tho-ca-viet-nam-tu-sau-1975

Thơ ca Việt Nam từ sau 1975

Thơ ca Việt Nam từ sau 1975.

1. Vài nét về thơ Việt nam Sau 1975.

Bước sang giai đoạn sau 1975, thơ Việt Nam đứng trước một yêu cầu phải nói được những tâm sự của con người khi trở lại với cuộc sống thời bình. Thơ là người bạn tri âm để giãi bày những tâm sự đó. Có thể nói, trong hơn ba mươi năm tính từ thời điểm sau năm 1975, thơ ca Việt Nam đã di được một đoạn đường dài trên con đường hiện đại hóa, hội nhập với thơ ca nhân loại. Tinh thần dân chủ trong thơ được đề cao. Thơ trở nên đa dạng hơn, tư duy nghệ thuật mở rộng hơn. Đó là những thành công đang ghi nhận.

Thơ ca sau năm 1975 không còn êm mượt như thơ ca giai đoạn 1945 – 1975 mà trở nên trúc trắc hơn, ngôn ngữ thơ phong, giọng điệu thơ đa dạng hơn. Ngôn ngữ thơ đậm chất đời thường, gắn với đời sống thường nhật, không ít nhà thơ có ý thức đưa ngôn ngữ đời thường vào thơ. Nhiều nhà thơ thích sử dụng cách nói dân gian, khiến cho thơ vừa dễ nhập vào long người đọc, vừa có khả năng tạo tiếng cười trong thơ. Ngôn ngữ thơ giai đoạn này cũng giàu chất tượng trưng, là loại ngôn ngữ thường gặp ở những nhà thơ có ý hướng cách tân, hiện đại thơ mà tiêu biểu là các cây bút như Lê Đạt, Nguyễn Quang Thiều, … Khi mà ngôn ngữ trong nghệ thuật thơ ca được chú ý nhiều hơn thì thì tất yếu sẽ xuất hiện những quan niệm khác nhau. Có người cho rằng văn chương là một trò chơi, co người khẳng định thơ là một vũ khí, lại có người cho thơ là sự biểu đạt tâm trạng cá nhân hay cộng đồng.

Tuy nhiên, có một thực tế đáng lưu ý, thơ ngày càng ít người đọc hơn. Điều đó co nhiều lí do: Sự bành trướng của công nghiệp thông tin và các phương tiện nghe nhìn khiến văn hóa đọc bị thu hẹp, văn xuôi trở thành loại hình chủ đạo trong đời sống văn học … Nhưng còn phải kể đến một nguyên nhân quan trọng: thơ bùng nổ về số lượng song lại sút giảm về chất lượng trong khi đó trong lĩnh vực nghệ thuật, sự thịnh suy của mỗi thời đại văn chương suy cho cùng phụ thuộc vào chất lượng.

Để giải được bài toán này, không ai khác, nhà thơ chính là người đóng vai trò quan trọng nhất. Vậy đội ngũ sáng tác trong văn học giai đoạn này gồm những ai, họ đã cố gắng hết mình để hoàn thành sứ mệnh của mình với thời đại ? Có thể khẳng định rằng đội ngũ sáng tác thơ sau 1975 đông đảo, nhiều thế hệ và phần lớn trong số họ đã nghiêm túc thực hiện trách nhiệm với nghệ thuật nước nhà. Từ đó tạo ra được một nền thơ với diện mạo và khuynh hướng khác nhau, dù có những bước thăng trầm nhưng cũng không thể phủ nhận vai trò quan trọng với nền văn học dân tộc.

2. Các tác giả tiêu biểu.

Trước cách mạng tháng Tám, lực lượng sáng tác là hầu hết văn nghệ sĩ mang nỗi đau đời, rơi vào sự bế tắc, lâm vào cảnh sống mòn. Thân phận của các nhà văn, nhà thơ như: Thế Lữ, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Huy Cận, Nguyễn Tuân, Nguyễn Công Hoan … , ở thời kì trước cách mạng chính là những bằng chứng sinh động cho điều đó. Nhìn chung, trong hoàn cảnh của cuộc sống trước cách mạng tháng Tám, văn nghệ sĩ cùng chung một số phận với dân tộc. Họ yêu nước bằng một tình yêu thàm kín, gửi gắm tình yêu đó vào thiên nhiên, con người, nền văn hóa của dân tộc. Họ là những trí thức Nho học cuối mùa và cũng là những lớp trí thức Tây học đầu tiên của nước nhà vẫn đau đáu một nỗi đau mất nước.

Từ năm 1945-1975, lực lượng sáng tác văn học được tập hợp đông đảo, có sự góp mặt đầy đủ và bổ sung lẫn nhau giữa các thế hệ. Dưới ngọn cờ của Ðảng, văn nghệ sĩ dù ở thế hệ nào cũng hướng về lý tưởng chung, soi sáng cuộc đời và công việc sáng tạo nghệ thuật. Mặc dù còn phải tiếp tục giải quyết nhiều vướng mắc về lập trường, quan điểm, về tư tưởng nghệ thuật nhưng nhìn chung ngay từ buổi đầu, đa số lớp trước Cách mạng đều phát huy tinh thần dân tộc, hăng hái đi theo kháng chiến bằng lương tâm và trách nhiệm cao nhất của người nghệ sĩ chân chính. Bên cạnh đó, phải kể đến lớp nhà văn trưởng thành từ quân đội, từ phong trào sáng tác quần chúng. Sáng tác của họ mang đậm đà hơi thở đời sống, tạo nên sức trẻ cho nền văn học, có sức động viên, khích lệ tinh thần nhân dân rất mạnh mẽ. Như vậy, đội ngũ nhà văn 1945-1975 ngày càng đông đảo với ba thế hệ :

+ Thế hệ nhà văn trước Cách mạng tháng Tám.

+ Thế hệ nhà văn trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Pháp.

+ Thế hệ nhà văn trưởng thành trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và chống Mĩ cứu nước.

Các thế hệ nhà văn đã có sự bổ sung hỗ trợ lẫ nhau và tạo nên sự vững mạnh của đội ngũ sáng tác. Ngoài ra, cần phải nói đến sự đóng góp không nhỏ của đội ngũ sáng tác không chuyên. Họ xuất hiện rất đông đảo trong phong trào văn nghệ quần chúng ở các địa phương và khắp trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.

