tinh-nhan-dan-cua-van-nghe

Tính nhân dân của văn nghệ

Tính nhân dân của văn nghệ

Trong xã hội có giai cấp, văn chương mang tính giai cấp. Như thế có nghĩa là văn chương của giai cấp tiến bộ thì mang tính giai cấp của giai cấp tiến bộ. Văn chương của giai cấp lạc hậu mang tính giai cấp của giai cấp lạc hậu. Ý nghĩa và tác dụng lịch sử của chúng, vì vậy, hoàn toàn khác nhau. Nó phục vụ cho từng giai cấp trong cuộc đấu tranh giai cấp của mình ở từng giai đoạn lịch sử nhất định. Nhưng trong lịch sử văn chương nhân loại, chúng ta còn thấy có một hiện tượng khá phổ biến là khi thời đại đó qua đi, nhưng có những tác phẩm vẫn còn sống và phát huy tác dụng tích cực đối với nhân dân từ thế hệ này sang thế hệ khác. Ðiều đó cho thấy rằng: Bên cạnh mối liên hệ với giai cấp thì văn chương còn có mối liên hệ lâu dài hơn, rộng lớn hơn, đó là mối liên hệ với quần chúng nhân dân – lực lượng sáng tạo nên lịch sử. Ðặc điểm này của văn chương được gọi là tính nhân dân. Tính nhân dân, vì vậy, là khái niệm phản ánh mối liên hệ giữa văn chương với nhân dân.

1. Những quan niệm về tính nhân dân trong lịch sử.

Mối liên hệ giữa văn chương và nhân dân là mối liên hệ sống còn của nghệ thuật. Ðã từ lâu, tính nhân dân được mĩ học cổ điển thừa nhận là một thuộc tính và là phẩm chất của văn chương, một tiêu chuẩn đánh giá về mặt nội dung – tư tưởng và hình thức – nghệ thuật. Tuy nhiên, về mặt lí luận, khái niệm tính nhân dân được đề cập một cách tập trung và có ý thức chỉ từ thời kỳ chuẩn bị cách mạng tư sản (ở phương Tây) thế kỷ XVIII. Ở phương Ðông, chẳng hạn ở Trung Quốc, có thể khẳng định người đặt vấn đề quan hệ giữa văn chương với nhân dân một cách thiết tha và tương đối hoàn chỉnh là Bạch Cư Dị (772 – 846) ; Tính nhân dân là yếu tố quan trọng trong hệ thống lí luận thơ ca của ông. Trong tựa Tân nhạc phủ ông viết: Vị dân nhi tác, bất vi văn nhi tác. Quan niệm đó xác định rõ mục đích của nghệ thuật. Nghệ thuật vị nhân sinh chứ không phải nghệ thuật vị nghệ thuật.

Ở Việt Nam ta, tuy chưa khái quát trực diện lí luận tính nhân dân nhưng qua cách đặt vấn đề lấy  dân làm gốc để cai trị nước và sáng tạo nghệ thuật thì cha ông ta gắn nghệ thuật với nhân dân.

Nguyễn Trãi đã từng hiểu sức mạnh của nhân dân : “Chở thuyền và lật thuyền cũng là dân” và “việc nhân nghĩa cốt ở an dân”. Ông đã nói với vua Thái Tông (tháng giêng năm Ðinh Tỵ – 1937) Khi vua giao cho ông thẩm định nhạc nhã: Ngày nay định ra lễ nhạc là phải thời lắm. Song không có gốc không thể đứng vững, không có văn không thể lưu hành. Hòa bình là gốc của nhạc, thanh âm là văn của nhạc … Dám xin bệ hạ rũ lòng thương yêu và chăn nuôi muôn dân, khiến cho trong thôn cùng xóm vắng không có một tiếng hờn giận oán sầu, đó tức là giữ được cái gốc của nhạc.

Nguyễn Du cũng đã “vị dân nhi tác” và học tập nhân dân để sáng tác, kết thúc truyện Kiều tác giả viết:

Lời quê chắp nhặt rông dài
Mua vui cũng được một vài trống canh.

Ðây là sự khiêm tốn, nhưng cũng bộc lộ quan điểm học tập nhân dân của ông. Ông đã đề cập một cách trực diện vấn đề này trong bài thơ chữ Hán Thanh minh ngẫu hứng

Thôn ca sơ học tang ma ngữ.

(Buổi đầu học tập lời ăn tiếng nói của những người dân trồng dâu, trồng gai).

