»» Nội dung bài viết:
Biểu hiện của tính dân tộc đậm đà trong đoạn thơ Việt Bắc (Tố Hữu).
“Ta về, mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung”.
(trích Việt Bắc – Tố Hữu)
- Mở bài:
– Tố Hữu là nhà thơ lớn của thi ca Việt Nam hiện đại. Các chặng đường thơ của Tố Hữu gần như song hành với các giai đoạn đấu tranh cách mạng của đất nước khiến thơ ông mang tính biên niên sử với nội dung trữ tình chính trị đậm nét. Sức hấp dẫn của thơ ông chính là niềm say mê lí tưởng cách mang và tính dân tộc đậm đà. (Tính dân tộc trong Việt Bắc)
– Bài thơ Việt Bắc là đỉnh cao của thơ Tố Hữu và cũng là thành tựu xuất sắc của thơ ca kháng chiến chống pháp. Bài thơ ra đời tháng 10 năm 1954, nhân sự kiện có tính chất lịch sử: Trung ương Đảng, chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về Thủ đô Hà Nội. Bài thơ là khúc hát ân tình, thủy chung giữa nhân dân, đất nước với cách mạng, Đảng và Bác Hồ. Nội dung đó được thể hiện bằng hình thức cũng đậm đà tính dân tộc.
- Thân bài:
Tính dân tộc là gì?
– Tính dân tộc trong tác phẩm văn họclà phẩm chất tư tưởng, thẩm mĩ độc đáo của tác phẩm nghệ thuật, thể hiện sự gắn bó giữa tác phẩm với văn hóa của dân tộc.
– Tính dân tộc trong văn học được thể hiện ở hai mặt nội dung và hình thức nghệ thật. Hai giá trị này hòa quyện vào nhau tạo nên một khúc ca vừa sôi nổi, mạnh mẽ, hùng tráng vừa thơ mộng, trữ tình, thiết tha.
+ Về nội dung: Đề cập đến những vấn đề tư tưởng, tình cảm và phẩm chất của dân tộc. Tình cảm của cá nhân trong mối liên hệ với tình cảm dân tộc. Cách thể hiện vấn đề đó trên cơ sở vì quyền lợi dân tộc.
+ Về hình thức: Thể thơ lục bát mềm mại, uyển chuyển. Sử dụng ngôn ngữ dân tộc, kế thừa và phát huy có tính sáng tạo truy thống văn học dân tộc.
Biểu hiện của tính dân tộc qua nội dung đoạn thơ Việt Bắc.
– Về nội dung:
Đoạn thơ là một bộ tranh tứ bình dệt bằng ánh sáng của hoài niệm về thiên nhiên và con người Việt Bắc thời kháng chiến. Thiên Nhiên Việt Bắc bốn mùa rực rỡ, tươi sáng đủ sắc màu. Mỗi một mùa một cảnh sắc khác nhau. Con người chủ yếu được gợi tả qua các dáng điệu lao động cần mẫn, chịu thương chịu khó. Ở họ có vẻ đẹp tâm hồn trong sáng, đằm thắm dầu tình nghĩa, thủy chung. Qua đó tác giả thể hiện tình yêu thiên nhiên tươi đẹp, tình yêu cuộc sống và con người Việt Bắc. Đó chính là biểu hiện của tình cảm yêu nước và yêu cách mạng.
– Về nghệ thuật:
+ Thể thơ lục bát là thể thơ truyền thống của dân tộc. Thể thơ này được tác giả sử dụng sáng tạo trong việc ngắt nhịp, gieo vầng và liên kết giữa các dòng thơ. Tố Hữu đã vận dụng rất thành công nhịp điệu lục bát trong thể hiện tình cảm khăng khít của mình.
+ Kết cấu: Đoạn thơ được tổ chức theo kết cấu đối đáp quen thuộc của ca dao dân ca. Đó là lời đáp của người ra đi (cán bộ kháng chiến) với người ở lại (đồng bào Việt Bắc). Tác giả đã sử dụng cặp đại từ nhân xưng “ ta – mình” vừa truyền thống, vừa rất hiện đại. Nét truyền thống gợi không khí ca dao qua tiếng hát giao duyên. Điều đó làm cho tình cảm cách mạng gần gũi, thân thiết và chân thành. Nét hiện đại và sự uyển chuyển, đã nghĩa, sự biến hóa linh hoạt sáng tạo.
+ Ngôn ngữ thuần Việt, bình dị, trong sáng mà giàu sức gợi cảm, nhuần nhị và tinh tế. Điệp từ “nhớ” lặp lại nhiều lần trong đoạn thơ như một sự lối dài của dòng hoài niệm không dứt. Các phép tu từ hoán dụ, ẩn dụ, đảo ngữ,… được sử dụng linh hoạt.
+ Nhạc điệu trong bài thơ đậm chất trữ tình đằm thắm, mang tính dân tộc cao. Lối gieo vần nhịp nhàng, biến tấu linh hoạt là thế mạnh của thể lục bát. Tố Hữu đã khai thác triệt để giá trị ấy. Lời thơ ngọt ngào như lười ca tiếng hát, thật dễ đi vào lòng người. Âm điệu thân thuộc khiến cho tâm hồn người đi kẻ ở cùng nảy sinh một niềm tâm cảm chung.
3. Đánh giá.
– Việt Bắc là một bài thơ hay. Ở đó tác giả đã thể hiện sự tài hoa của mình trên nhiều phương diện của nghệ thuật sáng tạo.
– Thành công trong đoạn thơ trên đã thể hiện được tính dân tộc đậm đà mà vẫn màu sắc hiện đại. Đó là sự hài hòa trong một điệu tâm hồn lớn – tâm hồn cách mạng. Qua đó, nhà thơ đã khẳng định tình cảm son sắt của người dân Việt Bắc với cách mạng. Đó cũng là tình cảm thủy chung của người kháng chiến với mảnh đất và con người Việt Bắc, với những năm tháng kháng chiến hào hùng, oanh liệt và sâu nặng nghĩa tình.
Phân tích vẻ đẹp bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu
Tham khảo:
Tính dân tộc đậm đà trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu
- Mở bài:
Tố Hữu được mệnh danh là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam. Sự nghiệp thơ ca của ông gắn liền với sự nghiệp cách mạng của đất nước. Bài thơ Việt Bắc được viết vào tháng 10/1954, khi chính phủ kháng chiến rời chiến khu Việt Bắc về thủ đô Hà Nội. Bài thơ mang đậm tính dân tộc, một đặc điểm nổi bậc trong các các tác phẩm của nhà thơ Tố Hữu.
- Thân bài:
Xét về mặt nội dung thì bài thơ “Việt Bắc” đã thể hiện được những vấn đề nóng bỏng mang vận mệnh dân tộc; thể hiện được hình ảnh con người Việt Nam trong kháng chiến. Đẹp nhất là hình tượng Bác Hồ. Người là kết tinh tinh hoa dân tộc:
“Nhớ ông cụ mắt sáng ngời
Áo nâu túi vải đẹp tươi lạ thường”
Nhà thơ Tố Hữu gọi Bác là “Ông cụ” nghe sao gần gũi thân thương mà ấm áp bao ân tình. Tấm “áo nâu” mà Bác mặc thường ngày là hình ảnh gần gũi với đời sống người dân Việt Nam. Mỗi người dân Việt Nam đều dành cho Bác tình cảm trân trọng, ngưỡng mộ, biết ơn, luôn hướng về Bác với một niềm tin mãnh liệt:
“Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi”
Bác Hồ đã trở thành điểm quy tụ mọi suy nghĩ, tình cảm của nhân dân. Sáng tác bài thơ “Việt Bắc”, Tố Hữu không chỉ thay lời nhân dân nói nên lòng biết ơn với Đảng, với Bác kính yêu mà ông còn thể hiện tình cảm gắn bó sâu nặng với nhân dân Việt Bắc. Trong tâm tư của người ra về còn in sâu hình ảnh áo chàm giản dị mà thủy chung. Trong 15 năm chung sức chung lòng, người dân Việt Bắc và người chiến sĩ cách mạng đã vượt qua bao gian khó đưa cuộc kháng chiến chống Pháp đến bến bờ của sự thành công:
“Mười lăm năm ấy ai quên
Quê hương cách mạng dựng lên cộng hòa”
Tố Hữu ca ngợi tình cảm thủy chung sắt son của người dân Việt Bắc và người chiến sĩ cách mạng chính là ca ngợi truyền thống: “uống nước nhớ nguồn”; truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc. Trong bài thơ Việt Bắc, tác giả đã thể hiện được tính chất của cuộc kháng chiến chống Pháp là toàn dân toàn diện. Với sự tham gia của nhiều lực lượng, không phân biệt già, trẻ, trai, gái ai ai cũng mong muốn được góp phần mình cho kháng chiến. Nối tiếp hình ảnh những đoàn quân ra trận là những đoàn dân công với nhiệm vụ tiếp tế lương thực, đạn dược ra chiến trường. Tất cả vì tiền tuyến:
“Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay”
Khí thế của cả dân tộc cùng ra trận thật hào hùng, mãnh liệt, không một thế lực nào có thể ngăn cản được. Họ ra trận với một tinh thần yêu nước, niềm tin tưởng ở ngày mai tất thắng
Bài thơ Việt Bắc còn đánh dấu sự thành công của Tố Hữu ở phương diện nghệ thuật mang đậm tính dân tộc biểu hiện ở thể thơ, ngôn từ, nhạc điệu, hình ảnh. Tố Hữu vốn là người xứ Huế – nơi có những làn điệu dân ca ngọt ngào. Những lời ru của mẹ đã thấm vào tâm hồn thơ Tố Hữu, đi vào trang thơ của ông. Bài thơ Việt Bắc được viết theo thể thơ lục bát với lối kết cấu đối đáp như câu hát giao duyên của đôi trai gái yêu nhau. Vì thế câu chuyện chính trị đã được tác giả chuyển hóa giống như câu chuyện tình yêu đôi lứa. Nó không khô khan mà ngọt ngào tình tứ đã giúp nhà thơ thể hiện được tình cảm thiết tha của người đi (cách mạng) và kẻ ở (Việt Bắc) trong buổi chia tay đầy bịn rịn, lưu luyến:
“Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu”
Đọc thơ Tố Hữu, ta rất ấn tượng với cách sử dụng cặp đại từ “mình”, “ta” giống như của ca dao xưa. Người cách mạng và đồng bào Việt Bắc đã coi nhau như những người bạn đời gắn bó tri kỉ trong suốt 15 năm. Vì thế đại từ “mình” và “ta” được nhà thơ vận dụng rất linh hoạt, có lúc phân định rõ nhưng có lúc “ta” và “mình” lại hòa làm một. Điều này nói lên sự gắn bó sâu nặng giữa quê hương Việt Bắc và người cán bộ kháng chiến.
Tính dân tộc trong thơ Tố Hữu còn được thể hiện qua âm điệu của bài thơ. Bài thơ rất giàu nhạc điệu bởi hệ thống từ láy giàu giá trị tượng thanh như “rầm rập”, những điệp từ “nhớ”, “vui”… nghệ thuật liệt kê và nghệ thuật tiểu đối tạo tính cân xứng cho câu thơ.
Nhận xét về thơ Tố Hữu, nhà thơ Chế Lan Viên từng viết: “Tố Hữu có một bút pháp quần chúng trong hình ảnh’’. Thật vậy, đọc bài thơ Việt Bắc, ta bắt gặp những hình ảnh như “củ khoai”, “củ sắn”, “bờ lau” rất đỗi bình dị nhưng qua cách diễn đạt tài tình của nhà thơ, những hình đó lại trở thành hình tượng biểu tượng cho cuộc sống còn nhiều khó khăn vất vả của đồng bào Việt Bắc nói riêng, của toàn dân tộc nói chung trong những ngày đầu của cuộc chiến chống Pháp đầy gian khổ.
- Kết bài:
Tố Hữu viết bài thơ Việt Bắc bằng tất cả tấm lòng chân thành hướng về Đảng, về cách mạng, về nhân dân. Bài thơ giúp ta cảm nhận được nhiều phẩm chất đáng quý của con người Việt Nam: yêu nước, tương thân tương ái, đoàn kết, lạc quan, thủy chung son sắt; thấy được bản sắc văn hóa dân tộc mình. Đọc thơ Tố Hữu, ta thêm yêu quê hương, Tổ quốc mình. Bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu xứng đáng là một kiệt tác của dòng văn học cách mạng Việt Nam.
Tham khảo:
Cảm nhận tính dân tộc đậm đà trong đoạn thơ Việt Bắc.
Tính dân tộc là một phạm trù mĩ học, là một thuộc tính tất yếu của vốn học, được coi là tiêu chuẩn để đánh giá một tác phẩm văn học. Mỗi nền văn học bao giờ cùng là thành tựu của cả một dân tộc nhất định, dù ít hay nhiều, sâu sắc hay không sâu sắc thì nền Văn học bao giờ cũng hiển hiện những nét của dân tộc mình. Tính dân tộc quán triệt khá nhiều mặt của sáng tác văn học, từ nguồn gốc đến chức năng, từ ngồn ngữ đến thể loại, từ nội dung đến hình thức.
Khi thế giới còn tồn tại nhiều dân tộc thì nền văn học dân tộc nhất định phải có nét riêng, phải có tính dân tộc. Không có một nền văn học nào là phi dân tộc, không có một người nào là phi dân tộc. Văn học có tính dân tộc là một trong những yêu cầu của người sáng tạo nghệ thuật. Người nghệ sĩ phải đòi hỏi có ý thức về dân tộc một cách sâu sắc, phản ánh được những truyền thống ý thức của dân tộc. Văn học phản ánh hiện thực, khi đi vào tác phẩm của mỗi nhà văn, bao giờ cũng thấy hiển hiện trước hết là hiện thực của đất nước mình, dân tộc mình.
Tính dân tộc được biểu hiện ở cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật. Đề tài là những sự kiện xảy ra trong lịch sử dân tộc, những hiện tượng chính trị của dân tộc; chủ đề ca ngợi lòng yêu nước, khẳng định ý thức, tinh thần dân tộc; nhân vật là những con người điển hình, biểu hiện tập trung tâm lí, tính cách của cả một dân tộc,… đó chính là những yếu tố nội dung in đậm tính dân tộc trong một tác phẩm văn học. Tác phẩm ấy còn phải biểu hiện được sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa truyền thống và cách tân, dân tộc và hiện đại khi sử dụng linh hoạt những yếu tố hình thức như thể loại, ngôn ngữ, hình ảnh…
Tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu được thể hiện sinh động, phong phú qua hai phương diện nội dung và nghệ thuật. Cách mạng tháng Tám thắng lợi, Tố Hữu đã tham gia, chứng kiến với tư cách là một người chiến sĩ đấu tranh không mệt mỏi, một nhà thơ mang hồn thơ thời đại, bởi thế, thơ ông kết tinh, quy tụ được giá trị nhân văn, sức mạnh tinh thần của dân tộc. Tiếng nói của người nghệ sĩ hoà nhập với cuộc đời chung. Rất khó phân biệt ở thơ Tố Hữu cái riêng, cái chung. Cái chung dược miêu tả như những tiếng reo vui của tác giả trước những niềm vui lớn của dân tộc. Tố Hữu là nhà thơ nói được những vui buồn của lịch sử qua những chặng lịch sử dài.
Bên cạnh sức cuốn hút của những hình ảnh, sự kiện lịch sử hiện tại, thơ Tố Hữu còn tìm về quá khứ, về với đời sống hàng ngày của dân tộc. Quá khứ được khơi nguồn trên nhiều bình diện, có bất khuất, có xót đau,… nhưng tất cả đều thuộc về dân tộc. Tất cả những gì gần gũi, thân yêu của lịch sử dân tộc đều được Tố Hữu trân trọng đưa vào trong thơ. Tác giả cố gắng nắm bắt những âm thanh của đời sống dân tộc rất đời thường, bình dị, nhưng cao cả, đẹp đẽ. Đáng quý là cuộc sống bình dị ấy được Tố Hữu biểu hiện bằng một tiếng nói thẳm sâu, đằm thắm, từ con tim xúc động, từ giao cảm tinh tế với cái đẹp của thiên nhiên, con người Việt Bắc.
Từ dân tộc trong Việt Bắc còn được thể hiện qua hình thức độc đáo của bài thơ. Tác phẩm trước hết được viết bằng thể thơ lục bát, một thể thơ truyền thống của dân tộc. Thơ Tố Hữu thuộc thơ trữ tình điệu nói, thành thạo trong thể thơ truyền thống, gần gũi lời ăn tiếng nói hàng ngày. Chất văn xuôi được đưa vào thơ, tạo ra một thế giới nghệ thuật long lanh ngời sắc, cả lịch sử và con người đều toả sáng. Khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn cho phép nhà thơ biểu hiện tập trung những vấn đề cách mạng của dân tộc, nhân loại, thời đại. Ngôn từ tinh tế, phong phú, nhiệt huyết, sáng ngời vói những lối ví von, so sánh độc đáo, cách xưng hô “mình”, “ta” đã tạo nên một giọng điệu đằm thắm, trữ tình.
Việt, Bắc hội tụ tình yêu và niềm tin của con người trong kháng chiến. Người ta nhận ra trong lời thơ tình cảm tha thiết, bền chặt của con người. Không chỉ là chín, mươi hay mười lăm năm mà chính sự gắn bó sâu sắc giữa người và đất đã tạo nên một tình yêu sâu nặng, một mối ân tình cao đẹp. Việt Bắc chính là cội nguồn của quê hương cách mạng, những câu thơ chính là tiếng lòng nhớ thương của con người. Cái hay của bài thơ chính là cái hay của một khúc ca đằm thắm, yêu thương, hùng tráng mà chung thuỷ, ngọt ngào, lắng sâu.