Nhà văn Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám rất giàu nhiệt tình, gắn bó với Tổ quốc và dân tộc. Họ vượt qua mọi gian khổ, hi sinh, đến khắp mọi nẻo đường của Tổ quốc để tì tòi, khám phá và sáng tạo. Có thể xem, sự cần mẫn, cố gắng của họ giống như những con ong cần cù, chăm chỉ tìm kiếm nhụy hoa để kết nên vị ngọt cho đời. Bên cạnh sự xông xáo, nhiệt tình, đội ngũ sáng tác có nhiều nhà văn tài năng. Ở mỗi thế hệ đều có những nhà văn tạo được sự mến mộ, khâm phục của người đọc. Họ đã sáng tạo nên nhiều tác phẩm có giá trị sâu sắc và sức sống lâu bền.

Trang thơ sau 1975 cũng có sự hiện diện và tiếp nối của nhiều thế hệ nhà thơ, với những đóng góp và cả những giới hạn của mỗi thế hệ. Tiến trình thơ vận động, đòi hỏi những người nghệ sĩ cũng phải sáng tạo, làm mới mình, không thể nằm yên trong mô hình nghệ thuật cũ. Nhìn chung, lực lượng sáng tác sau năm 1975 cũng tập hợp đông đảo các thế hệ nhà thơ:

+ Thế hệ xuất hiện trước 1945, hay còn được gọi là “thế hệ tiền chiến”.

+ Thế hệ nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.

+ Thế hệ nhà thơ trẻ chống Mỹ.

+ Thế hệ các nhà thơ trẻ xuất hiện sau năm 1975, nhất là đầu những năm 1990.

Các thế hệ nhà thơ với những phong cách khác nhau, trưởng thành trong những hoàn cảnh lịch sử khác nhau đã cùng góp phần làm nên sự đa dạng phong phú của nền thơ ca dân tộc sau 1975.

Thế hệ xuất hiện trước 1945, hay còn được gọi là “thế hệ tiền chiến”, với những tên tuổi rạng rỡ trên thi đàn như Xuân Diệu, Huy Cận, Tố Hữu, Chế Lan Viên, Tế Hanh…, vẫn tiếp tục có mặt trong đời sống thơ sau 1975, chủ yếu là trong khoảng mười, mười lăm năm đầu. Hầu hết trong số họ vẫn tiếp tục mạch thơ của giai đoạn trước, tuy có những thay đổi về cảm xúc, hướng nhiều hơn đến đời sống hiện tại hoặc những triết lí nhân sinh. Riêng trường hợp Chế Lan Viên đã có sự chuyển biến rất rõ rệt, mở ra một chặng đường mới trong thơ ông ở những năm cuối đời, kể từ tập Hoa trên đá (1984).

Thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, giữ vị trí chủ chốt và có nhiều đóng góp quan trọng trong khoảng vài mươi năm, kể từ sau 1975. Trong thế hệ kháng chiến chống Pháp, bên cạnh một Nguyễn Đình Thi vẫn âm thầm theo đuổi xu hướng thơ tự do không vần từng bị phê phán hồi đầu kháng chiến, thì đáng kể nhất phải là sự xuất hiện trở lại của nhiều nhà thơ từng phải im tiếng một thời gian dài, như Hoàng Cầm, Trần Dần, Lê Đạt, với những tập thơ ra mắt trong nửa đầu những năm 90, chứa đựng nhiều tìm tòi cách tân, gây được tiếng vang rộng rãi trong dư luận.

Thế hệ chống Mỹ không chỉ có đóng góp nổi bật trong khoảng mười năm đầu sau chiến tranh với việc tiếp tục khuynh hướng sử thi thấm đượm chất bi tráng trong các trường ca, mà còn sớm mở ra khuynh hướng cảm hứng thế sự – đời tư, với nhiều giọng điệu khác nhau: Thanh Thảo và Nguyễn Khoa Điềm, Hữu Thỉnh và Nguyễn Đức Mậu, Thu Bồn và Trần Mạnh Hảo, Nguyễn Duy và Trần Đăng Khoa, Xuân Quỳnh và Ý Nhi, Lâm Thị Mỹ Dạ, … Như vậy, sau 1975 thơ Việt Nam tiếp tục lăn theo quán tính thơ truyền thống. Nhưng dòng chủ lực thuộc về các nhà thơ mặc áo lính, họ tiếp tục duy trì những dòng thơ chính thống. Một số nhà thơ có tài của dòng thơ này quyết định đem nét mới cho thơ: Thanh thảo, Nguyễn Duy, Lưu Thị Hòa, Ý Nhi…

Nhiều nhà thơ của thế hệ trẻ chống Mỹ vẫn kiên trì gắn bó với thơ và không từ bỏ chính mình, họ tiếp tục cuộc hành trình nhọc nhằn với thơ trên hướng dấn thân đầy đủ hơn vào cuộc đời và tìm sâu hơn vào những giá trị vững bền, muôn thuở của dân tộc, của nhân dân. Nguyễn Duy dù phiêu bạt nơi xứ lạ hay giữa cuộc sống phồn tạp nơi đô thị vẫn hướng về thiên nhiên, đồng ruộng, quê hương khó nghèo, về mẹ và em như những điểm tựa cho niềm tin và cho thơ của mình. Thanh Thảo rất tỉnh táo ở Khối vuông ru-bích trước sự biến ảo của đời sống hiện tại, lại vẫn nồng nhiệt ngợi ca và đặt niềm tin ở nhân dân trong Những ngọn sóng mặt trời, Những nghĩa sĩ Cần Giuộc, Bùng nổ của mùa xuân, …

Lực lượng sáng tác thơ sau 1975 còn được đánh dấu bởi thế hệ thơ trẻ xuất hiện từ sau 1975, nhất là từ đầu những năm 90, đã đem đến nhiều tiếng nói mới, cách nhìn mới, xúc cảm mới trong thơ. Ít bị rang buộc với truyền thống, họ mạnh dạn và tự do hơn trong sự tìm tòi, thể nghiệm, với nhu cầu được bộc lộ hết mình của con người cá nhân. Trong số họ, tuy chưa có những phong cách khẳng định được vị trí của mình trong công chúng rộng rãi, nhưng đã có nhiều tên tuổi gây được sự chú ý: Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Quốc Chánh, Đồng Đức Bốn và gần đây là Phan Huyền Thư, Vi Thùy Linh, Nguyễn Hữu Hồng Minh. Các nhà thơ dân tộc thiểu số góp những tiếng thơ đặc sắc mang bản sắc dân tộc: Y Phương, Lâm Quý, Lò Ngân Sủn, Inrasara.

Các thế hệ nhà thơ kể trên sau 1975 đã hoặc sáng tác theo một khuynh hướng, hoặc thử sức trên nhiều khuynh hướng nghệ thuật khác nhau. Điều này không chỉ góp phần tạo nên tính đa dạng của một nền thơ mà còn làm nên tính đa dạng ngay trong bút pháp nghệ thuật của mỗi cá nhân. Đó là còn chưa nói đến những sáng tác của các nhà thơ Việt sống ở nước ngoài và các phong trào thơ đang được một số cây bút thử sức như “hậu hiện đại” hoặc “tân hình thức”, …

Sau năm 1975, thơ càng tưng bừng, nở rộ. Thơ lan tràn đến mọi ngõ ngách của cuộc sống, song có đến 90% số người làm thơ vẫn tiếp nối thi mạch cũ (theo Đông La). Chỉ có một bộ phận quyết tâm đổi mới thơ mạnh mẽ. Dù không đóng vai trò chủ lực nhưng cũng đã có không ít nhà thơ trẻ mà độc giả nhớ mặt quen tên như Phan Huyền Thư, Vi Thùy Linh, Văn Cầm Hải, Ly Hoàng Ly. Điều cần thiết hiện giờ là chúng ta cần tìm ra gương mặt thơ độc đáo để cứ nói đến thơ Việt Nam giai đoạn này là nhắc đến anh ta như là một phong cách thơ tiêu biểu. Để từ đó, càng nhiều tên tuổi xuất hiện, ta lại tạo được “một thời đại trong thi ca” mới trong nền văn học đương đại của nước nhà.

a. Thế hệ xuất hiện trước 1945, hay còn được gọi là “thế hệ tiền chiến”: Xuân Diệu, Huy Cận, Tố Hữu, Chế Lan Viên, Tế Hanh, …

Sau ngày miền Nam được giải phóng, đất nước thống nhất, Xuân Diệu viết về Miền Nam quê ngoại, lòng dạt dào vui sướng khi Đi giữa Sài Gòn trong ngày chiến thắng và ông bồi hồi nhớ về quê ngoại sau bao năm xa cách.

Ông có khát vọng: Tôi muốn đi thăm khắp cả miền Nam, Nghe nhạc Nam để “thức mãi cùng thương nhớ”, đến Phan Thiết “thăm kinh đô cá mắm”, hay Tâm sự với Quy Nhơn sau hơn ba mươi năm trở lại với quê ngọai, nơi chan chứa kỉ niệm của tuổi thơ và tự hào hơn về vẻ đẹp của miền đất này:

Ôi! Biển Quy Nhơn, biển đậm đà
Thuyền đi rẽ sóng, sóng viền hoa.
Cảm ơn quê má muôn yêu dấu
Vẫn ấp iu hoài tuổi nhỏ ta.

Nhiều vần thơ của ông ở thời kì này thể hiện sự đằm thắm nghĩa tình đối với miền Nam. Có thể nói: “Viết về miền Nam là Xuân Diệu đã khơi dậy những tình cảm, những kỉ niệm sâu sắc của mình, những hình ảnh được chắt lọc qua nhiều năm tháng để chỉ còn lại những gì thực sự là máu thịt, là rung động cho thơ”( Mã Giang Lân ).

Từ sau năm 1975, Huy Cận vẫn sáng tác đều đặn. Gác lại chuyện chiến tranh, tâm hồn nhà thơ trở về với mạch cảm xúc quen thuộc của cuộc đời hàng ngày quanh mình; lại say mê thiên nhiên, vũ trụ và nghiền ngẫm, suy tư về sự sống con người. Những tập thơ tiêu biểu: Ngôi nhà giữa nắng (1978), Hạt lại gieo (1984), Chim làm ra gió (1989), Lời tâm nguyện cùng hai thế kỷ (1997).

Thơ Huy Cận tiếp tục phát triển theo hướng suy tưởng, hướng nội hơn; có khuynh hướng chiêm nghiệm về ý nghĩa nhân sinh cao cả từ những biểu hiện bình dị của đời thường:

Yêu mãi, yêu rồi, đâu hết yêu
Cuộc đời như miếng đất phì nhiêu
Trồng bao nhiêu vụ còn tươi tốt
Hạt gặt xong rồi, hạt lại gieo

(Hạt lại gieo)

Những năm sau 1975, nhà thơ Tố Hữu vẫn kiên trì trên con đường hoạt động cách mạng và thơ ca theo quá trình đổi mới, hội nhập của đất nước. Vẫn một lòng trung trinh, niềm tin mãnh liệt vào Đường của ta đi. Thơ mang màu sắc mới thế sự mà vẫn giữ âm hưởng hào hùng, sử thi – sử thi mới. Quá khứ: Đâu phải đường xanh. Đường qua máu chảy, hiện tại: Đường Hồ Chí Minh rộng mở thênh thênh (Với Đảng, Mùa xuân). Đó là con đường của cách mạng và cũng là của thơ ca. Cho đến những ngày cuối đời ta vẫn thấy những vần thơ chiêm nghiệm sâu xa của Tố Hữu: Tám mươi càng quý bạn hiền/ Tình thơ càng nặng tơ duyên với đời. Ta nhớ câu thơ gan ruột, nghĩa tình của Tố Hữu: Trăm năm duyên kiếp Đảng và Thơ đã từ lâu.

Vào tuổi “cuối thu”, rời chính sự, với tư cách Phái viên Trung ương, Tố Hữu cảm nhận Bồi hồi sao, Cuộc hành hương (Phồn Xương). Hành hương mới vào đời và vào thơ. Sáng tác đời hơn và cũng thơ hơn: màu sắc lãng mạn mới, chiều sâu triết lý nhân sinh mới. Bộc lộ rõ hơn lúc nào hết cái tôi thi sĩ. Thơ nhiều hơn: Một tiếng đờn (71 bài), Ta với ta (48 bài), nhiều hơn cả thời chống Pháp và chống Mỹ cộng lại! Tình nhiều hơn, đủ cung bậc, nhất là thấm thía cái cô đơn thế sự và chạm đến cả cái cô đơn bản thể (Một tiếng đờn) qua trải nghiệm cuộc đời. Tuy nhiên, điều cần nhấn mạnh là sự kết hòa – kết hợp và tương tác hai con đường cách mạng và thơ.

Thơ từ sau 1975 của Chế Lan Viên có thể coi là thuộc mảng thơ trữ tình – thế sự. Một sự hạ giọng cố ý kèm theo một chủ định tạo giọng điệu thơ mới với cảm hứng thế sự – cảm hứng đời thường. Nổi lên giọng điệu thâm trầm, suy tưởng day dứt trong thơ vào cuối đời.

Thực ra, có sự tiếp nối của giọng cao mang tính sử thi. Giọng cao ấy có hai khía cạnh chủ yếu: yêu và căm. Một mặt là giọng hát say mê, tự hào cao độ khi ca ngợi Tổ quốc, nhân dân trong sự nghiệp chiến đấu anh hùng. Mặt khác, đó là giọng phẫn nộ giận dữ, căm hờn như trút lửa để lên án, tố cáo, luận tội kẻ thù. Ở đây, ta cũng thấy một mạch rẽ: giọng đanh thép phê phán về ý thức hệ như chống chủ nghĩa giáo điều, chủ nghĩa xét lại, chủ nghĩa bành trướng khi nêu cao lý tưởng chiến đấu: “Hỡi những tấm lòng lạnh tanh máu cá/Những nhiệt tình xuống quá độ âm!/Có nghe tiếng ngư lôi và cao xạ?”(Sao chiến thắng)“Bịp thế giới bằng số tỉ dân, bằng khối thịt biển người đồ sộ/ Lũ “thái thú” tân trang bằng một ngọn cờ hồng”(Thần chiến thắng).

Giọng thơ Chế Lan Viên hạ dần. Giọng chính luận trước đây mang khí vị hào hùng đã chuyển sang triết luận thầm trầm, kết lắng, chất hùng biện được thay bằng sự suy tưởng. Sự chuyển biến giọng thơ là dấu hiệu rõ rệt của điệu tâm hồn nghệ sĩ. Nhà thơ về với đời thường là con người trầm tư, nhìn đời với con mắt trải nghiệm và một thế ứng xử mới. Có những niềm vui vẫn nuôi dưỡng tâm hồn và khí phách nhưng nhà thơ cũng có không ít trăn trở, bức xúc và buồn đau. Giọng trầm giờ đây mang nhiều cung bậc khác nhau. Có khi đều là trầm – trầm ấm, lắng đọng nhân tình, lại có lúc là trầm buồn đau, xót xa. Khi nhà thơ đi sâu vào cõi tâm linh thì đó lại là thâm trầm, hư tưởng, hoài nghi hoặc trầm tĩnh, an nhiên, siêu thoát.

Thơ thiên về tâm sự, tâm tình nên có cả sắc thái trần tình, thuật hứng, cảm hoài, nhất là ở những bài tứ tuyệt. Từ không gian quảng trường về với không gian đời tư, không gian tâm tưởng là một sự thay đổi lớn. Đã nhiều lúc, nhà thơ đối diện với chính mình, đối thoại với bản thân – tức độc thoại. Từ “hát” chuyển sang “nói”, rồi từ “nói to” chuyển thành “nói nhỏ” – thầm thì, tỉ tê là những trạng thái, những tâm thế khác biệt. Tuy nhiên, ở Chế Lan Viên thường có sự đan lồng, xen kẽ giọng điệu với những sắc thái linh hoạt: trầm buồn man mác, bâng khuâng, u hoài – Côn Sơn, Lau biên giới, Mồ mẹ nhưng vẫn trầm ấm, yêu thương. Giọng thơ có lúc mang khí vị mỉa mai, chua xót, đắng đót – Bị lừa, Cuội, Thời thượng, Lộn trái,… như tiếng cười gần gũi với tiếng khóc.

Tuy nhiên, vượt lên trên tất cả phức tạp, thế sự, nhân tình thế thái vẫn là một giọng trầm ngâm triết luận thanh thản. Người đọc như cùng nhà thơ đi đến một thế giới mông lung, kỳ ảo, đầy suy tưởng – Hỏi. Đáp, Siêu thực, Các mùa hoa, Lãng quên, Sóng,…

Và Tế Hanh sau năm 1975 vẫn có những bài thơ rất hay, những bài thơ vừa mộc mạc vừa hồn nhiên “lơ ngơ” đúng chất Tế Hanh, và đã khiến bao người đọc phải xiêu lòng. Tác phẩm của ông sau 1975 có thể kể đến: Con đường và dòng song (1980), Bài ca tự sống (1985), Vườn xưa (1992), Giữa anh và em (1992), Em chờ anh (1993), …

b. Thế hệ nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ: Nguyễn Đình Thi. Hoàng Hưng, Trần Dần, …

Nguyễn Đình Thi sau năm 1975 đóng góp cho văn học nước nhà tập thơ Tia nắng (1988), Trong cát bụi (1992) và Sóng reo (2001) là các tập thơ về cuối đời đậm chất triết học của con người triết nhân. Mùa xuân (1977) là một bài thơ có thể nói tiêu biểu nhất cho cảm xúc về mùa mở đầu một năm trong thơ Nguyễn Đình Thi. Nếu chú ý đến thời điểm sáng tác, chúng ta sẽ hiểu rõ hơn cái nhiệt hứng của thi sĩ khi viết bài thơ này. Đó là những ngày: tháng mà niềm vui đến say người, giải phóng miền nam, thống nhất đất nước, giang sơn gấm vóc thu về một mối, đó là những ngày:

Tất cả lại bắt đầu – tất cả
Những ngày tháng những đời người
Giữa nghìn vất vả những niềm vui
Tất cả lại nẩy chồi tươi biếc.

Ngắm những chồi biếc của mùa xuân thiên nhiên và mùa xuân cuộc đời, những con người có lương tri sẽ không thể quên những Bùn bết máu trên mặt người tử sĩ. Nhưng rồi vượt lên trên tất cả gian khổ hy sinh, một sớm mai nào ta ngỡ ngàng trước cảnh:

Lá non đã xanh rờn mặt đất
Mùa xuân đang nói về hạnh phúc
Cánh chim bay trên sông núi lạ lùng
Giữa ngàn cây
Gội sương giá tình yêu đến.

Thơ Nguyễn Đình Thi không nhiều “vần vè” vì thế chỉ có thể cảm nhận bằng cả sự run bật cảm xúc mà thi sĩ truyền đến độc giả với tinh thần “đồng thanh tương ứng đồng khí tương cầu”.

Thực chất sự đổi mới đã được phôi thai từ trước 1975 với Trần Dần, Lê Đạt, cuối những năm 80 đầu những năm 90 với Lê Đạt, Dương Tường, Đặng Đình Hưng, Hoàng Hưng… Mà trước đó, vào năm 1946 nhà thơ Trần Dần là người chấp bút tuyên ngôn nhóm thơ Dạ Đài (gồm Trần Dần, Vũ Hoàng Địch, Trần Mai Châu, Đinh Hùng, Vũ Hoàng Chương…) với những quan niệm thơ mới mẻ, độc đáo.

Các tác giả này đã xác lập nên một dòng mạch thơ gây nhiều tranh luận. Theo cách gọi của Hoàng Hưng, đó là những nhà thơ theo “dòng chữ”. Họ Khẳng định “làm thơ tức là làm chữ” hay “ làm thơ tức là làm tiếng Việt” (Trần Dần), “nhà thơ chính là kẻ phu chữ” (Lê Đạt). Thực chất đó là lao động với chữ. Có nhiều thủ thuật với con chữ: giãn nở, cắt xén, phân mảng, sắp đặt, chia chữ… Kết quả họ mang lại là vô số văn bản thơ kiểu dạng khác nhau, khơi gợi cảm xúc mới mẻ, minh chứng cho sự nhạy cảm trước khả năng dồi dào của tiếng Việt.

Trần Dần là người đi tiên phong. Ngay kháng chiến chống Pháp ông quyết liệt đòi “chôn” thơ Mới, tìm con đường đi riêng. Ông được mệnh danh là “Người cách tân số một Việt Nam” (Dương Tường). Trần Dần từng tuyên ngôn: “Tôi viết – tức là tôi để con chữ tự mình làm nghĩa”. Quan niệm này chi phối sâu sắc thi pháp thơ ông. Nhiều thi phẩm của Trần dần không nhằm kể hay tả điều gì. Nó buộc người ta phải chăm chú vào chữ, không bận tâm đến những gì ngoài chữ. “Mùa sạch” là một ví dụ điển hình.

Ngôn ngữ của Trần Dần luôn biến động, và ta thấy cả sự lao tâm của ông cho từng con chữ. Lê Đạt nói “nhà thơ là phu chữ”, tôi nghĩ cụm từ này dùng để gọi Trần Dần thì vô cùng đắc địa. Ngay trong cả loại thơ kiểu văn xuôi của ông vẫn ngồn ngộn hình ảnh và cảm xúc thiên hà. Thơ trẻ hiện nay cố gắng nhiều trong thơ không vần hay thơ văn xuôi, nhưng đọc lại Trần Dần 30 năm trước, vẫn thấy ông còn mới mẻ đến bất ngờ:

Anh vẫn tìm em qua chiều chủ nhật sạch
Qua công viên trong vắt sạch
Qua đèn hàn hạt sạch
Qua lưng vai thăn thắt sạch
Qua ngày ngăn ngắt sạch Tìm em
Anh vẫn tìm em qua chiều thứ hai sạch
Qua đôi môi mời sạch
Qua Hồ Tây mây sạch
Qua nhà đôi ngồi sạch
Qua thơi thới ngày sạch
Qua đôi giầy sạch
Tìm em.

(Mùa sạch)

Cùng thời đó, Lê Đạt cũng là nhà thơ có nhiều cách tân thơ mới mẻ. Lê Đạt chủ trương đường lối thơ “tạo sinh” – thơ phải dựa vào “ý tại ngôn ngoại”, phải cô đúc, đa tầng, đa nghĩa, và đa ngã (phỏng theo nhà phê bình Thụy Khê). Thơ ông giàu nhạc điệu; nhiều sáng tạo, cách tân; phảng phất nhiều điển cố văn học và lịch sử; chất chứa vô vàn những lối “chơi chữ” tạo hình hóm hỉnh, đòi hỏi ở độc giả một trình độ thưởng thức cao.

Thơ Lê Đạt cách ly ở chữ, liên tục ở ý. Nó có thể tháo rời và tụ với nhau trong ý nghĩa mới tùy theo ý thích của người đọc. “Bóng chữ” xuất hiện cấu trúc sóng ngang, một câu có thể biến đổi tùy theo cách ngắt câu.

“Chia xa rồi anh mới thấy em
Như một thời thơ thiếu nhỏ
Em về trắng đầy cong khung nhớ
Mưa mấy mùa mây mấy độ thu
Vườn thức một mùi hoa đi vắng
Em vẫn đây mà em ở đâu
Chiều Âu Lâu bóng chữ động chân cầu”

(Bóng chữ)

“Ngó lời” còn có cấu trúc sóng chéo, xiên, ngang, dọc. Cấu trúc lỏng khiến câu thơ của ông vắng dấu ấn trung gian. Kết hợp câu chữ bất quy tắc, khiến cho câu thơ của ông nhạt nhòa đa nghĩa. Người đọc phải theo đuổi ngôn ngữ siêu tĩnh lược, dồn nén cao độ. Nó in đậm cái nét riêng không thể lẫn trộn của Lê Đạt. Nó khiến người đọc không thể thờ ơ những điều ông nghĩ, ông nói. Nó khiến Lê Đạt vẫn hiện đại đồng hành cùng lớp trẻ đầu thế kỷ XXI. Ông không ngừng khám phá các ngõ ngách của từ và tiếng, của chữ và lời, không ngại làm mới và không sợ bị coi là khác lạ. Ngoài sự dụng công về chữ, Lê Đạt còn là người đưa ra khái niệm thơ haikâu – một thể thơ mà mỗi bài, theo như tên gọi của nó, chỉ có hai câu. “Ngó lời” và “U75 từ tình” là hai tập thơ tiêu biểu. Vì thế, có người đọc thơ Lê Đạt ngộ ra những khả năng, những chân trời mới của thơ. Hoặc ngược lại, đọc thơ ông mà thấy như lạc lối.

Nhà thơ Hoàng Hưng được biết đến như một điển hình của ý thức cách tân rốt ráo. Trên cánh đồng chữ nghĩa, Hoàng Hưng mải miết xây một lối riêng bằng những từ, ngữ vuông vức, gắn kết bền chặt, đầy sức mạnh của tư duy, chiêm nghiệm, suy tưởng… Ông cũng đề xuất lối thơ “vụt hiện”, giống lối viết tự động ở phương Tây nhưng được đẩy đi xa hơn. Các tập thơ tiêu biểu “Ngựa biển” (1988), “Người đi tìm mặt”(1993)…

Đêm xuống rồi
Ta lẻn
Đi tìm mặt mình
Đi tìm mặt mình đi tìm mặt mình đi tìm mặt mình
(…)
Mặt tôi trong gió cuốn
Mặt tôi trong nắng đốt
Mặt tôi trong lá ngón
Mặt tôi còi vọng cô liêu
Mặt tôi bàn tay ôm ấp
Mặt tôi đá núi im lìm
Mặt mình đi tìm mặt mình đi tìm mặt mình đi tìm (…)

(Người đi tìm mặt)

“Người đi tìm mặt” là một biểu tượng thơ độc đáo, hiện đại cả về quan niệm lẫn thi pháp. Tôi là Tôi, Tôi lại đang băn khoăn đi tìm chính gương mặt mình. Cái có lý ở trong điều vô lý mà Hoàng Hưng muốn thể hiện.

Có một nhà thơ Dương Tường thể hiện rằng ngôn ngữ thơ lại chính là sự ký âm, ký họa các phương diện của chữ:

Em về phố lặng lòng đổ chuông llềnh llềnh nước lli
lluâng lloang llưng
lliêng llinh lluông buông boong ad lllibitum

(noel 1 – Dương Tường)

Nhà thơ đã chú trọng đến vấn đề biểu đạt của ngôn ngữ. Trường từ ngữ trong thơ đã được mở rộng đến gần như không có giới hạn nào. Những từ thông tục, khẩu ngữ, biệt ngữ đã có mặt khá thường xuyên trong thơ của nhiều tác giả. Đặc biệt nhấn mạnh bản chất nghệ thuật ngôn từ của thơ, xem việc làm thơ là “làm chữ”…

c. Thế hệ nhà thơ trẻ chống Mỹ: Nguyễn Duy, Thanh Thảo:

Nguyễn Duy đã xuất bản nhiều tập thơ sáng giá trong tiến trình thơ đương đại Việt Nam: Phóng sự 30-4-1975(1981), Ánh trăng (1984) đã đưa ông lên vị trí là một trong những nhà thơ “đem lại vinh quang cho cả thế hệ thơ trẻ thời kỳ chống Mỹ” (Trần Đăng Suyền), góp phần “in đậm dấu ấn của thời đại” (Lưu Khánh Thơ). Sau 1975, thơ Việt Nam trải qua một giai đoạn chững lại, tìm đường. Trong hoàn cảnh đó, Nguyễn Duy vẫn “bền bỉ kiên trì trong quá trình sáng tạo, cố gắng đi sâu vào mọi khía cạnh của hiện thực đời sống, hiện thực tâm trạng” (Lưu Khánh Thơ). Với các tập thơ: Mẹ và em(1987), Đãi cát tìm vàng(1987), Đường xa (1989), Quà tặng (1990), Về (1994), Vợ ơi(1995) cùng tuyển tập Thơ Nguyễn Duy Sáu & Tám, Nguyễn Duy đã thuộc “lực lượng đi tiên phong” (Trần Nhuận Minh) trong thời kì Đổi Mới với nhiều “chuyển đổi trong phương thức chiếm lĩnh hiện thực, trong các quan niệm mới về nghệ thuật, trong thế giới nghệ thuật có phần mới mẻ, khác lạ về con người, trong ý thức mới đối với tư cách chủ thể của nhà văn” (Phong Lê). Để triết lí về các vấn đề nhân sinh, các nhà thơ thường tìm cho mình một chỗ đứng, một vị thế thấp trong đời thường để cất lên tiếng thơ đồng cảm với những thân phận ấy. Đó là cách mượn vị thế của tễu, xẩm, trẻ đồng dao.

Nguyễn Duy đã sử dụng giọng “xẩm ngọng” nói thơ:
Nghêu ngao hát ngọng nghẹo chơi
Người cười nói xúc phạm người ngậm tăm

Ngứa nghề hát ngọng nghẹo thôi
Người yêu nhau xúc phạm người ghét nhau

(Xẩm ngọng)

Sau 1975, thơ Thanh Thảo thường mở ra nhiều trường liên tưởng khác nhau, tạo ra độ mờ nhoè về nghĩa. Và người đọc cũng rất “tự do” trong việc tiếp nhận bài thơ. Mai Bá Ấn đã đánh giá khá cao lối tư duy thơ của Thanh Thảo trong những bài này: “Ở bậc tư duy thơ này, ta còn thấy rất rõ việc từ bỏ cách phản ánh “đại tự sự” của chủ nghĩa hiện đại để đi vào phản ánh “tiểu tự sự” của chủ nghĩa hậu hiện đại”. Mặc dù khái niệm “hậu hiện đại” theo Thanh Thảo là còn “mù mờ” nhưng những đóng góp của ông trên bình diện hiện đại hoá thơ là điều mà ai cũng nhận ra rất rõ.

Về mặt nội dung, thơ Thanh Thảo giai đoạn này chủ yếu hướng vào hiện thực cuộc sống đời thường với những trăn trở về con người và những vấn đề nóng hổi của cuộc sống. Tuy nhiên không vì thế mà thơ Thanh Thảo bớt đi tính trí tuệ. Ngược lại, chất trí tuệ trong thơ ông được nâng lên một tầm khái quát mới. Những vấn nạn của cuộc sống, sự giả dối của con người, cùng bao nhiêu cái xấu, cái ác nhan nhản tồn tại xung quanh khiến Thanh Thảo phải chạnh lòng: “Có những lúc ra về lòng rỗng không/ vì phải gặp trong cơ quan một thằng cặn bã” (Tôi chào đất nước tôi). Nhưng dù thế nào thì Thanh Thảo cũng tin tưởng vào “một lòng tốt bình thường” của con người:“vì tôi tin mãi mãi con người là bí mật/ mãi mãi chúng ta không đi hết bản thân mình” (Gởi Iu.Bonđarep).

Cùng với Nguyễn Khoa Điềm, Nguyễn Duy, Hữu Thỉnh, Xuân Quỳnh… Thanh Thảo đã góp phần tạo nên và hoàn thiện gương mặt của thế hệ thơ trẻ thời chống Mỹ. Sau đại thắng mùa xuân 1975, Thanh Thảo vẫn là “người làm vườn” cần lao trên thửa ruộng thơ ca của đời mình. Thơ Thanh Thảo trên chặng đường này là một hành trình trăn trở của sự kiếm tìm và đổi mới tư duy nghệ thuật trong giai đoạn mới của văn học Việt Nam.

d. Thế hệ các nhà thơ trẻ xuất hiện sau năm 1975, nhất là đầu những năm 1990: Phan Huyền Thư, Vi Thùy Linh, Ly Hoàng Ly…

Một thế hệ thơ trẻ xuất hiện từ sau năm 1975, nhất là từ đầu những năm 90, đã đem đến nhiều tiếng nói mới, cách nhìn mới, cảm xúc mới trong thơ. Ít bị ràng buộc với truyền thống, họ mạnh dạn và tự do hơn trong sự tìm tòi, thể nghiệm, với nhu cầu bộc lộ hết mình con người cá nhân. Họ táo bạo và bản lĩnh; đôi khi thậm chí liều lĩnh. Đã có nhiều tên tuổi gây được sự chú ý: Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Quốc Chánh, Đồng Đức Bốn, Nguyễn Hữu Hồng Minh, và các nhà thơ nữ Phan Huyền Thư, Vi Thùy Linh, Ly Hoàng Ly… Hơn lúc nào hết, đổi mới đặt ra như một nhu cầu sống còn của thơ ca và của chính những người sáng tác. Họ đã chán ngấy sự cũ kỹ, nhàm chán. Vi Thùy Linh quyết tránh xa những “mô phạm, sáo mòn, ngụy tạo và hèn nhát”. Chị khẳng định “Tôi là một nhà thơ sô lô. Tôi không cần dàn đồng ca. Tôi sẵn sàng là một chiến binh có thể bị tử đạn để tạo nên làn sóng mới trong thi ca”

Phan Huyền Thư cũng thấy mình không thể tiếp tục viết:

“Những vần thơ ảnh viện
Khóc buồn vui không màu
Cười những nụ cười giống nhau”

Thơ của các cây bút nữ trẻ xuất hiện từ khoảng 10 năm trở lại đây chịu sự ảnh hưởng của những mạch nguồn thơ nữ trước đó. Cùng với việc tiếp tục khai thác hướng đề tài cũ nói về thân phận người đàn bà, về tình yêu và lòng thủy chung son sắt, tình mẹ con, những tác giả thơ nữ trẻ đi sâu khai phá những đề tài mới đầy biến động của đời sống, những va đập của đời thường, niềm khát khao mãnh liệt hướng tới những cái mới, những chân trời lạ lẫm. Thơ của thế hệ mới bên cạnh những đề tài cũ, họ đi sâu khai thác bản thể, khám phá những chuyển động của bản thể căng phồng sự sống, khám phá tình yêu, nhục cảm, cái tôi cá nhân bí ẩn và đầy bất trắc. Và xuất hiện một cảm hứng mới rất hiện đại mang đầy bản năng, cảm xúc: tính nhục cảm. Một thế hệ mới đã xuất hiện như Phan Huyền Thư, Vi Thùy Linh, Ly Hoàng Ly, Trương Quế Chi,… Họ dám sống, dám đương đầu với thử thách, dám là chính mình trong cuộc kiếm tìm những giá trị nghệ thuật.

Dục tính là vấn đề đã được đưa vào thơ ca phương Tây từ rất lâu rồi, nhưng khi thơ Việt bắt đầu nói đến, độc giả không ít kinh ngạc, cho là mất thuần phong mỹ tục.

Vi Thùy Linh là nhà thơ nữ tiêu biểu khi đưa vấn đề này vào thơ. Vi Thùy Linh gây sốc với độc giả khi cô bước lên thi đàn thơ không phải với vẻ ngoài đoan trang, kín đáo như bao cô gái Việt Nam truyền thống, xưa nay vẫn vậy. Cô sẵn sàng phơi trần những khát khao đam mê, ngang nhiên phơi trải lòng mình:

Em yêu anh cuồng điên
Yêu đến tan cả em
Ào tung ký ức

(Người dệt tầm gai)

Nữ nhà thơ đưa cả nỗi “thèm chồng” lên trang giấy. Sự giải phóng nữ giới là sự giải phóng trên tất cả các phương diện. Tại sao một người phụ nữ lại không có quyền phát biểu khát vọng tình yêu, khát vọng dục tính của mình. Chị khẳng định: “Tôi không viết về tình dục mà là viết về tình yêu… Tôi làm thơ hiện đại nhưng không phủ nhận truyền thống! Trong thơ và trong đời, tôi muốn là một cô gái Việt nam mới, mang sức sống của thế hệ mới, với sinh khí mới”

Khát vọng của cái tôi nhục cảm được thể hiện ráo riết và thôi thúc. “Vào sau cửa buồng vần vũ mười lăm phút/ Ra đường đoan trang chớp mắt thướt tha…” (Phan Huyền Thư)… Con người trong thơ của những cây bút nữ phá cách chịu sự chi phối rất mạnh của đời sống cá nhân, đề cao đời sống cá nhân, dám sống thật với chính mình và có thể coi đây là tiếng nói mạnh mẽ về giải phóng phụ nữ trong thơ ca.

Từ ngàn xưa ông, bà đã răn dạy “Giấy rách phải giữ lấy lề”, nguyên tắc sống và nguyên tắc cầm bút của Y Phương cũng thế. Con người nhà thơ mộc mạc, giản dị trong cả đời thường. Tuổi thơ của Y Phương được bao bọc bởi những câu chuyện tưởng như huyền thoại, về một người cha đầy bí ẩn của chính mình – chính cái lí lịch ấy trở thành một tì vết tạo trắc trở cho nhà thơ khi muốn hòa nhập cùng cộng đồng. Nguyên tắc sống ấy đã theo suốt người lính đặc công từ các chiến trường ở mặt trận phía nam và biên giới phía bắc cho đến khi rời quân ngũ trở thành nhà thơ thực sự.

Sống giữa thủ đô Hà Nội là một dịp để nhà thơ tự nhận thức về mình và dân tộc mình. Ông vẫn giao tiếp với vợ con bằng tiếng Tày để giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Nhà thơ cảm thấy buồn khi con em dân tộc ít người quên đi nguồn cội, quên đi bản sắc văn hóa. Y Phương tâm sự: “Cứ phải sống thẳng băng như đường mực. Người làng dạy tôi như vậy – Nhất định không bao giờ quỳ gối và nói lời cong để lấy lòng mọi người”. Nhiều người từng quan niệm đời chỉ sống một lần vì thế phải sống sao cho đáng sống, Y Phương cũng vậy: “Ai cũng chỉ sống một lần. Nên ta tranh thủ sống. Tích cực sống. Nhiệt tình sống. Hăm hở sống. Sống như cháy đến giọt cuối cùng. Sống phải đáng sống. Sống không làm con bù nhìn”. Ông phần nào bộc bạch quan niệm sống qua thơ:

Anh tự biết mình như chén nước
Chớ rót đầy

(Chén nước)

Quan niệm về lao động nghệ thuật của Y Phương thật nghiêm túc nhất là khi ông đã quyết định ở hẳn lại với thơ. Y Phương có quan niệm sống, quan niệm nghệ thuật một cách rõ ràng và có thể khẳng định “một nhà thơ có tư tưởng, có quan niệm nghệ thuật là biểu hiện của một nhà thơ lớn”. Y Phương viết đều đặn kể từ khi bài thơ đầu tiên được đăng báo năm 1973, tuy có những lúc “thơ xếp từng xấp, có bạn tâm giao đến thì đọc, nhâm nhi với nỗi buồn cho qua ngày”. Y Phương viết thật lòng với những gì ông trông thấy và cảm nhận được, ông viết như đang tâm sự với bạn đọc. Đôi khi đọc thơ Y Phương người đọc bắt gặp những suy nghĩ của chính mình mà nhà thơ đã nói hộ. Những vần thơ Y Phương là lời nhắn nhủ, khuyên răn hãy giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc Tày:

Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc
Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục.

(Nói với con)

Nhà thơ Lò Ngân Sủn sinh 1945, quê Bát Xát – Lào Cai. Ông được gọi là “Người con của núi”, vì 17 tập thơ ông đã xuất bản, phần lớn viết về vùng đất ông đã sinh ra và lớn lên. Bài thơ nổi tiếng của Lò Ngân Sủn:”Chiều biên giới” đã được nhạc sỹ Trần Chung phổ nhạc và được nhiều người yêu thích:

Chiều biên giới
Chiều biên giới em ơi
Có nơi nào xanh hơn
Như tiếng chim hót gọi
Như chồi non cỏ biếc
Như rừng cây của lá
Như tình yêu đôi ta.

Chiều biên giới em ơi
Có nơi nào cao hơn
Như đầu sông đầu suối
Như đầu mây đầu gió
Như quê ta ngọn núi
Như đất trời biên cương.

Và nhà thơ Inrasara với nhiều tác phẩm thơ mang dấu ấn của người Champa:

Hạt Mùa Mới

Khi nỗi đau đi vào nỗi đau khai hoang ánh sáng soi khoảng hồn đã quá xanh xao
chúng ta nhìn vào mắt nhau không mộng mị kí ức chở số phận chúng ta rời bỏ ga buồn.

Trong kiêu hãnh đắng cay
khi ốc đảo biết gọi mời ốc đảo
ngón tay đan ngón tay khai sinh hơi ấm không hề gầy rắn rỏi hơn đức tin vào Chúa.
Con sông, cánh rừng ngày xưa chết yểu tên chợt bật trên môi chúng ta
em tin chúng có thể nâng linh hồn từng tủi thân được / mất gượng dậy tìm về?
Khi niềm vui tan trong nỗi đau vỡ hoang ánh nắng tôi mang hạt giống thu hoạch phương xa
gieo cánh đồng làng
em nhân giống dân ca vào giai điệu mới bờ cỏ vang vang ngôn ngữ được mùa.

Đó là những thế hệ nhà thơ đã làm nên một thời đại mới, thời đại văn học đương đại, vươn mình sánh với văn học thế giới. Nhiều nhà thơ đã trải qua những biến dộng của lịch sử nước nhà từ thời còn trong nô lệ, nhiều nhà thơ trẻ xuất hiện với sức sống dào dạt, … Tất cả như đã nói tạo nên một diện mạo thơ sau 1975 khác lạ, cuốn hút, đầy thú vị bởi đa âm, đa sắc. Là những thế hệ đi sau, chúng ta tự hào về nền văn học dân tộc, vì những nhà thơ đã âm thầm lao động sang tạo nghệ thuật để góp phần khẳng định vị thế của văn học nước nhà.

1 bình luận trong “Thơ ca Việt Nam từ sau 1975”

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang