước vào bên trong mới có thể viết được. Đi ra bên ngoài mới có thể quan sát được. Bước vào bên trong mới có sinh khí. Đi ra bên ngoài mới đạt cao siêu”. (Lí luận văn học nghệ thuật cổ điển Trung Quốc- Khâu Chấn Thanh (Mai Xuân Hải dịch), NXB Văn học, 2001, trang 67).
Và trong Nghĩ về thơ, nghĩ về thơ, nghĩ…in trong tập Đối thoại mới (1973), Chế Lan Viên Viết:”Mỗi câu thơ là một lần lặn vào trang giấyLặn vào cuộc đờiRồi lại ngoi lên”.
Từ hai ý kiến trên, hãy cho biết suy nghĩ của anh/chị về mối quan hệ giữa sự “bước vào’, “bước ra”, “lặn vào”, “ngoi lên” trong sáng tạo văn học và hiện thực đời sống thông qua phân tích một tác phẩm thơ trong chương trình Ngữ văn lớp 12.
Gợi ý:
1/ Đặt vấn đề:
– Hai ý kiến đều đề cập đến mối quan hệ giữa sáng tạo nghệ thuật và hiện thực đời sống .
2/ Giải quyết vấn đề:
a/ Giải thích nhận định.
– Trong quá trình sáng tạo, nghệ sĩ phải “bước vào”. “lặn vào” để “say”, để trải nghiệm, thẩm thấu, chiếm lĩnh hiện thực, nhưng đồng thời cũng phải biết “bước ra”, “ngoi lên” để tạo một độ lùi, một sự gián cách với đối tượng phản ánh để “tỉnh”, để chiêm nghiệm, khám phá hiện thực dưới nhiều góc độ và mang tính khái quát cao hơn.
– Văn học là một hình thái ý thức xã hội, luôn láy hiện thực đời sống làm đối tượng và chất liệu phản ánh. Hai ý kiến đề cập đến động thái của người nghệ sĩ với hiện thực đời sống trong quá trình sáng tạo. Người nghệ sĩ phải thâm nhập để thấu hiểu hiện thực, đồng thời cũng phải biết vượt lên hiện thực để chiêm nghiện.
b/ Phân tích vấn đề.
– Hiện thực là nguồn gốc của nhận thức, của ý thức, là mảnh đất dồi dào, màu mỡ của nghệ thuật. Văn học bao giờ cũng là sự nhận thức và phản ánh hiện thực.
– Nhà văn muốn phản ánh hiện thực một cách sâu sắc thì phải “bước vào”, “lặn vào” hiện thực để thâm nhập vào đối tượng một cách tuyệt đối cả trên bề rộng lẫn chiều sâu. Đời sống bao giờ cũng phức tạp, đa chiều và luôn biến chuyển, nhà văn phải trải nghiệm thì mới có vốn sống, mới hiểu sâu vào đời sống để sáng tác.
– Tuy nhiên, không chỉ đắm mình trong thế giới hiện thực để khai thác chất liệu đời sống, người nghệ sĩ phải biết “bước ra”, “ngoi lên” khỏi môi trường chất liệu ấy, dùng chính lí trí và cảm xúc, cái say và cái tỉnh của mình để quan sát, soi ngắm một cách kỹ lưỡng, thấu suốt để khám phá mọi ngóc ngách, mọi giá trị của hiện thực, đồng thời, khái quát hoá lên tầm triết lí, tầm tư tưởng để đạt ngưỡng “cao siêu”.
– “Bước vào” là để thâm nhập vào nhân quần, “bước ra” là dùng chính bản thể sáng tạo độc đáo của người nghệ sĩ để chiêm nghiệm nhân quần ấy. Vì vậy, nhận định còn cho thấy vai trò của cá nhân người nghệ sĩ đối với hiện thực được tái hiện. Đó là quá trình chuyển hoá cái khách quan thành cái chủ quan, đưa khách thể vào cái nhìn của chủ thể. như vậy, sự phản ánh mới sâu sắc và có giá trị về mặt tư tưởng.
Lưu ý: Trong quá trình phân tích, học sinh phải dùng tác phẩm theo yêu cầu của đề để chứng minh.
c/ Đánh giá vấn đề.
– Hai ý kiến đặt ra những vấn đề có ý nghĩa quan trọng đối với người cầm bút.
– Hai nhận định này không chỉ miêu tả quá trình, trạng thái sáng tạo mà còn thể hiện phương pháp và ý thức sáng tạo của người nghệ sĩ.
3/ Kết thúc vấn đề.
– Khẳng định mối quan hệ giữa văn học và hiện thực -một mối quan hệ tất yếu giữa cái phản ánh và cái được phản ánh- sẽ góp phần làm nên sức sống vững bền của tác phẩm cũng như tên tuổi của người nghệ sĩ.