Ở phương Tây những nhà khai sáng thế kỷ XVIII như Diderot, Lessing, Rausseau … đã nêu khái niệm tính nhân dân lần đầu tiên. Didercot (1773 – 1784) (Pháp) đã đấu tranh chống lại văn nghệ có tính chất quý tộc của chủ nghĩa cổ điển (thế kỷ XVII) – một thứ nghệ thuật miêu tả cung đình với những ông Hoàng bà Chúa “những bậc đại trượng phu quốc gia” hoặc tìm chất liệu trong lịch sử cổ đại (Hy – La) của Corneille, Racine, Voltaire … Ông chủ trương phải mở rộng diện phản ánh ra ngoài đường phố, chợ búa, miêu tả những con người bình thường thuộc “đẳng cấp thứ 3”.

Rausseau (1712 – 1778) (Pháp) với quan niệm cần thiết phải dân chủ hóa nghệ thuật cả đối tượng miêu tả và người thưởng thức, ông mong muốn có một nền nghệ thuật mà nhân dân “vừa là khán giả vừa là diễn viên” trong một quốc gia tự do và bình đẳng.

Chịu ảnh hưởng của Mĩ học khai sáng, Mĩ học duy tâm cổ điển Ðức cũng quan tâm đến vấn đề tính nhân dân của nghệ thuật. Hégél (1770 – 1831) trong Mĩ học đã cho rằng: “Nghệ thuật tồn tại không phải để cho một tập đoàn nhỏ bé sống thầm kín, không phải để cho một số người có học thức cao, mà nói chung để cho toàn thể nhân dân”. Ðến mĩ học của các nhà dân chủ cách mạng Nga Biélinski, Tchernychevski, Dobrolioubov, tính  nhân dân được nhận thức một cách đầy đủ và sâu sắc hơn.

Biélinski đã khẳng định tính nhân dân là tính chất của văn chương. Ông cho rằng tính nhân dân là “tiêu biểu cao nhất hiện nay, là hòn đá thử vàng xác định phẩm chất của mọi tác phẩm nghệ thuật, xác định sự bền vững của mọi vinh quang nghệ thuật”.

Quan niệm về tính nhân dân của Biélinski cũng có một quá trình phát triển. Buổi đầu ông chưa thấy được sự khác nhau giữa tính nhân dân và tính dân tộc. Chẳng hạn ông thường gọi Puskin và Gogol là “các nhà thơ nhân dân” với hàm nghĩa sáng tác của họ mang tính độc đáo dân tộc. Hoặc cho rằng tính nhân dân không phải “ở việc sưu tầm những lời lẽ của những người muzic… mà ở trong nếp của trí tuệ Nga, ở trong cách nhìn các sự vật của người Nga”.

Dobrolioubov đã không còn hiểu tính nhân dân là tính dân tộc như Biélinski nữa, mà là như là sự thể hiện trong văn chương những quan điểm của quần chúng nhân dân. Ông mong muốn thành lập một đảng nhân dân trong văn chương.

Nhìn chung, lí luận về tính nhân dân trước Marx đã có những đóng góp đáng kể. Ðặc biệt là đóng góp của mĩ học dân chủ cách mạng Nga (tính nhân dân là phẩm chất cao nhất của nghệ thuật; tính nhân dân đã được bắt đầu nhận thức với nội dung giai cấp). Tuy nhiên, Họ vẫn chưa đi đến một quan niệm hoàn toàn chính xác. Ðiều này chỉ có thể có được trong mĩ học và lí luận văn học Mácxít.

Mĩ học của các học giả tư sản, xét lại trong thời đại ngày nay đã chẳng những có một quan niệm về tính nhân dân khác với truyền thống tốt đẹp trên mà thậm chí còn rất phản động.

Ortega Y Gasset (Tây Ban Nha 1883 – 1955) nhà mĩ học tư sản phản động cho rằng, nền “nghệ thuật mới” đó là một nền nghệ thuật của một đẳng cấp mới, chứ không phải là nghệ thuật dân chủ. Lí do là vì nghệ thuật mới sẽ phân chia người ta ra thành 2 giai cấp, gồm những con người khác nhau: những kẻ am hiểu nghệ thuật và những kẻ không am hiểu nghệ thuật – tức là hạng nghệ sĩ và hạng không phải nghệ sĩ”.

Như thế, theo Gasset, nghệ thuật có tính nhân dân là nghệ thuật lạc hậu, tầm thường.

Ở Nga, sau cách mạng tháng 10, cũng có những nhà lí luận xem tính nhân dân như là tính thấp kém của nghệ thuật. Levidov: “Người nông dân mang từ chợ về không phải là Biéliski và Gogol mà là sách hướng dẫn phổ thông gieo trồng lúa”.

2. Tính nhân dân trong lí luận văn học Mác – Lenin

Xuất phát từ ý thức về vai trò to lớn của quần chúng nhân dân trong lịch sử : quần chúng là người làm nên lịch sử, Mác, Ăng ghen – Lênin và những người mácxít đã xây dựng nên một quan niệm khoa học về “nhân dân” từ đó đặc cơ sở cho việc xây dựng một quan niệm và tính nhân dân trong văn chương một cách đúng đắn.

a.   Cơ sở xác định tính nhân dân của văn chương.

Vấn đề tính nhân dân của văn chương đã được đặt ra khá lâu trong lịch sử. Nhưng không phải ngay từ đầu đã có một quan niệm đúng đắnvà khoa học. Và cho đến cả ngày nay nữa, không phải đã có sự thống nhất. Chẳng hạn có người cho rằng tính nhân dân là tính quần chúng, tính đại chúng. Nghĩa là tác phẩm viết ra phải được đại đa số dân chúng ưa thích. Với quan niệm này thì những tác phẩm viết bằng tiếng nước ngoài sẽ không có tính nhân dân. Vì nó không đại chúng. (ví dụ những tác phẩm viết bằng chữ Hán, chữ Pháp của ta). Quan niệm này không thật đầy đủ.

Có người cho rằng tính nhân dân là tính dân tộc, đồng nhất tính nhân dân và tính dân tộc. Quan niệm này dẫn đến 2 trường hợp hoặc xem tính nhân dân là thuộc tính của văn chương (vì tính dân tộc vừa có ý nghĩa thuộc tính vừa có ý nghĩa phẩm chất) hoặc là phẩm chất văn chương. Quan niệm này dẫn đến chỗ thừa nhận có tính nhân dân cả ở những tác phẩm chống lại nhân dân (Vì những tác phẩm này ít nhiều có tính dân tộc. Chẳng hạn sáng tác của Phạm Quỳnh).

Trong thơ gửi Lassale phê bình vở kịch Prăngxơphôn Xíchkinhghen, ngày 18/5/1995, Engelx đã chỉ ra rằng tác phẩm có thể có tính dân tộc nhưng không có tính nhân dân : đó là “Vở kịch mà chủ đề cách diễn đạt đều rất đạt, thấy đều mang tính dân tộc Ðức”.

Nhưng đồng thời Engelxs chỉ ra hạn chế của tác phẩm về nội dung mà chủ yếu là thiếu tính nhân dân : quan niệm sai lầm về đánh giá phong trào nông dân và dân nghèo thành thị. Các nhà lí luận xét lại cho tính nhân dân là tính toàn dân, tức là toàn bộ dân chúng trên một lãnh thổ. Quan niệm này sai lầm ở chỗ tước bỏ nội dung giai cấp của tính nhân dân. Lẽ nào có một tác phẩm  vừa thể hiện quyền lợi của tư sản vừa thể hiện quyền lợi của vô sản – của người bị áp bức và kẻ bị áp bức.

Có người lại không thừa nhận tính nhân dân, chỉ công nhận tính giai cấp. Quan niệm này quá cũ và sẽ không lí giải được sự trường tồn, vĩnh cửu của nghệ thuật ưu tú.

Những thiếu sót và sai lầm trên đây chủ yếu do xuất phát từ những quan niệm khác nhau về “nhân dân” (nhân dân là ai? Ai trong một dân tộc được gọi là nhân dân?) và về mối liên hệ giữa văn chương và nhân dân (đó là mối liên hệ gì? Và liên hệ như thế nào?)

– Xác định khái niệm “nhân dân”.

Muốn biết tính nhân dân là gì thì trước hết phải hiểu nhân dân là ai. Ai trong xã hội được gọi là nhân dân. Chủ nghĩa Mác -Lênin đã xác định rõ điều này.

Nhân dân là người làm nên lịch sử. Khi bàn về khái niệm nhân dân, Lênin viết : “Mác dùng khái niệm nhân dân là để đem những thành phần xác định có khả năng tiến hành cách mạng đến cùng liên kết thành một khối” và Lênin lưu ý : “Khi dùng khái niệm nhân dân, Mác không hề có ý đem khái niệm này xóa mờ ranh giới khác biệt giữa các giai cấp”.

Như thế theo quan niệm học thuyết Mác – Lênin nhân dân không phải là những kẻ vai u thịt bắp,  dốt nát … mà là những người làm nên lịch sử, là lực lượng cách mạng nhất. Vì :

Họ là người làm ra của cải vật chất cho xã hội – cơ sở tồn tại của xã hội. Ta biết rằng lịch sử phát triển xã hội là lịch sử đấu tranh để đi đến thay thế nhau giữa các phương thức sản xuất. Yếu tố quyết định nhất của phương thức sản xuất là lực lượng sản xuất. Và trong lực lượng sản xuất thì con người là yếu tố quan trọng nhất. Lênin đã từng xác nhận: “Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn nhân loại là công nhân là người lao động”. Stalin cũng nhấn mạnh :

“Lịch sử phát triển của xã hội đồng thời là lịch sử của bản thân những người sản xuất của cải vật chất, lịch sử của quần chúng lao động : họ là lực lượng cơ bản nhất của quá trình sản xuất và tiến hành sản xuất những của cải vật chất cần thiết cho sự sinh tồn xã hội”.

Họ là lực lượng cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội. Trong xã hội có giai cấp và nảy sinh đấu tranh giai cấp, cuộc đấu tranh của quần chúng lao động chống giai cấp thống trị phát triển đến một mức độ nào đó thì nổ ra cách mạng xã hội. Qua cuộc cách mạng đó, chế độ cũ bị xóa bỏ, chế độ mới ra đời. Chính trong lúc này quần chúng nhân dân nổi bật phi thường. Lênin: “Cách mạng xã hội là ngày hội của những người bị áp bức và bóc lột. Không lúc nào như trong thời kỳ cách mạng mà quần chúng nhân dân tỏ ra là người sáng tạo tích cực như thế trong việc xây dựng nên trật tự xã hội mới. Trong thời kỳ ấy, nhân dân có thể làm nên những sự việc kỳ diệu”…

Họ là những người sáng tạo ra những giá trị tinh thần. Hồ Chủ tịch : “Quần chúng là những người sáng tạo, công nông là những người sáng tạo, nhưng quần chúng không những sáng tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Quần chúng còn sáng tạo nữa”.

Gorki nói: Nhân dân không chỉ là lực lượng tạo nên mọi của cải vật chất, nhân dân còn là nguồn duy nhất và vô tận của mọi của cải tinh thần; về mặt thời gian, vẻ đẹp cũng như thiên về sáng tác, nhân dân là một nhà triết học và là một nhà thơ đầu tiên sáng tác nên mọi bài thơ vĩ đại mỗi vở kịch của quả đất mà vĩ đại nhất là lịch sử của nền văn hóa thế giới.

Như vậy: Theo học thuyết Mác-Lênin, nhân dân là một tập hợp của những lực lượng dân chúng cách mạng nhất, tiến bộ nhất có tác dụng sáng tạo và thúc đẩy lịch sử tiến lên.

Cần lưu ý ngay rằng:

  • Khái niệm nhân dân bao hàm một nội dung giai cấp sâu sắc : người lao động, người làm nên lịch sử, đối lập với giai cấp ăn bám, bóc lột, cản trở lịch sử.
  • Nhân dân là không thuần nhất và nhất trí trong nội bộ: nhân dân vẫn còn tồn tại giai cấp và đấu tranh giai cấp (giai cấp công nhân và giai cấp nông dân chẳng hạn)
  • Nhân dân là khái niệm có tính chất lịch sử. Nội dung của nó thay đổi theo sự phát triển của thời đại (khi chưa phân chia giai cấp thì “nhân dân” có nghĩa là “dân cư” “toàn dân” – bao gồm mọi người cư trú trên một lãnh thổ nhất định. Khi xã hội phân chia giai cấp thì “nhân dân” là toàn thể bộ phận nhân dân lao động . Và trong một hoàn cảnh cụ thể nào đây nhân dân còn bao hàm cả tầng lớp thống trị tiến bộ.

– Xác định mối liên hệ giữa văn chương và nhân dân:

Xác định mối liên hệ giữa văn chương với nhân dân là một công việc vô cùng phức tạp, phong phú, bao gồm nhiều phương diện. Nó đòi hỏi phải có quan điểm lịch sử – cụ thể trong khi nhìn nhận, vì bản thân “nhân dân” là một khái niệm có nội dung lịch sử.

Lênin đã vạch ra cho ta một cơ sở để xác định mối liên hệ đó. “Nghệ thuật phải thuộc về nhân dân. Nó phải cắm rễ sâu xa trong quảng đại quần chúng lao động. nó phải được quần chúng hiểu và ưa thích. Nó phải thống nhất tình cảm, tư tưởng và ý chí của quần chúng lại là nâng họ lên”.

Sau ý kiến của Lênin, chúng ta có thể rút ra những đặc điểm cơ bản của mối liên hệ giữa văn chương với nhân dân như sau:

  • Văn chương đó có từ quần chúng lao động mà ra hay không, có phản ánh được tâm tư nguyện vọng của quần chúng hay không.
  • Văn chương đó có trong sáng, giản dị phù hợp với và lí tưởng thẩm mĩ của nhân dân hay không.
  • (Ðiều quan trọng hơn nữa), văn chương đó có tác dụng chiến đấu như thế nào với quần chúng nhân dân.

b. Khái niệm tính nhân dân của văn chương.

Từ những cơ sở trên ta đi đến một nhận định tổng quát về tính nhân dân của văn chương như sau:

Tổng hòa những đặc điểm về tư tưởng và nghệ thuật của tác phẩm văn chương, thể hiện những nhu cầu, khát vọng cách mạng, tiến bộ và lành mạnh của các giai cấp trong nhân dân chẳng những có ý nghĩa đối với tiến trình cách mạng đương thời mà còn có ý nghĩa đối với toàn bộ cuộc sống tinh thần phong phú của nhân loại được nhân loại yêu mến giữ gìn và lưu truyền.

Những điểm cần lưu ý khi xác định nội dung khái niệm tính nhân dân của văn chương :

  • Trong ý nghĩa trực tiếp và cơ bản nhất thì tính nhân dân liên hệ sâu sắc với tính khuynh hướng, tính tư tưởng, giai cấp tiến bộ cách mạng của văn chương.
  • Trong tiến trình lịch sử, các giai cấp tiến bộ cách mạng, tiến hành đấu tranh giai cấp, làm cách mạng xã hội để xóa bỏ xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, thúc đẩy loài người tiến lên. Trong ý nghĩa đó, giai cấp đó là giai cấp cách mạng, tiến bộ. Văn chương có tính nhân dân là văn chương phải thể hiện cho được tính chất cách mạng tiến bộ.

Ví dụ: Hịch tướng sĩ tác giả chỉ đề cập đến lợi ích của tầng lớp quý tộc, kêu gọi bầy tôi đứng lên bảo vệ lợi ích của chủ.

Tuy nhiên Hịch tướng sĩ vẫn được đánh giá là Hịch cứu nước. Bởi vì lợi ích quý tộc lúc này đang thống nhất với lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc và lợi ích nhân dân lao động. Chống giặc ngoại xâm lúc này ngoài ý nghĩa báo thù cho chủ, cò có ý nghĩa bảo vệ tổ quốc, bảo vệ hạnh phúc nhân dân, bảo vệ quyền lợi và hạnh phúc của cá nhân những người chống giặc. Cho nên tính nhân dân của tác phẩm này thể hiện ở tính chất tiến bộ cách mạng của chủ nghĩa anh hùng phong kiến của giai cấp quý tộc thời Trần. Lúc này, họ cũng là một bộ phận của nhân dân; thậm chí họ là những thành viên ưu tú vì họ giữ vững được ngọn cờ dựng nước và giữ nước trong tay để tập hợp quần chúng nhân dân lao động.

Bình Ngô đại cáo, tính nhân dân thể hiện ở trong tính cách mang tiến bộ của tác phẩm. Chữ dân đã là sợi chỉ để xuyên suốt tác phẩm:

Nỗi đau của dân được đề cập một cách thống thiết: Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn

Vùi con đỏ xuống hầm tai vạ
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ
Nheo chóc thay kẻ góa bụa khốn cùng
Bại nhân nghĩa nát cả càn khôn
Nặng thuế khóa sạch không dằm núi
Kẻ bị bắt lên núi đãi cát tìm vàng
Khốn nỗi rừng sâi nước độc
Người bị bắt xuống biển dòng lưng mò trai
Ngán thay cá mập thuồng luồng.
Mục đích của cuộc chiến đấu là vì dân:
Việc nhân nghĩa cốt ở an dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo

Lực lượng chiến đấu cũng là nhân dân. Tính nhân dân của tác phẩm này thể hiện rõ nhất ở chữ “Dân”. Tính nhân dân và tính giai cấp cách mạng tiến bộ là thống nhất.vì giai cấp cách mạng lúc này thống nhất với nhân dân.

Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Ðình Chiểu, tính nhân dân thể hiện ở chỗ nhân dân lao động đóng vai trò lịch sử bảo vệ tổ quốc. Nhân dân mà đặc biệt là nông dân với vai trò lịch sử của họ đã được đề cập sâu sắc.

Như thế: Tính nhân dân ở tác phẩm ở trong tính cách mạng tiến bộ của tác phẩm. Ngược lại, những tác phẩm không có tính nhân dân là tác phẩm phản động, lạc hậu hoặc là những tác phẩm được sáng tác với mục đích có nhiều biểu hiện tâm tư cá nhân ích kỷ, thể hiện tư tưởng của nhóm người ăn trên ngồi trước. Hoặc có đề cập đến nhân dân thì với một thái độ trịch thượng khinh miệt, kênh kiệu, hoặc chống lại nhân dân một cách trực diện, hoặc gián tiếp.

Ví dụ: Trống mái miêu tả tình yêu của Vọi, một nông dân quê mùa cục mịch lại si tình theo đuổi một tiểu thư một cách khinh miệt mỉa mai. Trong nghĩa mở rộng, tính nhân dân bao hàm mọi giá trị tư tưởng và nghệ thuật lành mạnh, có ý nghĩa đối với toàn bộ đời sống tinh thần của nhân dân.

Những tác phẩm miêu tả tình cảm gia đình: bố mẹ, anh em, vợ chồng, cha con, mẹ con, bà cháu … ; những tác phẩm tả cảnh thiên nhiên tuy nó không đề cập đến những tiến trình lịch sử cũng không đặt ra những vấn đề bức thiết của thời đại, những tác phẩm đó có một tình cảm lành mạnh, một nhân sinh quan lành mạnh, tiến bộ, vẫn có tính nhân dân. Chẳng hạn, ca dao tình yêu nam nữ:

Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo
Ngũ lục sông cũng lội, thất bát đèo cũng qua

Ðã yêu thì yêu cho chắc
Ðã trục trặc thì trục trặc cho luôn

Ca dao hôn nhân và gia đình:

Con cò trắng bạch như vôi
Ai muốn làm lẽ cha tôi thì về
Cha tôi chẳng đánh chẳng chê
Mẹ tôi móc ruột lôi mề ăn gan

Chồng ta áo rách ta thương
Chồng người áo gấm xông hương mặc người.

Hoặc đả phá lễ giáo phong kiến:

Mẹ ơi có muốn lấy chồng
Con ơi mẹ cũng một lòng như con.

Tính nhân dân còn bao hàm một nội dung: Mộc mạc mà sắc sảo, giản dị mà phong phú, hồn nhiên mà điêu luyện. Mọi giá trị nghệ thuật chân chính đều bắt nguồn từ đời sống nhân dân, từ thị hiếu thẩm mĩ của nhân dân, nên bao giờ, cũng hồn nhiên, mộc mạc, giản dị nhưng phong phú tinh vi và điêu luyện.

Sự thống nhất của hai phương diện trên (giản dị, mộc mạc, hồn nhiên với phong phú, tinh vi, điêu luyện) là đặc điểm tiêu biểu của nghệ thuật có tính nhân dân. chính vì vậy mà những tác phẩm mang tính nhân dân sâu sắc bao giờ cũng có sự thống nhất giữa “phổ cập” và “nâng cao”, giữa “bình dân” và “bác học”. Ðó là những tác phẩm mà ai cũng có thể hiểu được. Từ người bình dân đến người uyên bác ai cũng thấy hay, thấy thấm thía, thích thú. “đó là những tác phẩm nói mãi không cùng” (Gớt) “tác phẩm khơi mãi không cạn” (Hoài Thanh). Những tác phẩm như thế chẳng những thỏa mãn nhu cầu thẩm mĩ hiện đại mà còn có khả năng đáp ứng nhu cầu thẩm mĩ ngày càng nâng cao của những thế hệ sau. Nó tạo nên tính chất vĩnh hằng của nghệ thuật.

Truyện Kiều là ví dụ tiêu biểu. Nó là đỉnh cao của văn chương cổ điển dân tộc. Rất nhiều nhà nghiên cứ đã có nhiều công trình đồ sộ tìm hiểu cái hay cái đẹp của nó.

Nhưng gần đây một công trình mới của Phan Ngọc nghiên cứu về Truyện Kiều lại cho rằng tất cả các công trình của những người nghiên cứu trước đây đều giống nhau đó là đều chưa chỉ đúng cái hay cái đẹp của Truyện Kiều. Ðó là về phía những người uyên thâm, còn về phía những người bình dân thì người ta thích, yêu, hiểu Truyện Kiều đến mức đọc ngược được. Truyện Kiều có một điều thú vị là có những câu thơ không biết là Nguyễn Du đã mượn từ ca dao hay ca dao đã đi ra từ Truyện Kiều. Hiện tượng này cho thấy Truyện Kiều đã đạt được cái hồn nhiên mà điêu luyện, “bác học” mà “bình dân”.

Truyện Kiều:

Vừng trăng ai xẻ làm đôi
Nữa in gối chiếc nữa soi dặm trường.

Ca dao:

Tiễn đưa một chén rượu nồng
Vừng trăng xẻ nữa tơ lòng dứt đôi.

Vừng trăng ai xẻ làm đôi
Ðường trường ai xẻ ngược xuôi hởi chàng.

Truyện Kiều:

Rắp mong treo ấn từ quan
Mấy sông cũng lội mấy ngàn cũng qua.

Ca dao:

Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo
Ngũ lục sông cũng lội, thất bát đèo cũng qua.

Truyện Kiều:

Sầu đông càng lắc càng đầy
Ba thu dọn lại một ngày dài ghê.

Ca dao:

Ai đi muôn dặm non sông
Ðể ai chứa chấp sầu đông vơi đầy.

Tính nhân dân của văn chương đối lập với tính chất lạc hậu, bảo thủ, phản động, với chủ nghĩa hình thức sơ lược, dung tục, tầm thường, cầu kỳ bí hiểm. Tính nhân dân luôn gắn với những truyền thống tốt đẹp và cao thượng như chủ nghĩa yêu nước,chủ nghĩa nhân đạo, tinh thần dân chủvà xã hội chủ nghĩa, gắn với truyền thống nghệ thuật ưu tú.

Nói một cách tổng quát tính nhân dân là tổng hòa những đặc trưng làm nên sức sống kỳ diệu và bất diệt của nghệ thuật.

3. Tiêu chuẩn tính nhân dân trong tác phẩm văn chương.

a. Nội dung tư tưởng:

Trước hết, một tác phẩm có tính nhân dân là một tác phẩm đề cập đến những hiện tượng, những tính cách, những vấn đề xã hội quan trọng có ý nghĩa đối với nhân dân (phạm vi vấn đề phản ánh).

Ðề tài có liên hệ đến tính nhân dân trong chừng mực nhất định. Vì, có những tác phẩm không trực tiếp phản ánh đời sống nhân dân nhưng vẫn có tính nhân dân và ngược lại.

Ví dụ: truyện nôm khuyết danh có tính nhân dân do trực tiếp miêu tả nhân dân, nhưng có loại tuy nói khá nhiều về nhân dân nhưng không có nhân dân (Lục xì…) .

Trong khi đó, có loại tác phẩm đề cập đến những người lớp trên, ít hoặc không trực tiếp nói đến nhân dân vẫn có tính nhân dân sâu sắc. Vì nó có nhận thức, một thái độ đúng đắn giữa đúng sai, nhân đạo và phản nhân đạo … (Truyện Kiều, Lục Vân Tiên, Hoàng Lê nhất thống chí)

Nhân tố cơ bản quyết định tính nhân dân của một tác phẩm văn chương không nhất thiết phải là đề tài về đời sống nhân dân mà chủ yếu là ở chỗ nó đề cập đến những vấn đề xã hội có ý nghĩa đối với nhân dân. Cuộc sống hiện thực được miêu tả phản ánh theo quan điểm của nhân dân, dưới ánh sáng của những lí tưởng tiến bộ của thời đại (phương hướng và cách giải quyết vấn đề).

Chủ đề tư tưởng là vấn đề sống còn của tính nhân dân một tác phẩm. Vấn đề được đưa ra trong tác phẩm phải được lí giải, giải quyết phù hợp với quyền lợi và nguyện vọng của nhân dân.

Truyện Kiều, số phận con người bé nhỏ trong xã hội được ca ngợi, trân trọng- thể hiện được ước muốn đạp đổ bất công. Hịch tướng sĩ, Lập trường quan điểm tác giả là lập trường quan điểm thời đại. Chinh phụ ngâm, là tiếng kêu oán ghét chiến tranh phi nghĩa dày xéo lên hạnh phúc nhân dân.

Về mặt nội dung, xét tính nhân dân của văn học không phải xét ở đề tài là chủ yếu , mà yếu tố cơ bản quyết định là ở chỗ chủ đề tư tưởng, ở những vấn đề xã hội đối với nhân dân, ở cách nêu lên và cách giải quyết vấn đề phù hợp với nguyện vọng, lợi ích của nhân dân dưới ánh sáng của nhân sinh quan lành mạnh, lí tưởng tiên tiến của thời đại.

b. Hình thức nghệ thuật.

Tiêu chuẩn quan trọng về nghệ thuật là tính dân chủ của nghệ thuật biểu hiện. Nghệ thuật “phải được quần chúng hiểu và ưa thích” (Lênin) Vì nghệ thuật là sự đồng cảm. Tố Hữu: “Thơ là điệu nhạc của tâm hồn đi tìm những tâm hồn đồng điệu”. Gorky: “Do sự hòa hợp, sự trùng lặp giữa kinh nghiệm nhà văn và kinh nghiệm của độc giả mà nảy sinh chân lí nghệ thuật”. Quan niệm này đối lập với loại quan niệm nghệ thuật chỉ để dành cho một số người có chọn lọc, được ưu đãi về mặt trí thức của J. Ortega Y Gasset.

Nghệ thuật có tính nhân dân là nghệ thuật vừa sâu sắc,trong sáng, giản dị, dễ hiểu. Biélinski viết: “Tác phẩm có tính nhân dân dù nội dung lớn lao trọng yếu thế nào đối với mọi người vẫn dễ hiểu”. J.danov nói: “Không phải hễ cứ dễ hiểu là thành thiên tài nhưng đã là tác phẩm thiên tài thì nhất định phải dễ hiểu, càng thiên tài bao nhiêu thì càng làm cho quần chúng nhân dân đông đảo dễ hiểu bấy nhiêu”.

Nghệ thuật có tính nhân dân còn là nghệ thuật giản dị dễ hiểu nhưng phải sâu sắc và điêu luyện, không vì giản dị mà hạ thấp nghệ thuật. Hơn nữa giản dị là biểu hiện của nghệ thuật, “đẹp là ở cái giản dị” (Gorky).

Tóm lại: Tính dân chủ là đặc trưng của nghệ thuật có tính nhân dân, nghệ thuật đó phải có sự thống nhất hữu cơ giữa hai mặt: giản dị và tinh vi, điêu luyện. Những tác phẩm nghệ thuật như thế chẳng những thỏa mãn nhu cầu hiện tại về mặt thẩm mĩ mà còn có khả năng đáp ứng nhu cầu thẩm mĩ ngày càng cao của thế hệ sau. Nó tạo nên tính vĩnh cửu trong nghệ thuật.

4. Quan hệ giữa tính nhân dân và tính giai cấp, tính đảng của văn nghệ.

a. Tính nhân dân và tính giai cấp.

Trong xã hội phân chia giai cấp, văn học bao giờ cũng mang tính giai cấp cụ thể. Nhưng tùy theo vị trí xã hội và vai trò lịch sử của các giai cấp, nền văn học vốn mang tính giai cấp ấy có ảnh hưởng tiêu cực, tích cực đến quá trình giải phóng nhân dân, quá trình đấu tranh cách mạng của nhân dân. Như thế, văn chương phục vụ cho giai cấp bóc lột duy trì tình trạng nghèo nàn của quần chúng là không có tính nhân dân. Chỉ có văn chương phản ánh được nguyện vọng, tâm tư tình cảm của nhân dân lao động, có ảnh  hưởng tích cực đến quá trình giải phóng nhân dân thì mới có tính nhân dân.

Vậy: Tính nhân dân đối lập gay gắt với tính giai cấp lạc hậu, phản động và thống nhất với tính giai cấp tiến bộ cách mạng.

b. Tính nhân dân và tính đảng.

Tính đảng cộng sản và tính nhân dân thống nhất với nhau trong thời đại chúng ta. Vì: tính đảng là tính giai cấp tiến bộ nhất, giác ngộ nhất trong nhân dân lao động. Hơn nữa đảng ta “ngoài lợi ích của nhân dân ra Ðảng ta không có một lợi ích nào khác” (Bác). Vì thế lấy tiêu chuẩn tính nhân dân để đánh giá các tác phẩm hiện nay thì nó đã bao hàm tính đảng rồi – tính đảng là biểu hiện cao độ của tính nhân dân (tiêu chuẩn tính nhân dân cao nhất mọi thời kỳ phải đo bằng lực lượng xã hội tiên tiến nhất thời kỳ đó).

Tuy nhiên, không thể đồng nhất tính nhân dân và tính đảng.

Vì :

  • Nền văn chương vô sản có kế thừa và sáng tạo, kế thừa là kế thừa tính nhân dân.
  • Cách mạng có quy luật phát triển không đều, ở đâu giai cấp vô sản chưa nắm được chính quyền thì ở đó văn chương vô sản chưa ở mức quy mô, công khai hợp pháp, toàn dân. Cho nên, bên cạnh đó phải có nền văn chương hợp pháp.
  • Hơn nữa đề ra tính đảng là đề ra một tiêu chuẩn cao nhất cho sáng tác để lưu ý, yêu cầu sáng tác.

Tóm lại:

  • Tính nhân dân là dấu hiệu quan trọng nhất nói lên sức sống lâu bền, phi thường và bất diệt của nghệ thuật, là niềm tự hào chân chính của các thế hệ nhà văn, chỉ có liên hệ một cách sâu xa, rộng lớn, lâu bền với nhân dân thì văn chương nghệ thuật mới được tồn tại và phát triển lành mạnh.
  • Chỉ có dưới chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa, với tính đảng vô sản, văn chương mới có điều kiện khắc phục những hạn chế của văn chương nhân dân quá khứ và phát triển mạnh mẽ, toàn diện tính nhân dân của mình.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang