ve-dep-co-dien-va-hien-dai-trong-tap-tho-nhat-ki-trong-tu-cua-ho-chi-minh

Vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong tập thơ Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh

Vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong tập thơ Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh

I. Vẻ đẹp cổ điển trong tập Nhật kí trong tù

1. Khái niệm vẻ đẹp cổ điển:

Trong văn học, vẻ đẹp cổ điển được hiểu là vẻ đẹp đã trở thành chuẩn mực, kinh điển trong văn chương cổ (Trung đại). Nó được biểu hiện cụ thể ở những phương diện sau: thứ nhất là có cảm hứng đặc biệt đối với thiên nhiên; thứ hai, được viết bằng bút pháp chấm phá, tả cảnh ngụ tình (không miêu tả nhiều chi tiết mà chỉ phác họa qua vài nét giản đơn nhưng vẫn thâu tóm, nắm bắt linh hồn của tạo vật); thứ ba, nhân vật trữ tình trong không gian nghệ thuật của bài thơ thường có phong thái ung dung tự tại sống giao hòa với thiên nhiên… Một tác phẩm văn học được cho là mang vẻ đẹp cổ điển khi tác phẩm đó phải hay, đạt đến độ mẫu mực, điển hình.

2. Những biểu hiện của vẻ đẹp cổ điển trong Nhật ký trong tù

* Vẻ đẹp cổ điển trên phương diện nội dung:

Về đề tài thiên nhiên:

Đề tài là “Khái niệm chỉ loại các hiện tượng đời sống được miêu tả phản ánh trực tiếp trong sáng tác văn học, đề tài là phương diện khách quan của nội dung tác phẩm” (Từ điển thuật ngữ văn học, trang 78).

Vận dụng lí thuyết trên vào việc khảo sát thơ trữ tình cổ điển qua nhiều công trình nghiên cứu, các nhà nghiên cứu văn học đã khái quát lên được những đặc điểm có tính chất khu biệt về phương diện đề tài của thơ trữ tình cổ điển đó là: đề tài tỏ chí, tỏ lòng; đề tài hoài cổ và đặc biệt trong thơ trữ tình cổ điển đề tài thiên nhiên chiếm tỉ lệ rất lớn. Từ đó mới thấy rằng thiên nhiên là đề tài muôn thuở của thi ca.

Từ xưa đến nay không biết bao lần trái tim của những thi sĩ đã rung động chân thành trước cảnh thiên nhiên mà kí thác vào thơ, để lại cho hậu thế những vần thơ tuyệt bút. Thiên nhiên có trong thi ca từ thuở xuất hiện những câu ca dao về tình yêu, về quê hương đất nước, trong những lúc sinh hoạt đời thường ngắm nhìn thiên nhiên rồi trỗi dậy tâm tình sâu kín, gửi vào những câu ca dao yêu thương tình nghĩa… Và thiên nhiên bước vào văn học cổ điển với vẻ trang trọng rất mực thanh cao, mang “địa vị danh dự” (chữ dùng của Đặng Thai Mai). Có lẽ cũng nhờ thế mà thơ trữ tình cổ điển đạt đến đỉnh cao.

Khi đọc tập thơ Nhật ký trong tù, bạn đọc không khó để nhận ra tác giả đã dành cho thiên nhiên một vị trí khá đặc biệt. Tập thơ có rất nhiều bài viết về thiên nhiên như: Tảo (Buổi sớm), Ngọ (Buổi trưa), Mộ (Chiều tối), Tẩu lộ (Đi đường), Tảo giải (Giải đi sớm), Dạ lãnh (Đêm lạnh), Hoàng hôn (Hoàng hôn), Tảo tình (Nắng sớm), Triêu cảnh (Cảnh buổi sớm), Vãn cảnh (Cảnh chiều hôm), Thu cảm (Cảm thu), Thu dạ (Đêm thu), Tình thiên (Trời hửng)…

Với một tỉ lệ những tác phẩm viết về đề tài thiên nhiên khá lớn như vậy, ta có đủ cơ sở để khẳng định rằng thiên nhiên đã trở thành đối tượng nhận thức và miêu tả của tác giả Nhật ký trong tù.
Theo như tác giả Nguyễn Đăng Mạnh “Phong cảnh thiên nhiên trong thơ xưa thường là một thiên nhiên được nhìn từ xa, từ cao, nhà thơ bao quát trong tầm mắt của mình toàn cảnh cao sơn lưu thủy và ghi lại bằng vài nét chấm phá đơn sơ, bỏ nhiều khoảng trống để gợi lên cái nhìn mênh mông bát ngát của đất trời”. Qua bài thơ Tẩu lộ, bạn đọc sẽ cảm nhận sâu sắc hơn về điều đó.

Tẩu lộ

Tẩu lộ tài tri tẩu lộ nan
Trùng san chi ngoại hựu trùng san
Trùng san đăng đáo cao phong hậu
Vạn lý dư đồ cố miện gian.

Dịch nghĩa:

Có đi đường mới biết đường đi khó,
Hết lớp núi này lại tiếp đến lớp núi khác;
Khi đã vượt các lớp núi lên đến đỉnh cao chót,
Thì muôn dặm nước non thu cả vào tầm mắt.

Dịch thơ:

Đi đường

Đi đường mới biết gian lao,
Núi cao rồi lại núi cao trập trùng;
Núi cao lên đến tận cùng,
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non.

Thiên nhiên không được tập trung miêu tả tỉ mỉ, chỉ bằng vài nét chấm phá mà cái hồn của thiên nhiên, tạo vật được tái hiện lên qua sự liên tưởng, đồng sáng tạo của bạn đọc: hình ảnh một con người đi về phía trước với muôn trùng núi cao chất ngất đại ngàn. Nhà thơ Hoàng Trung Thông đã so sánh bài thơ này với tác phẩm Lên lầu quan tước của Vương Chi Hoán đời nhà Đường của Trung Quốc như sau:

Đăng Quán Tước lâu

Bạch nhật y sơn tận,
Hoàng Hà nhập hải lưu.
Dục cùng thiên lý mục,
Cánh thướng nhất tằng lâu.

Dịch nghĩa:

Mặt trời dần khuất sau núi rồi lặn mất,
Hoàng Hà chảy đổ mãi vào biển cả.
Muốn phóng mắt nhìn xa hết ngàn dặm,
Hãy lên thêm một tầng lầu nữa.

Dịch thơ:

Lên lầu quan tước

Mặt trời tắt sau núi
Sông Hoàng vào biển sâu
Muốn nhìn xa nghìn dặm
Lên nữa một tầng lầu.

Với Hồ Chí Minh là leo mãi lên đến muôn trùng núi thì toàn bộ núi sông sẽ nằm trong tầm mắt của ta. Còn với nhà thơ của Trung Quốc thì lại khác muốn thấy xa nghìn dặm thì bước lên một tầng lầu. Một người muốn đạt được mục đích của mình thì phải đi khắp núi non, còn người kia chỉ cần chiêm ngưỡng, thưởng ngoạn.

Như vậy, trong sự kế thừa về đề tài của thơ ca cổ điển, thiên nhiên trong thơ Hồ Chí Minh cũng có vẻ đẹp riêng, dấu ấn riêng không lẫn lộn được. Ngoài bài thơ Tẩu lộ ra, khi đọc tác phẩm Tân xuất ngục học đăng sơn.

Bài thơ Tân xuất ngục học đăng sơn được Hồ Chí Minh sáng tác ngay sau khi ra tù, mặc dù nó không nằm trong tập thơ nhưng xét về mặt bút pháp nó có quan hệ chặt chẽ với tập thơ nên khi xuất bản được đưa thêm vào tập thơ. Và trong chương trình Văn học 12 cũ, khi dạy về Nhật ký trong tù có tác phẩm này. Do đó, trong chuyên đề này, chúng tôi sử dụng tác phẩm Tân xuất ngục học đăng sơn làm đối tượng khảo sát như những bài thơ khác trong tập thơ, bạn đọc cũng sẽ nhận ra bức tranh thiên nhiên cũng được cảm nhận theo kiểu như vậy.

Trong nhiều bài thơ viết về thiên nhiên, cả thơ cổ điển và Nhật ký trong tù của Hồ Chí Minh còn có sự gặp nhau nữa đó là thường đề cập đến trăng. Nói như một ai đó là “đặc biệt thiên vị với ánh trăng”. Điểm qua những tác phẩm sau ta sẽ thấy điều đó: Vọng nguyệt (Ngắm trăng), Trung thu, Tảo giải…

Vọng nguyệt

Ngục trung vô tửu diệc vô hoa,
Đối thử lương tiêu nại nhược hà?
Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt,
Nguyệt tòng song khích khán thi gia.

Dịch nghĩa:

Trong tù không rượu cũng không hoa,
Trước cảnh đẹp đêm nay biết làm thế nào?
Người hướng ra trước song ngắm trăng sáng,
Từ ngoài khe cửa, trăng ngắm nhà thơ.

Dịch thơ:

Trong tù không rượu cũng không hoa,
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ;
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ.

Nếu như các nhà thơ cổ điển thường thưởng nguyệt trong lúc trà dư tửu hậu, trong Nhật ký trong tù Bác chỉ có một lần được ngắm trăng trong tư thế “chưa thấy trong thơ ca quá khứ” (chữ của Vũ Quần Phương). Hoàn cảnh tù đày – chân tay bị trói, với Bác “người ngắm trăng nhưng trăng cũng mê mải ngắm người”.

Lí giải về sự xuất hiện với tần số cao của những vần thơ viết về ánh trăng, Nguyễn Đăng Mạnh cho rằng: có lẽ tâm hồn Á Đông phù hợp với vẻ đẹp trong sáng hiền hòa, với cái duyên mặn mà kín đáo của chị Hằng?

Trong mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên, thơ cổ điển nói chung và thơ Đường nói riêng đặc biệt chú ý sự hài hòa giao cảm giữa con người và thiên nhiên. Và trong thơ trữ tình cổ điển, thiên nhiên không được nhìn nhận như một khách thể có đời sống riêng biệt, tồn tại độc lập và phân cách với con người mà thiên nhiên và con người là một thể thống nhất hữu cơ. Đọc Cảnh chiều hôm ta nhận ra điều đó:

Vãn cảnh

Mai khôi hoa khai hoa hựu tạ,
Hoa khai hoa tạ lưỡng vô tình;
Hoa hương thấu nhập lung môn lý,
Hương tại lung nhân tố bất bình.

Dịch nghĩa:

Hoa hồng nở hoa hồng lại tàn,
Hoa nở hoa tàn đều vô tình;
Hương thơm bay vào thấu trong ngục,
Tới kể với người trong ngục nỗi bất bình.

Dịch thơ:

Hoa hồng nở hoa hồng lại rụng,
Hoa tàn, hoa nở cũng vô tình;
Hương hoa bay thấu vào trong ngục,
Kể với tù nhân nỗi bất bình.

Vạn vật trong cuộc sống luôn luôn vận động theo quy luật của sự vận động không ngừng, cái sự “nở” rồi “tàn” của hoa hồng cũng nằm trong quy luật đó. Nó cứ diễn ra trước sự “vô tình” của tạo hóa. Vì sự “vô tình” đó mà hoa tìm đến với người tù Hồ Chí Minh để giãi bày nỗi “bất bình” của mình. Ngửi được hương thơm của hoa là một điều bình thường, nhưng từ hương thơm của hoa mà cảm nhận được nỗi “bất bình” của hoa thì chỉ ở trong thơ Hồ Chí Minh mới có được điều đó. Từ đây, ta thấy được con người và thiên nhiên không còn có khoảng cách nữa mà như hòa vào trong nhau trong nỗi niềm tri âm, tri kỉ.

Viết về đề tài thiên nhiên là quen thuộc, là truyền thống. Trong sáng tác văn học, kế thừa cái có trước, cái có sẵn của người đi trước là một quy luật. Tuy nhiên, với Nhật ký trong tù, chúng ta có thể lí giải sự xuất hiện của vấn đề này như sau. Trước hết thế giới trong nhà tù là thế giới khép kín, cái ác, sự tăm tối sẽ được lên ngôi ngự trị, con người muốn vượt lên trên điều đó tất yếu phải vượt ngục về với sự tự do của thiên nhiên của đất trời. Đấy là lí do vì sao tác giả Nhật ký trong tù đã tìm mọi cách để đưa thiên nhiên vào trong tác phẩm của mình. Bên cạnh đó, theo quan niệm triết học của người Á Đông, thiên nhiên là đại vũ trụ và con người là tiểu vũ trụ. Giữa con người và vũ trụ có mối tương giao hài hòa với nhau – “thiên nhân tương cảm”.

Con người không thể sống biệt lập hoàn toàn với thế giới bên ngoài theo đúng ý nghĩa đích thực của từ sống. Nên ngay từ thời xa xưa, con người đã có nhu cầu được sống hòa đồng với thiên nhiên. Nhu cầu đó vừa có ý nghĩa tinh thần và cả ý nghĩa vật chất, thậm chí cao hơn nữa ta có thể cho rằng đó là nhu cầu văn hóa lớn của con người. Ngày trước cụ Tam Nguyên Yên Đỗ cũng có câu “song thưa để mặc bóng trăng vào”. Từ đó mới thấy rằng, những vần thơ viết về thiên nhiên với nỗi niềm khao khát hướng ra bên ngoài đã giúp cho Nhật ký trong tù mang tầm văn hóa nhân loại. Chính từ những câu thơ viết về thiên nhiên đó sẽ chạm đến được những gì thuộc về bản chất của cuộc sống, sẽ chạm tới được cái bản thể trong mỗi cá nhân con người.

Về hình tượng nhân vật trữ tình:

Về khái niệm nhân vật trữ tình, Từ điển thuật ngữ văn học đinh nghĩa như sau: “Nhân vật trữ tình là con người “đồng dạng” của tác giả – nhà thơ hiện ra từ văn bản của kết cấu trữ tình như một con người có đường nét hay một vai sống động có số phận cá nhân xác định hay có thế giới nội tâm cụ thể đôi khi có cả nét vẽ chân dung…”

Trong văn chương trung đại, hình tượng nghệ thuật để lại ấn tượng nổi bật về con người đó là hình tượng người ẩn sĩ. Trong môi trường văn hóa trung đại, khái niệm ẩn sĩ dùng để chỉ những nhà Nho vì lí do nào đó mà bộ phận trí thức này có ngã rẽ về phía ẩn dật. Xét về lẽ xuất xử, về cơ bản là họ xa lánh cuộc đời, không màng đến thế sự công danh. Ở những con người này toát lên vẻ đẹp nhân cách cứng cỏi và bản lĩnh kiên cường, luôn làm chủ được hành vi của bản thân. Còn đối với thời cuộc họ bộc lộ sự an nhiên, tự tại của những con người đứng cao hơn hoàn cảnh, họ không màng danh lợi nhưng vẫn gắn bó với cuộc sống của người dân thường. Họ tìm về với thiên nhiên bằng lối sống ẩn dật.

Với Nhật ký trong tù của Hồ Chí Minh, hình ảnh của những bậc hiền triết phương Đông cũng xuất hiện . Chính điều này góp phần mang lại màu sắc cổ điển cho tập thơ. Đọc Nhật ký trong tù, bạn đọc bắt gặp một cái tôi trữ tình ung dung, nhàn dật, một tâm hồn hòa hợp với thiên nhiên mà cách thời đại Nhật ký trong tù bốn thế kỉ về trước cụ Trạng Trình đã từng có viết bài thơ Nhàn:

Một mai, một cuốc, một cần câu,
Thơ thẩn dù ai vui thú nào.
Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ ,
Người khôn người đến chốn lao xao.

Thu ăn măng trúc đông ăn giá,
Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao.
Rượu đến cội cây ta sẽ uống,
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.

(Nhàn – Nguyễn Bỉnh Khiêm)

Mãi đến bốn thế kỉ sau, Hồ Chí Minh lại viết Tân xuất ngục học đăng sơn:

Vân ủng trùng sơn, sơn ủng vân,
Giang tâm như kính tịnh vô trần;
Bồi hồi độc bộ Tây Phong Lĩnh
Dao vọng Nam thiên ức cố nhân.

Dịch thơ:

Núi ấp ôm mây, mây ấp núi,
Lòng sông gương sáng, bụi không mờ,
Bồi hồi dạo bước Tây Phong Lĩnh
Trông lại trời Nam, nhớ bạn xưa

Con người xuất hiện trong không gian khoáng đạt, đứng giữa trời đất, đầu đội trời chân đạp đất, nối giữa trời và đất. Tân xuất ngục học đăng sơn là một thi phẩm đẹp bởi nhiều lẽ, trước hết là nhờ cảnh mang một vẻ đẹp hùng vĩ hài hòa, đẹp đến trong suốt. Sau đó là hình tượng nhân vật trữ tình xuất hiện với tư thế điềm nhiên dạo bước giữa thiên nhiên núi rừng như một vị tiên lạc giữa cõi trần. Đặt bài thơ trong hoàn cảnh ra đời của nó – được viết ngay sau khi ra tù, sau hơn một năm bị giam cầm (1942-1943), sức khỏe của Hồ Chí Minh bị giảm sút rất nhiều, đôi chân gần như bị tê liệt; ra tù, Người cố gắng tập leo núi, luyện cho sức khỏe sớm phục hồi để về nước – ta mới thấy được bản lĩnh kiên cường, đứng cao hơn hoàn cảnh của người tù Hồ Chí Minh.

Đến với Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm, bạn đọc gặp được con người hòa mình với thiên nhiên vui cái thú điền viên để giữ cho tâm hồn được thanh khiết. Đến với Tân xuất ngục học đăng sơn của Hồ Chí Minh, bạn đọc được gặp một con người trước hết vượt lên trên hoàn cảnh khắc nghiệt của bản thân để bộc lộ, giãi bày tấm lòng trong sáng như gương – Lòng sông gương sáng bụi không mờ. Đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm thiên nhiên là điều kiện cần để giữ mình.

Đối với Hồ Chí Minh thiên nhiên là phương tiện để bộc lộ mình. Từ giữ mình đến bộc lộ mình là cả một khoảng cách, ở đây giữ thanh khiết là điều hiển nhiên đã đạt được. Rồi sau đó mới xét đến con người ung dung dạo bước giữa sơn thủy hữu tình nhưng tuyệt nhiên không bàng quan trước cuộc đời mà Dao vọng Nam thiên ức cố nhân. Đấy chính là những vẻ đẹp cổ điển của hình tượng nhân vật trữ tình trong Nhật ký trong tù.

* Vẻ đẹp cổ điển trên phương diện nghệ thuật.

Ngôn ngữ và thể loại:

Mặc dù từ cuối thế kỉ XIX, ở Việt Nam đã xuất hiện một số sáng tác văn xuôi bằng chữ Quốc ngữ và sang những năm đầu thế kỉ XX thì chữ Quốc ngữ đã được sử dụng rộng rãi. Đến những năm của thập niên 20 của thế kỉ XX, chữ Quốc ngữ đóng vai trò tích cực trong đời sống văn học từ báo chí đến dịch thuật và sáng tác. Trong khi đó, tập thơ Nhật ký trong tù của Hồ Chí Minh được viết từ mùa thu năm 1942 đến mùa thu 1943 lại viết bằng chữ Hán. Toàn bộ tập thơ có 134 bài thơ được viết bằng chữ Hán.

Điều này cũng không có gì là lạ. Bởi vì Hồ Chí Minh được sinh ra trong một gia đình nhà Nho, Người được học chữ Hán từ rất nhỏ và được lớn lên trong một môi trường văn hóa chịu nhiều ảnh hưởng của Hán học. Vì thế Hồ Chí Minh rất thông thạo chữ Hán, rất giỏi chữ Hán. Nên việc dùng một thứ ngôn ngữ mình rất thông thạo để sáng tác là điều không có gì là khó hiểu.
Mặt khác, Hồ Chí Minh viết Nhật ký trong tù trong hoàn cảnh đang bị giam cầm trong nhà tù Tưởng Giới Thạch ở Trung Quốc nên việc sử dụng chữ Hán, một thứ chữ hàm súc về ý nghĩa để sáng tác thơ là điều dễ hiểu.

Khi nhận xét về một trong những biểu hiện nổi bật về ngôn ngữ của văn chương thời trung đại, tác giả Nguyễn Đăng Điệp có viết: “Ngôn ngữ đậm chất ước lệ. Nó hướng tới việc bộc lộ những vẻ đẹp cao nhã. Ngôn ngữ trang trọng mực thước được coi là chuẩn mực văn học thời đại này. Màu sắc Hán và điển tích cổ rất đậm” (Giọng điệu trong thơ trữ tình- trang 18). Trong Nhật ký trong tù, không khí cổ kính, trang trọng lan tỏa bao trùm cả tác phẩm là nhờ ở việc sử dụng hệ thống từ Hán Việt với tần số rất cao.

Về mặt thể loại, tất cả 134 bài thơ trong Nhật ký trong tù được sáng tác theo thể thơ Đường luật gồm thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, ngũ ngôn, bát cú, thơ cổ phong. Đây là những thể thơ có yêu cầu niêm, luật, nghệ thuật đối, bố cục rất chặt chẽ. Những thể thơ đó là thành quả của quá trình bền bỉ tìm tòi trong suốt nhiều thế kỉ của văn học Trung Quốc. Và khi du nhập vào Việt Nam những thể thơ đó cũng nhanh chóng trở thành chuẩn mực trong sáng tác văn học trung đại trong suốt mười thế kỉ phát triển.

Đến với Nhật ký trong tù – một tập nhật ký được ghi bằng thơ, nghĩa là giá trị của một tập nhật ký ngang hàng với giá trị một tập thơ. Việc sử dụng các thể thơ Đường luật có ý nghĩa rất tích cực, thơ có niêm, luật, đối, bố cục chặt chẽ sẽ có tác dụng gạn lọc loại bỏ khỏi tác phẩm những cái gì chưa thật sự là thơ.

Đọc Nhật ký trong tù, bạn đọc sẽ thấy ở những bài có nội dung lớn, cần viết nhiều hơn khuôn khổ quy định, tác giả chia thành hai bài đứng chung dưới một đầu đề (ví dụ: Tảo giải). Nếu tách riêng ra, mỗi bài có thể tồn tại như một bài thơ độc lập nhưng cùng chung một đầu đề, chúng bổ sung ý nghĩa cho nhau.

Nhật ký trong tù cũng có hai bài thơ phá thể. Bài thứ nhất là Cháu bé trong nhà lao Tân Dương, câu đầu chỉ có ba chữ chứ không đúng bảy chữ theo quy định của thể thơ.

Tân Dương ngục trung hài

Oa…! Oa…! Oaa…!
Gia phạ đương binh cứu quốc gia;
Sở dĩ ngã niên tài bán tuế,
Yếu đáo ngục trung căn trước ma.

Dịch nghĩa:

Oa…! Oa…! Oaa…!
Cha sợ vào lính cứu nước nhà;
Cho nên em vừa được nửa tuổi,
Đã phải vào nhà tù cùng mẹ.

Dịch thơ:

Oa…! Oa…! Oa…!
Cha sợ sung quân cứu nước nhà;
Nên nỗi thân em vừa nửa tuổi
Phải theo mẹ đến ở nhà pha.

Bài thơ thứ hai:

Giải vãng Vũ Minh

Ký giải đáo Nam Ninh,
Hựu giải phản Vũ Minh;
Loan loan, khúc khúc giải,
Đồ diên ngã hành trình.
Bất bình!

Dịch nghĩa:

Đã giải đến Nam Ninh,
Lại giải về Vũ Minh;
Giải đi quanh quanh quẹo quẹo mãi,
Kéo dài cuộc hành trình của ta.
Bất bình!

Dịch thơ:

Đã giải đến Nam Ninh.
Lại giải về Vũ Minh;
Giải đi quanh quẹo mãi,
Kéo dài cả hành trình.
Bất bình!

Bài thơ có năm câu, bốn câu đầu tạo nên một bài thơ tứ tuyệt. “Bất bình” đứng riêng tạo ra một câu cảm thán đặc biệt. Đó là hai bài thơ phá cách biểu hiện của yếu tố phản thơ Đường đầy sáng tạo của tác giả.

Thi liệu (Đường thi):

Khi tiến hành khảo sát tập thơ Nhật ký trong tù trên phương diện thi liệu (Đường thi), chúng tôi thấy nổi bật lên ở hai điểm đó là tứ thơ và hình ảnh thơ.
Thời Đường, thi nhân Vương Chi Hoán có bài Đăng Quán Tước lâu như sau:

Đăng Quán Tước lâu

Bạch nhật y sơn tận,
Hoàng Hà nhập hải lưu.
Dục cùng thiên lý mục,
Cánh thướng nhất tằng lâu.

Dịch nghĩa:

Mặt trời dần khuất sau núi rồi lặn mất,
Hoàng Hà chảy đổ mãi vào biển cả.
Muốn phóng mắt nhìn xa hết ngàn dặm,
Hãy lên thêm một tầng lầu nữa.

Dịch thơ:

Bỗng nghe trong ngục sáo vi vu,
Khúc nhạc tình quê chuyển điệu sầu;
Muôn dặm quan hà khôn xiết nỗi,
Lên lầu ai đó đứng trông nhau.

Hình ảnh con người trong tư thế đăng cao là hình ảnh quen thuộc trong thơ Đường (Đăng U Chân đài ca – của tác giả Trần Tử Ngang, Đăng cao – của Đỗ Phủ…). Có lẽ tư thế đăng cao thể hiện được khí thế vươn lên của con người, vươn lên để mở rộng chân trời tri thức, lên cao để hòa nhập với thiên địa vô cùng. Có điều khác ở chỗ, tứ thơ “Cánh thướng nhất tằng lâu” của Hồ Chí Minh bắt nguồn từ chuyện nghe một người bạn tù thổi sáo.

Ngay nhan đề của bài thơ đã là sự bay bổng vượt lên trên sự tăm tối, nhơ bẩn ở chốn lao tù. Ở đó có một tâm hồn nhạy cảm với âm thanh trong lành và da diết của tiếng sáo, của sự đồng cảm giữa những con người cùng cảnh ngộ – khúc nhạc tình quê chuyển điệu sầu, của sự đồng điệu tâm hồn của cả người nghe sáo lẫn người thổi sáo.

Từ âm thanh tiếng sáo nhớ quê của anh bạn tù, tác giả dẫn người đọc đến sự liên tưởng đến cảnh sinh li tử biệt giữa vợ chồng người bạn tù, liên tưởng đến sự “quan san cách trở” của chính thi nhân với quê hương và bạn bè. Đặc biệt là ở câu cuối xuất hiện hình ảnh người thiếu phụ nơi quê nhà xa xôi bước lên lầu cao – lên lầu ai đó ngóng trông nhau. Hình ảnh này gợi ta nhớ đến Khuê oán của Vương Xương Linh

Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu,
Xuân nhật ngưng trang thướng thúy lâu;
Hốt kiến bạch đầu dương liễu sắc,
Hối gia phu kiến mịch phong hầu.

Giữa tập thơ Nhật ký trong tù của Hồ Chí Minh và Thơ Đường của nhiều tác giả văn học Trung Quốc có sự gặp gỡ của nhiều hình ảnh thơ như:

+ Hình ảnh dòng sông: Tình xuyên lịch lịch Hán Dương Thụ (Thôi Hiệu – Hoàng Hạc lâu) và: Giang tâm như kính tịnh vô trần (Hồ Chí Minh – Tân xuất ngục học đăng sơn)

+ Hình ảnh ánh trăng: Ngẩng đầu nhìn trăng sáng Cúi đầu nhớ cố hương (Lý Bạch – Tĩnh dạ tư) và: Quần tinh ủng nguyệt thướng thu sang (Hồ Chí Minh – Tảo giải)

+ Hình ảnh đám mây, cánh chim: Hoàng Hạc nhất khứ bất phục phản, Bạch vân thiên tải không du du (Thôi Hiệu – Hoàng Hạc lâu) và Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ, Cô vân mạn mạn độ thiên không (Hồ Chí Minh – Mộ)

Và rất nhiều hình ảnh nữa mà trong giới hạn của chuyên đề người viết chưa có điều kiện nêu hết ra ở đây. Dẫu là tiếp thu thi liệu Đường thi nhưng chúng ta vẫn thấy đến với thơ Hồ Chí Minh những hình ảnh thơ ấy mang dáng dấp nỗi niềm của hồn Việt. Cùng là hình ảnh cánh chim nhưng trong Hoàng hạc lâu của Thôi Hiệu ta hình dung ra hình ảnh cánh chim bay vào chốn vô cùng để rồi mất hút trong hư không. Còn ở thơ Hồ Chí Minh cánh chim có tâm trạng, có đường bay cụ thể, có mục đích để bay về. Nó là một biểu hiện của sự sống rất đỗi bình thường và giản dị nhưng không thiếu được trên thế giới này. Việc lưu luyến nhìn theo cánh chim bay giữa trời chiều còn thể hiện được tâm hồn của một con người luôn biết nâng niu trìu mến đối với sự sống, biết rung động trước những buồn vui mưa nắng của cuộc đời.

Việc tiếp thu thi liệu (Đường thi) còn thể hiện ở điểm thứ hai nữa đó là việc xây dựng không gian nghệ thuật trong thơ phảng phất không gian thơ Đường. Liễu Tông Nguyên có bài thơ Giang Tuyết:

Phiên âm:

Thiên sơn điểu phi tuyệt,
Vạn kính nhân tông duyệt;
Cô chu thôi lập ông,
Độc điếu hàn giang tuyết.

Dịch thơ:

Nghìn non bóng chim tắt,
Muôn nẻo, dấu người không;
Thuyền đơn, ông tơi nón,
Một mình câu tuyết sông.

Ở Nhật ký trong tù, Hồ Chí Minh có bài: Mộ

Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ,
Cô vân mạn mạn độ thiên không;
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng.

Ở cả hai bài thơ, cái tôi trữ tình gần như hòa lẫn vào ngoại cảnh. Nhân vật trữ tình dường như lánh hẳn sang một bên để ngoại cảnh phơi bày mọi dáng vẻ của nó. Chỉ có khác nhau ở chỗ, không gian vũ trụ trong bài thơ Giang Tuyết lạnh lẽo hơn, cô quạnh hơn phù hợp với hình ảnh một con người đơn độc, chờ thời. Còn trong bài thơ Mộ của Hồ Chí Minh không gian ấm áp hơn, có sinh khí hơn điều này phù hợp với hình ảnh con người miệt mài lao động để duy trì sự sống.
Thử so sánh hai bài Hoàng hôn của Hồ Chí Minh và Phòng kiều dạ bạc của Trương Kế.

Hoàng hôn

Phong như lợi kiến ma sơn thạch,
Hàn tự tiên phong thích thụ chu;
Viễn tự chung thanh thôi khách bộ,
Mục đồng xuy địch dẫn ngưu quy.

Dịch thơ:

Gió sắc tựa gươm mài đá núi;
Rét như dùi nhọn chích cành cây;
Chùa xa chuông giục người nhanh bước
Trẻ dẫn trâu về tiếng sáo bay.
Phong kiều dạ bạc

Phiên âm:

Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên,
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên;
Cô Tô thành ngoại hàn san tự,
Dạ bán chu thanh đáo khách thuyền.

Dịch thơ:

Trăng tà chiếc quạ kêu sương,
Lửa chài ông bến sầu vương giấc hồ;
Thuyền ai đậu bến Cô Tô,
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San.

Cả hai bài thơ đều có những chi tiết: âm thanh tiếng chuông chùa, tiếng sáo mục đồng, gió. Nhưng thi liệu không chỉ dừng lại ở những hình ảnh quen thuộc đó mà gợi lên cho người đọc sự liên tưởng đến hình ảnh tù nhân bị trói giải đi trong buổi chiều tà – chùa xa chuông giục người nhanh bước được gợi lên từ hình ảnh người lữ thứ trong thơ của Bà Huyện Thanh Quan:

Trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn,
Tiếng ốc xa đưa vẳng trống dồn.
Gác mái, ngư ông về viễn phố,
Gõ sừng, mục tử lại cô thôn.
Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi,
Dặm liễu sương sa khách bước dồn.
Kẻ chốn chương đài, người lữ thứ,
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn?

(Chiều hôm nhớ nhà)

Mặt khác, vẻ đẹp cổ điển trong bài thơ Hoàng hôn của Hồ Chí Minh còn được thể hiện ở tính chất “thi trung hữu họa” của thơ cổ điển phương Đông. Bốn câu, hai tám chữ trong bài thơ đủ để gợi lên một bức tranh sinh động với gió chém vào đá núi, với rét cứa vào cành cây, với người khách bộ hành bước trên đường, với mục đồng vắt vẻo trên lưng trâu trong bản hòa tấu của âm nhạc: tiếng gió vút, tiếng chuông chùa ngân nga, tiếng sáo véo von. Cái thoáng nhẹ mà sâu lắng của buổi chiều hoàng hôn lại có sức ngân vang, lan tỏa trong lòng người đọc.
Cả Hồ Chí Minh trong Nhật ký trong tù và Đỗ Mục thời Đường đều có bài thơ có tên đề giống nhau.

Thanh Minh (Hồ Chí Minh)

Thanh minh thời tiết vũ phân phân,
Lung lý tù nhân dục đoạn hồn;
Tá vấn tự do hà xứ hữu?
Vệ binh dao chỉ biện công môn.

Dịch thơ:

Thanh minh lất phất mưa phùn,
Tù nhân nghe thấm nỗi buồn xót xa;
Tự do thử hỏi là đâu?
Lính canh trỏ lối thẳng ra công đường

Thanh minh (Đỗ Mục):

Thanh minh thời tiết vũ phân phân,
Lộ thương hành nhân dục đoạn hồn;
Tá vấn hữu gia hà hữu xứ?
Mục đồng dao chỉ Hạnh Hoa thôn.

Dịch thơ:

Thanh minh lất phất mưa phùn,
Khách đi đường thấm nỗi buồn xót xa;
Hỏi thăm quán rượu là đâu?
Mục đồng trỏ lối: Hạnh Hoa thôn ngoài.

Không những tên bài thơ giống nhau mà cả không gian mưa bụi cũng có, cái se lạnh của thời tiết cũng có, và cả cách cấu tứ cũng giống nhau. Nhưng xét thật kĩ thì có ngoại cảnh giống nhau thôi còn tâm cảnh thì lại khác. Cũng trên nền không gian đó một người muốn tìm nơi bán rượu để sưởi ấm trong tiết trời lạnh giá, còn người kia thì lại khao khát cháy bỏng cuộc sống tự do.
Và còn rất nhiều thi liệu (Đường thi) trong Nhật ký trong tù của Hồ Chí Minh nữa nhưng chúng tôi muốn dùng hai bài thơ sau để khép lại phần này.

Tương giang (Lương Ý Nương)

Quân tại Tương giang đầu,
Thiếp tại Tương giang vĩ;
Tương tư bất tương kiến,
Đọc ẩm tương giang thủy.

Dịch thơ:

Chàng ở đầu sông Tương,
Thiếp ở cuối sông Tương;
Nhớ nhau không gặp mặt,
Cùng uống nước sông Tương.

Nạn hữu chi thê thám giam (Hồ Chí Minh)

Quân tại thiết song lý,
Thiếp tại thiết song tiền;
Tương cận tại chỉ xích,
Tương cách tự thiên nguyên.

Dịch thơ:

Anh ở trong song sắt
Em ở ngoài song sắt;
Gần nhau trong tấc gang,
Mà cách nhau trời vực.

Cách cấu tứ bài thơ giống nhau, giá trị tư tưởng của hai bài thơ cũng giống nhau – đó là sự thông cảm, chia sẻ với cảnh ngộ bị chia cách của những người yêu nhau. Nhưng khác nhau ở chỗ Tương Giang của Lương Ý Nương không nói đến nguyên nhân của sự xa cách, còn bài thơ của Hồ Chí Minh nguyên nhân hiện lên qua hình ảnh cánh cửa sắt.

Từ những điều đã viết ở trên, có thể giúp cho chúng ta nhận xét rằng trong Nhật ký trong tù, tác giả Hồ Chí Minh đã cố ý ghi chép sự việc diễn ra trong đời sống hằng ngày bằng những phương tiện đặc trưng của thi ca cổ điển. Việc sử dụng thi liệu (Đương thi) vào trong Nhật ký trong tù có ý nghĩa rất tích cực. Nó giúp cho người cầm bút gạn lọc được những xù xì, góc cạnh xô bồ tràn vào trong tác phẩm và mặt khác nó cũng giúp cho nhiều hình ảnh, nhiều chi tiết trở nên gợi cảm, có giá trị nghệ thuật cao hơn.

Nghệ thuật đối:

Như đã khẳng định điều làm nên nét đẹp riêng của tập thơ Nhật ký trong tù là vẻ đẹp cổ điển sang trọng bát ngát như thơ Đường thơ Tống. Điều này càng kỳ diệu hơn nữa khi ta nhớ năm 1941 cũng là năm nhà phê bình Hoài Thanh viết Thi Nhân Việt Nam, tập sách được xem là bảng tổng kết thành tựu của một nền thi ca mới. Cùng trong thời gian này cội nguồn thi ca cổ điển kia lần nữa lại trổ đóa hoa muộn mà hương sắc lạ lùng đủ gợi lại cả một thời xuân sắc mãn khai đó là Nhật ký trong tù.

Riêng trong vẻ đẹp của thi ca cổ điển, phép đối giữ vai trò điều phối giữa tình và ý, làm thơ không chỉ nặng về tình mà còn sâu sắc trong ý tứ. Chính vì thế mà mọi uyên bác thâm sâu của thơ Đường hầu như đều được triển khai trong các vế đối, và như chắc chắn rằng tên gọi Thực – Luận của các cặp đối của thể thất ngôn bát cú có mối liên hệ chặt chẽ và nhân quả trong đặc tính thiên về ý tứ của nó. Cũng do đó mà phép đối trong thơ ca cổ điển cũng là phép thử chắc chắn tài năng của các thi nhân, hoặc vượt qua thử thách để vươn lên hàng tầm cỡ, hoặc lẩn khuất vào trong muôn ngàn nỗi nhàn nhạt vô vị của bạt ngàn câu chữ.

Nói vậy để ta có thể hình dung hết vẻ đẹp uyên bác của Nhật ký trong tù qua phép đối chắc tay của tác giả Hồ Chí Minh.

Mối liên quan của thể loại và phép đối:

Nhật ký trong tù có hai bài được làm theo thể thất ngôn bát cú, còn lại làm theo thể ngũ ngôn, cổ thi, thể thất ngôn tứ tuyệt chiếm tỉ lệ cao nhất. Riêng trong tứ tuyệt do đặc tính cấu trúc nên có thể là không có đối (thể kết hợp hai câu đầu và hai câu cuối của thể bát cú), có thể là đối ở từng cặp câu (loại kết hợp phần thực và phần luận của thể bát cú), có thể đối hai câu đầu (loại kết hợp hai cặp câu đầu của thể bát cú), có thể đối hai câu sau (loại kết hợp hai cặp câu cuối của thể bát cú).

Nhật ký trong tù sử dụng đa dạng các thể thất ngôn tứ tuyệt kể trên. Phép đối cũng đa dạng từ chính đối (tương hợp) đến phản đối (tương phản); từ công đối (đối chỉnh) đến khoan đối (đối không chỉnh), ngôn đối (đối thành ngữ) và sự đối (đối kinh sách), tá đối (đối hình đối tiếng).
Cái nhìn khái quát này cung cấp một kết luận rằng tác giả Nhật ký trong tù rất am hiểu luật thi cổ điển và vận dụng một cách thoải mái thi luật hiểm hóc này trong thơ của mình.

Phép đối trong Nhật ký trong tù:

Nếu cái nhìn thể loại gợi nên ý tưởng phần hình thì cảm nhận vẻ đẹp của phép đối ở Nhật ký trong tù qua những biểu hiện cụ thể đem đến cho người đọc một tình cảm vừa yêu mến vừa ngưỡng mộ.

Đề từ của tập thơ là một bài thơ tròn trịa của thể ngũ ngôn:

Phiên âm:

Thân thể tại ngục trung
Tinh thần tại ngục ngoại;
Dục thành đại sự nghiệp,
Tinh thần cánh yếu đại.

Dịch thơ:

Thân thể ở trong lao,
Tinh thần ở ngoài lao;
Muốn lên sự nghiệp lớn,
Tinh thần càng phải cao.

Cặp hai câu đầu sử dụng phản đối để nêu lên một nghịch cảnh, sắc gọn như những nhát cắt hiện thực nghiệt ngã, cặp hai câu sau dụng chính đối như thừa long nâng đỡ tinh thần bay lên cõi lạ, vững trong tư thế đứng trên ngục thất vượt ngoài ngục trung. Lối vận dụng này lần nữa rất sắc sảo trong bài Nhập Tĩnh Tây huyện ngục.

Bài Học dịch kỳ II bàn từ kỳ thế bỗng chuyển sang sự thế một cách thâm trầm cũng là công năng của phép chỉnh đối:

Thác lộ, song xa dã một dụng,
Phùng thì, nhất tốt khả thành công.

Lưu thủy đối ý tứ nâng đỡ lẫn nhau, bay bướm tài hoa trong vịnh cảnh (là nét đặc trưng trong chùm ba bài thơ Thu của Tam Nguyên Yên Đỗ), lại khoan thai đĩnh đạc khi dụng tình. Tham lĩnh ý tứ tác giả Nhật ký trong tù khi vận dụng thể loại này:

Nguyệt chiếu đình tiêu tăng lãnh khí,
Khuy song Bắc đẩu dĩ hoành thiên.

(Dạ lãnh)

Không gian mở rộng bát ngát mênh mông, một cuộc vượt ngục tinh thần thật ngoạn mục được thực hiện nhờ nghệ thuật đối!

Tuy thị hiềm nghi gián điệp phạm,
Nghi dung khước tượng cựu công khanh.

(Vãng Nam Ninh)

Phong thái ung dung đĩnh đạc của con người đùa cợt với gian khổ, ngạo nghễ với lao lung đã đến hàng thượng thặng, một công lực tu vi thượng thừa. Và đây, tâm – hình – tiếng hòa thành khối lòng thống thiết là hiệu quả của tá đối:

Ngoại cảm Hoa thiên tân lãnh nhiệt,
Nội thương Việt địa cựu sơn hà;

(Bệnh trọng)

Tâm hoài cố quốc thiên đường lộ,
Mộng nhiễu tâm sầu, vạn lũ ti;

(Thu dạ)

Một đặc điểm của thi ca bác học được coi trọng ở trường quy là phép đối sự, các điển tích điển cố được sử dụng dễ dàng, lộ ra một tri thức mênh mông, đồng thời cũng minh định tâm thế của người làm thơ cao hạ trung gian … Người đọc cảm nhận được tấ lòng ngay thẳng trong trắng lại sắt son như nhất của người trượng phu quân tử khi ngẫm về chân quân tử:

Thụ sao xảo họa Trương Phi tượng,
Xích nhật trường minh Quan Vũ tâm;

(Tức cảnh)

Nghệ thuật thi ca cổ điển là một tổng hòa của những phép thử nghiêm cẩn đòi hỏi sự tinh tế cẩn trọng của người làm thơ. Tuy nhiên, sức sống muôn đời của thi ca vẫn cứ là một tự do tuyệt đối, sự tự do khi đã làm chủ được mình, làm chủ được phương tiện thi ca. Trong phép đối cũng cùng một nguyên lý ấy. Đỗ Phủ xứng danh thi thánh với hai câu tuyệt bút:

Lưỡng cá hoàng ly minh thúy liễu
Nhất hàng bạch lộ thướng thanh thiên

(Tuyệt cú)

Cặp đối chỉnh mà thoáng đến trong vắt. Thôi Hiệu lại tự tôn độc nhất như cánh hạc vàng độc lai độc vãng bằng cặp đối không chỉnh cũng đến sững sờ:

Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản
Bạch vân thiên tải không du du.

(Hoàng hạc lâu)

Trong trận đồ của thi ca cổ điển, bao nhiêu môn đồ bị khổn nguy, được mấy cao đồ vượt trận đồ? Nền văn học Việt Nam qua mười thế kỷ với thi nhân danh tiếng đếm trên đầu ngón tay là một cảnh báo nghiêm khắc. Và cái tên Hồ Chí Minh bằng tập Nhật ký trong tù với địa vị chắc chắn trên lộ trình tiếp nối của thơ ca cổ điển là một dấu lạ phép kì của thi ca Việt. Và nền thi ca cổ điển Việt Nam như đã yên lòng khi dừng lại ở tên tuổi cuối cùng này. Nên chăng? Hay tiếc thay?

Bút pháp chấm phá, tả cảnh ngụ tình:

Mỗi một thể loại hay trường phái văn học, đều có phương pháp sáng tác riêng. Và chính điều này sẽ mang lại nét đặc trưng của nó. Thơ Đường là một thành tựu đặc sắc của văn học Trung Quốc nói riêng và của nhân loại nói chung lại càng không thể thiếu điều đó. Nói đến nghệ thuật thơ Đường, ngoài nghệ thuật đối như đã trình bày ở trên, chúng ta không thể không nói đến bút pháp chấm phá, tả cảnh ngụ tình.

Bút pháp chấm phá là một đặc điểm thi pháp của thơ Đường. Hồ Chí Minh đã sử dụng bút pháp này trong tập thơ Nhật ký trong tù. Có điều tác giả đã sử dụng một cách hết sức linh hoạt, sáng tạo nên tránh được sự sáo mòn. Bút pháp chấm phá, tả cảnh ngụ tình đã góp phần thể hiện được bức chân dung tinh thần tự họa của con người Hồ Chí Minh và cả tái hiện lại được những bất công ngang trái của chế độ nhà tù ở Quảng Tây Trung Quốc dưới thời Tưởng Giới Thạch.
Với bút pháp này, cảnh là cái được mượn để cốt nói lên suy nghĩ tình cảm của nhân vật trữ tình.

Hay nói cách khác cảnh chỉ là cái cớ, còn tình mới là đích đến cuối cùng. Trong rất nhiều bài thơ được Hồ Chí Minh sử dụng bút pháp này, chúng tôi chọn hai tác phẩm sau:

Phiên âm:

Tân xuất ngục học đăng sơn

Vân ủng trùng sơn, sơn ủng vân,
Giang tâm như kính tịnh vô trần;
Bồi hồi độc bộ Tây Phong lĩnh,
Dao vọng Nam thiên ức cố nhân.

Dịch thơ:

Núi ấp ôm mây, mây ấp núi,
Lòng sông gương sáng, bụi không mờ;
Bồi hồi dạo bước Tây Phong lĩnh,
Trông lại trời Nam, nhớ bạn xưa.

Cũng giống như thơ Đường, Hồ Chí Minh không tả mà chỉ gợi. Hai nét trong bút pháp hội họa truyền thống phương Đông trong tranh thủy mặc đã được tác giả sử dụng rất thành thục vào trong bài thơ của mình đó là: một nét vẽ mây và núi gợi lên vẻ đẹp hùng vĩ của núi non, một nét vẽ dòng sông trong vắt chảy dưới chân núi phản chiếu ánh mặt trời như một tấm gương phẳng sáng trong. Chỉ cần có hai nét chấm phá thôi mà bao gồm cả cao sơn lưu thủy.

Nhân vật trữ tình như hòa lẫn vào bức tranh thiên nhiên hùng vĩ với núi ôm mây mây ấp núi soi bóng xuống dòng sông trong vắt phẳng lặng. Nhân vật mang cốt cách của một nhà hiền triết, nhìn cảnh vật từ trên cao, từ xa, bao quát cả càn khôn vào trong tầm mắt của mình. Cả một vùng bao la, bát ngát được phác họa rất có hồn chỉ qua hai nét chấm phá ấy. Nếu dừng lạ chỗ ấy thôi thì chưa trọn vẹn. Một bức tranh sơn thủy đẹp không thể thiếu cái hồn của cảnh vật! Bài thơ Mới ra tù tập leo núi có cả điều đó nữa.

Hồ Chí Minh rất tài tình khi thả hồn mình vào bức tranh qua những hình ảnh thơ giàu giả trị biểu cảm và hình ảnh thơ mang ý nghĩa tượng trưng. Ngay câu thơ đầu có hai hình ảnh: “núi ôm mây” và “mây ấp núi”, hình ảnh thơ gợi người đọc liên tưởng tới niềm khao khát về tình cảm bạn bè, đồng chí. Đến câu thơ thứ hai, hình ảnh “dòng sông” mang một ý nghĩa tượng trung. Dòng sông trong suốt như gương không chút bụi mờ hay chính là tâm hồn nhà thơ trải qua bao tháng ngày bị giam cầm, đày ải mà vẫn trắng trong, không vẩn bụi? Đến câu cuối nỗi nhớ bạn hay là nỗi nhớ nước luôn canh cánh bên lòng?

Nhờ bút pháp chấm phá, tả cảnh ngụ tình ấy nên bài thơ dẫu kết thúc rồi vẫn không khép lại mà mở ra một trường liên tưởng ở người đọc, Thiết nghĩ thành công ở bất kì tác phẩm nghệ thuật nào xét đến cùng đều phải đạt đến chỗ đó!

Tác phẩm thứ hai, chúng tôi chọn làm dẫn chứng ở đây là Nạn hữu xuy địch (Người bạn tù thổi sáo)

Phiên âm:

Ngục trung hốt thính tư hương khúc,
Thanh chuyển thê lương điệu chuyển sầu;
Thiên lý quan hà vô hạn cảm,
Khuê nhân cách thướng nhất tằng lâu.

Dịch thơ:

Bỗng nghe trong ngục sáo vi vu,
Khúc nhạc tình quê chuyển điệu sầu;
Muôn dặm quan hà khôn xiết nỗi,
Lên lầu ai đó đứng trông nhau.

Đối với tác phẩm này, chùng tôi muốn nhấn mạnh đến bút pháp tả cảnh ngụ tình đặc biệt tập trung ở câu cuối:

Khuê nhân cánh thướng nhất tằng lâu.

Về mặt thi liệu (Đường thi) của bài thơ chúng tôi đã đề cập ở mục 1.2.2.2. Việc câu thơ này ghép từ một câu trong bài Lên lầu quán tước để nói cái chót vót của lầu cao. Câu thơ của Vương Chi Hoán được đặt vào trong không gian nghệ thuật của bài Người bạn tù thổi sáo góp phần làm giàu thêm chất trữ tình cho tác phẩm. Câu thơ nói lên cảnh tượng của một con người đang bước chân leo thêm một tầng lầu. Một tầng lầu nữa, có nghĩa là trước đó đã lên một tầng, hoặc đã mấy tầng rồi mà vẫn chưa đủ nên bước chân leo thêm một tầng lầu nữa.

Có bao nhiêu tầng lầu là có bấy nhiêu thương nhớ. Đây không chỉ có cái cao của tầng lầu, cái mênh mông của trời đất mà có cả cái mênh mông của lòng người. Bài thơ kết thúc với bước chân dừng lại ở tầng lầu, như dừng lại ở bên bờ vực thẳm, vực thẳm của sự im lặng đến đáng sợ. Bao nhiêu người phụ nữ hóa đá cũng đều ở đầu non, dưới bờ vực thẳm và trước mặt là vời vợi không gian thương nhớ, đợi chờ. Người phụ nữ trong bài thơ chưa hóa đá nhưng đã bước lên lầu cao như dáng một tượng vọng phu.

Có lẽ ý thơ không dừng lại ở đó. Bài thơ bộc bạch dùm nỗi riêng tư của vợ chồng người bạn tù với tấm lòng thương cảm vô bờ. Nhưng âm thầm vận vào mình, bài thơ thêm cái đằm thắm sâu xa của Bác. Người thương nhà, Bác nhớ nước. Tình quê, tình vợ chồng, nỗi nước, nỗi nhà đan quyện vào nhau, xoắn xuýt lấy nhau, chồng chất lên nhau.

Bài thơ giống thơ Đường ở ngôn ngữ, ở thể loại, ở thi liệu, ở bút pháp tả cảnh ngụ tình. Đặc biệt bút pháp tả cảnh ngụ tình giúp cho bài thơ có điệu ngân vang, lan tỏa rất lớn. Điệu ngân vang bắt đầu từ khúc tư hương và sau là cái cảm giác không gian, cái thương nhớ ngóng trông dằng dặc, mênh mông. Câu cuối khép bài thơ lại mà lòng người lại mở ra vô tận, vô biên. Câu thơ hay ở chỗ lời xưa được vận dụng một cách tự nhiên nhưng ý nay cũng tự nhiên mà được hình thành. Truyền thống và hiện đại xuyên thấm vào nhau làm nên vẻ đẹp của thi phẩm.

II. Vẻ đẹp hiện đại trong Nhật kí trong tù.

Nói đến vẻ đẹp hiện đại của văn chương là nói đến một cách viết và một cách nghĩ thể hiện được những gì mới mẻ nhất, ưu việt nhất, tiên phong nhất của thời đại người nghệ sĩ đang sống. Một tác phẩm được xem là mang vẻ đẹp hiện đại khi nó phải mang trên mình hơi thở của thời đại nó ra đời.

1. Vẻ đẹp hiện đại trên phương diện nội dung:

Mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên:

Trong mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên, quan niệm mỹ học của văn chương thời trung đại lấy thiên nhiên làm trung tâm, thiên nhiên luôn luôn được đặt ở vị trí chủ thể trong quan hệ với con người. Con người là tiểu vũ trụ lọt thỏm vào giữa đại vũ trụ núi non, sông nước hùng vĩ. Hình ảnh con người chỉ có chức năng làm tôn thêm cái bát ngát, hùng vĩ của tự nhiên.

Bước tời Đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá lá chen hoa
Lom khom dưới núi, tiều vài chú,
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà.

(Qua đèo ngang – Bà Huyện Thanh Quan)

Trong thơ của Hồ Chí Minh, chặng hạn bài Mộ, con người là trung tâm của mối quan hệ ấy. Hồn thơ được cất lên từ chính hình ảnh của những con người bình dị trong cuộc sống. Không dừng lại ở đó, ẩn đằng sau hình tượng bầu trời và mặt đất của bài thơ Mộ, vẫn thấp thoáng hình ảnh một người tù-chiến sĩ vượt qua cảnh ngộ bức bối khổ đau trên con đường áp giải để nâng tâm hồn mình rung động với thiên nhiên buổi chiều.

Mộ

Phiên âm:

Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ,
Cô vân mạn mạn độ thiên không;
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,
Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng.

Dịch thơ:

Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ,
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không;
Cô em xóm núi xay ngô tối,
Xay hết, lò than đã rực hồng.

Bài thơ có hai bức tranh. Bức tranh thiên nhiên về cảnh chiều tối với hình ảnh cánh chim bay đến rã rời đang tìm về tổ ấm, với hình ảnh đám mây lẻ loi trôi chậm giữa bầu trời chiều. Bức tranh con người với công việc lao động bình dị vất vả nhưng vẫn có nét ấm cúng. Đọc đến hai câu cuối bài thơ, tưởng đâu không gian thu hẹp dần, con người sẽ bị mất hút trong màn đêm đậm đặc.

Nhưng không phải như vậy, hình ảnh cô gái xay ngô chuẩn bị cho buổi tối, những vòng cối quay mãi, quay mãi cho đến lúc dừng lại thì “lô dĩ hồng” – lò đã rực sáng. Bình về chỗ này, nhà thơ Hoàng Trung Thông có viết “Với một chữ “hồng”, Bác đã làm sáng rực lên toàn bộ bài thơ, đã làm mất đi sự mệt mỏi, sự uể oải, sự vật vã, sự nặng nề đã diễn tả trong ba câu đầu, đã làm sáng rực lên khuôn mặt của một cô em sau khi xay xong ngô tối”.

Đến đây, bức tranh về trời mây đã nhường hẳn cho bức tranh sinh hoạt gần gũi và ấm áp trên mặt đất. Hình ảnh hiện lên ở trung tâm bài thơ lúc này là hình ảnh người thiếu nữ ở sơn thôn đang lao động bên bếp lửa gia đình.

Cũng trong ngoại cảnh ấy, ngày xưa Bà Huyện Thanh Quan đã viết lên những câu thơ mang thoáng thương thân, chạnh nghĩ về mình “Dừng chân đứng lại trời non nước/ Một mảnh tình riêng ta với ta”. Hồ Chí Minh đã vượt lên trên điều đó, mà nếu như tác giả Nhật ký trong tù có nói về điều đó thì cũng là lẽ thường tình. Mà không như vậy, Bác gần như quên đi những nỗi đau khổ tột cùng của riêng mình, để trìu mến với từng cánh chim trời, từng áng mây trôi, để rung động chia sẻ với những gió sương mưa nắng của những người dân bình thường mà Bác chưa hề quen biết. Từ đó, ta mới thấy rằng trong Nhật ký trong tù nói chung và Mộ nói riêng, trong mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên, con người là chủ thể, con người là trung tâm trên cả hai bình diện nhân vật trong tác phẩm và con người ở ngoài đời.

Khi tiếp cận với những bài thơ sau: Tẩu lộ (Đi đường), Tảo giải (Giải đi sớm)… Chúng ta sẽ thấy con người là trung tâm trong mối quan hệ với thiên nhiên.

Nét nổi bật của thơ ca cổ điển cả Trung Quốc và Việt Nam là cái nhìn “vũ trụ” đối với con người và cuộc đời. Con người luôn được đặt trong các mối quan hệ nhân sinh cụ thể. Trong các mối quan hệ đó, nổi trội lên mối quan hệ hài hòa tương cảm với thiên nhiên, con người sống giữa cỏ cây, núi sông, trời đất. Vì vậy, khi khí khái thì đội trời, đạp đất, chọc trời khuấy nước; khi uất hận thì hỏi trời xanh, tạo hóa; khi thế cùng thì gửi tâm sự vào kiếp sau.

Lối tư duy này làm cho hiện thực xã hội lịch sử cụ thể bị trừu tượng đi, còn các hình ảnh thiên nhiên thì chứa đầy ý nghĩa tượng trưng thâm thúy. Trong thơ chữ Hán của Hồ Chí Minh còn giữ lại lối tư duy này. Chính điều này làm cho Hồ Chí Minh mang cốt cách của nhà hiền triết phương Đông. Bên cạnh nét kế thừa cái cũ Hồ Chí Minh còn mang đến nét mới. Trong mối quan hệ với thiên nhiên, con người không dừng lại ở sự giao cảm hài hòa với thiên nhiên mà tiến lên bước nữa, con người là chủ thể, con người có ý nghĩa gần như quyết định, cải tạo thiên nhiên. Đó chính là nét hiện đại mà thơ Hồ Chí Minh mang lại cho đời.

Tinh thần thép:

Trong những trang cuối của tập thơ Nhật ký trong tù, Hồ Chí Minh có làm bài thơ “Khán “thiên gia thi” hữu cảm” như sau:

Phiên âm:

Cổ thi thiên ái thiên nhiên mỹ,

Sơn thủy yên hoa tuyết nguyệt phong;

Hiện đại thi trung ưng hữu thiết,
Thi gia dã yếu hội xung phong.

Dịch thơ:

Cảm tưởng đọc “Thiên thi gia”

Thơ xưa thường chuộng thiên nhiên đẹp
Mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi, sông;
Nay ở trong thơ nên có thép,
Nhà thơ cũng phải biết xung phong.

Bài thơ trên thể hiện quan điểm của Bác về hai vấn đề: tình cảm thiên nhiên trong thơ và lập trường của người cầm bút trong thời đại mới. Theo Người cái mới cần phải đưa vào trong thơ thời đại là tinh thần chiến đấu, tinh thần cách mạng, là chất “thép”. Mà sau này Bác đã nói: “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận, anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”.

Chất thép ở đây chúng ta hiểu trên hai phương diện. Thứ nhất là từ phía người cầm bút phải có ý thức dùng ngoài bút để đấu tranh chính trị vì mục đích hướng tới cái tốt, cái thiện. Thứ hai là từ phía nhân vật trữ tình trong thơ đó là ý chí nghị lực dũng khí để vượt qua hoàn cảnh khắc nghiệt và khắc phục hoàn cảnh của một con người vĩ đại. Trong bài viết này, chúng tôi thiên về tìm hiểu tinh thần thép ở góc độ nhân vật trữ tình trong thơ. Chúng tôi chọn hai tác phẩm sau đây để hiểu rõ hơn về tinh thần thép trong Nhật ký trong tù.

Sơ đáo Thiên Bảo ngục

Phiên âm:

Nhật hành ngũ thập tam công lí,
Thấp tận y quan, phá tận hài;
Triệt dạ hựu vô an thụy xứ,
Xí khanh thượng tọa đãi triều lai.

Dịch thơ:

Ngày cuốc năm mươi ba cột số,
Ướt đầm mũ áo, rách bươm giày;
Thâu đêm lại chẳng nơi yên giấc,
Ngồi trấn cầu tiêu, đợi sáng ngày.

Bài thơ nói về sự việc Bác bị giải tới nhà lao Thiên Bảo. Trong ngày đó, Người phải đi bộ năm mươi ba cây số, quần áo đẫm ướt, dưới chân đôi giày bị rách nát, chỗ ngủ không có, Người chỉ còn một chỗ duy nhất có thể đặt chân lên: cái hố xí. Bài thơ có bốn câu, trong đó có ba câu rưỡi là nói đến sự việc diễn ra trong ngày. Nếu dừng lại ở đây chưa thể gọi là thơ hay được. Đến ba chữ “đợi ngày mai” (đãi liêu trai) thì mới thật là thơ. Bởi ở đó thể hiện một tâm hồn lạc quan, niềm vui sống ở ngày mai.

Con người không vì bị rơi vào hoàn cảnh bĩ cực mà bi quan chán nản. Tuy thân ở trong tù nhưng cánh mộng lại bay trong trời tự do. Niềm tin, lí tưởng vào ngày mai được đặt lên trên hiện thực đen tối, bẩn thỉu. Vẻ đẹp của nhân vật được thể hiện ở ý chí ấy, tinh thần ấy.

Bạn đọc cũng sẽ cảm nhận được vẻ đẹp tinh thần thép ấy trong những tác phẩm sau: Bán lộ tháp thuyền phó ung (Giữa đường đáp thuyền đi Ung Ninh), Tự miễn (Tự khuyên mình), Vãng Nam Ninh (Đi Nam Ninh), Văn thung mễ thanh (Nghe tiếng giã gạo)…

Không chỉ nói ý chí, nghị lực vượt lên trên hoàn cảnh mới là thép. Chất thép còn thể hiện ở bút pháp trữ tình, bản chất chiến sĩ lồng trong hình ảnh thi sĩ. Bài thơ Vọng nguyệt (Ngắm trăng) là ví dụ tiêu biểu.

Phiên âm:

Ngục trung vô tửu diệc vô hoa,
Đối thử lương tiêu nại nhược hà?
Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt,
Nguyệt tòng song khích khán thi gia.

Dịch thơ:

Trong tù không rượu cũng không hoa,
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ;
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ.

Một không gian nhà tù tràn ngập ánh trăng chỉ tiếc không có hoa và rượu cho cảm hứng được trọn vẹn. Người tù nhìn trăng qua khe cửa của nhà lao và trăng cũng như có tâm hồn “Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”. Nội dung toàn bộ tác phẩm là chừng đó. Vậy chất thép ở đâu? Không có hình ảnh mảy may nói đến người chiến sĩ, đến chất thép gì cả nếu như người đọc chỉ dừng lại ở bên ngoài câu chữ.

Đặt nhân vật trong hoàn cảnh bị xiềng xích, muỗi, rệp, ghẻ lở, đói, lạnh… mà con người vẫn thả hồn lên với trăng và hồn thơ lại bay bổng. Thép ở chỗ: ung dung tự tại, hoàn toàn đứng trên gian khổ. Gian khổ, thử thách đến mấy vẫn không vướn víu nổi hồn thơ. Thép là ở đó! Nói như Nguyễn Đăng Mạnh: “… cái phong thái ung dung tự tại của nhân vật trữ tình trước thiên nhiên kia thực ra cũng là một phương diện của chất thép, chất cách mạng trong thơ Hồ Chí Minh, theo ý nghĩa chặt chẽ, chính xác của khái niệm này”.

2. Vẻ đẹp hiện đại trên phương diện nghệ thuật.

* Về mặt ngôn ngữ:

Đặc trưng nổi bật của thơ cổ đó là sự trau chuốt về lời. Lời thơ thường là thứ ngôn ngữ kinh điển, bác học, tròn như ngọc, như châu. Tập thơ Nhật ký trong tù có rất nhiều tác phẩm thể hiện đặc điểm đó. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng không ít bài thể hiện tính chất hiện đại trong thơ chữ Hán của Người. Khi đi vào tìm hiểu tính chất hiện đại của tập thơ trên phương diện ngôn ngữ, chúng tôi thấy có những nét biểu hiện như sau:

Đầu tiên là việc tăng cường sử dụng các hư từ. Trong khi thơ cổ điển có xu hướng triệt tiêu các hư từ. Bài thơ Đáp hỏa xa vãng lai tân là một ví dụ.

Phiên âm:

Tuy nhiên chỉ đắc tọa thán thượng,
Tất cánh tỷ đồ bộ phiêu lượng.

Dịch thơ:

Dù rằng chỉ ngồi trên đống than,
Sang gấp mấy lần khi cuốc bộ.

Hoặc như bài Tứ cá nguyệt liễu (Bốn tháng rồi), nhờ sử dụng những hư từ như: nhiên vị (bởi vì), sở dĩ (cho nên), hạnh nhi (may sao), giúp cho bài thơ vốn giàu yếu tố tự sự mà vẫn chặt chẽ. Cấu trúc nội dung của bài được tổ chức theo kiểu quan hệ: nguyên nhân – kết quả – nhưng –

Thứ hai, tác giả có xu hướng đưa các lớp từ khẩu ngữ, cách nói thường ngày vào thơ một cách tự nhiên. Trong bài Đỗ (Đánh bài), Bác viết:

Phiên âm:

Dân gian đỗ bác bị quan lạp

Dịch thơ:

Đánh bạc ở ngoài bị quan bắt

Tội “bị quan lạp” nghĩa là bị quan bắt, hoàn toàn mang yếu tố khẩu ngữ, không có gì trau chuốt cả. Câu thơ như lời nói, chất văn xuôi tràn vào thơ.

Hoặc trong bài Tảo 1 (Buổi sớm 1) có câu thứ ba:

Phiên âm:

Khuyến quân thả ngật nhất cá bão,

Dịch thơ:

Khuyên anh hãy gắng ăn no bụng

Những hô ngữ, câu cảm thán dạng như giao tiếp hằng ngày cũng được đưa vào thơ làm cho lời thơ đầy ắp giọng điệu cảm xúc khác nhau Dạ bán văn khốc phu (Nửa đêm nghe tiếng khóc chồng) là một ví dụ minh họa cho điều này.

Phiên âm:

Ô hô phu quân, hề phu quân!
Hà cớ phu quân cự khí trần?

Dịch thơ:

Hỡi ơi! Chàng hỡi, hỡi chàng ơi!
Cơ sự vì sao vội lánh đời?

Thứ ba, thành ngữ tiếng Việt cũng được sử dụng nhuần nhuyễn trong thơ chữ Hán của Người.

Điền đông

Phiên âm:

Mỗi xan nhất uyển công gia chúc,
Đỗ tử thì thì tại thán hu;
Bạch phạn tam nguyên bất câu bão,
Tân như quế dã mễ như châu.

Dịch thơ:

Cháo tù mỗi bữa chia lưng bát,
Cái bụng luôn luôn rên rỉ sầu;
Cơm nhạt ba đồng ăn chẳng đủ,
Củi thì như quế, gạo như châu.

Hoặc như bài: Quách tiên sinh

Phiên âm:

“Bình thủy tương phùng”, đàm phiến khắc,
Quách quân đối ngã thậm ân cần;
“Tuyết trung tống thán”tuy nhiên thiểu,
Thế giới nhưng tồn giá chủng nhân.

Dịch thơ:

“Gặp nhau bèo nước”, chuyện gần xa,
Ông Quách ân cần đối đãi ta;
“Rét đến cho than”, không mấy kẻ,
Đời này người thế vẫn còn mà.

Thứ tư, tiếng lóng cũng được đưa vào thơ. Ví dụ như bài Lai Tân có câu: “Huyện trưởng thiêu đăng biện công sự” dịch thơ là “Chong đèn, huyện trưởng làm công việc”. Theo một người bạn Trung Quốc nói với Đặng Thai Mai là “thiêu đăng” theo tiếng lóng của Trung Quốc chỉ việc hút thuốc phiện. Trong bài Nạn hữu Mạc mỡ (Bạn tù họ Mạc) có câu “xa đại pháo tài chân vĩ đại” trong đó “xa đại pháo tài” tiếng lóng có nghĩa là tài nói phét, khoác lác, chém gió.

Thứ năm, là dùng cách viết phiên âm bằng chữ la tinh. Câu đầu trong bài thơ Tân Dương ngục trung hải (Cháu bé trong nhà lao Tân Dương): Oa…! Oa…! Oaa…!

Tập thơ có hai bài thơ có nhan đề chỉ là dấu hỏi (?) hoặc dấu chấm than (!). Đó là hai bài được xếp ở vị trí số 107 và 108.

Tóm lại, việc đưa các yếu tố ngôn ngữ đời thường như hư từ, khẩu ngữ, thành ngữ, tiếng lóng… vào trong những bài thơ Đường luật trong tập Nhật ký trong tù có ý nghĩa nhất định của nó. Thứ nhất phù hợp với thể nhật kí của tập thơ, phù hợp với việc thể hiện một cách sinh động những tình huống, sự kiện, hình ảnh, sự việc… diễn ra trong nhà tù. Thứ hai nữa, nó giúp cho bài thơ phát triển năng lực giao tiếp. Đấy chính là điểm khác biệt với ngôn ngữ thơ cổ điển. Đấy cũng là biểu hiện tinh thần Việt hóa thơ Đường theo phong cách của Hồ Chí Minh.

* Sự vận động của hình tượng thơ:

Một đặc điểm nổi bật trong phong cách nghệ thuật thơ Hồ Chí Minh là hình tượng thơ luôn luôn vận động hướng về sự sống, ánh sáng, tương lai. Khi khảo sát Nhật ký trong tù (những bài được viết theo thể tuyệt cú), chúng ta sẽ thấy ở câu cuối, ở phần cuối của bài tác giả thường tô đậm hình ảnh con người hoạt động, hướng về sự sống tươi vui, hướng về bình minh rực rỡ. Bài thơ Tảo giải (Giải đi sớm) là tiêu biểu nhất:

Phiên âm:

I

Nhất khứ kê đề dạ vị lan,
Quần tinh ủng nguyệt thướng thu san;
Chinh nhân dĩ tại chinh đồ thượng,
Nghênh diện thu phong trận trận hàn.

II

Đông phương bạch sắc dĩ thành hồng,
U ám tàn dư tảo nhất không;
Noãn khí bao la toàn vũ trụ,
Hành nhân thi hứng hốt gia nồng.

Dịch thơ:

I

Gà gáy một lần đêm chửa tan,
Chòm sao nâng nguyệt vượt lên ngàn;
Người đi cất bước trên đường thẳm,
Rát mặt, đêm thu, trận gió hàn.

II

Phương đông màu trắng chuyển sang hồng,
Bóng tối đêm tàn quét sạch không;
Hơi ấm bao la trùm vũ trụ,
Người đi, thi hứng bỗng thêm nồng.

Giải đi sớm gồm hai bài thơ thất ngôn tứ tuyệt. Bài thứ nhất tả thực cảnh Hồ Chí Minh bị giải đi lúc nửa đêm. Bài thứ hai tả thực cảnh Hồ Chí Minh bị giải đi đến rạng sáng hôm sau. Giữa bài thứ nhất và bài thứ hai vừa có tính chất tương đối độc lập vừa có tính chất chuyển tiếp bổ sung cho nhau. Độc lập ở chỗ nếu tách hai bài ra thì mỗi bài là một bài thơ tứ tuyệt hoàn chỉnh. Còn chuyển tiếp bổ sung cho nhau ở chỗ từ hình ảnh, tư tưởng, cảm xúc, hình tượng thơ có sự vận động liên tục.

Xét về thời gian, hành trình bị giải đi của Bác chuyển từ ngày cũ sang ngày mới, từ đêm sang ngày, từ bóng tối đến ánh sáng, từ đêm tối rét buốt đến bình minh rực ấm, từ hôm nay đến ngày mai. Ở đây tiếng gà gáy vừa có ý nghĩa chỉ thời gian vừa có ý nghĩa báo hiệu đêm đã qua ngày tới, bình minh cũng sắp đến sẽ xua tan đi sự vắng lặng của đêm tàn.

Không gian cũng nằm trong sự vận động chuyển dịch không ngừng. Từ không gian mặt đất rộn tiếng gà đến không gian bầu trời đầy trăng sao. Sang bài thứ hai là không gian rực sáng của ánh dương.

Hai bài thơ tạo nên hai không gian tương phản nhau về màu sắc và ánh sáng. Nền không gian trong bài thơ thứ nhất là màn đêm, nền không gian trong bài thứ hai là ánh sáng, là màu hồng rực rỡ. Sự tương phản giữa bóng tối và ánh sáng, giữa lạnh lẽo và ấm áp không những mang lại tính thẫm mỹ cho không gian nghệ thuật thơ mà còn có ý nghĩa gợi lên bước chuyển đổi từ cuộc đời tăm tối trong ngục tù tới cuộc sống tự do, từ đau khổ đến hạnh phúc.

Không gian và thời gian vận động biến đổi. Hình ảnh thơ cũng vận động biến đổi. Nhân vật trữ tình cũng vận động đổi thay. Tuy Giải đi sớm viết về một cuộc giải tù nhưng đọc hết bài bạn đọc vẫn không hề thấy hình ảnh tù nhân bị giải đi mà chỉ thấy hình ảnh một người chiến sĩ cách mạng bình tĩnh, tự tin vượt qua gian khổ để tiếp cận một bình minh tươi sáng của lịch sử.

Ở bài một, hình tượng nhân vật trữ tình xuất hiện trực tiếp bắt đầu từ câu thứ ba “Chinh nhân dĩ tại chinh đồ thượng”. Con người xuất hiện với tư cách, với tư thế của một chinh nhân (người đi chinh chiến). Dù trước mặt là con đường gập ghềnh xa thẳm thì con người vẫn hiên ngang bước tới với tư thế bình tỉnh, chủ động, tự tin của một người chiến sĩ sẵn sàng đón nhận mọi hoàn cảnh khắc nghiệt chứ không chấp nhận cảnh tù đày nô lệ.

Sang bài thứ hai, hình tượng nhân vật trữ tình xuất hiện vơi tư cách là hành nhân “hành nhân thi hứng hốt gia nồng” mà cao hơn nữa là một thi nhân. Từ “Chinh nhân” chuyển thành “thi nhân”. Người đi trong tâm trạng lạc quan, lòng dạt dào cảm hứng thi ca. Đó là cái tôi trữ tình thi sĩ được biểu hiện rõ ràng mà kín đáo. Nhưng thực ra không phải đợi “Phương đông màu trắng chuyển sang hồng” thì cảm hứng thi ca mới đến mà thực ra cảm hứng đã đến từ lúc “Chòm sao nâng nguyệt vượt lên ngàn”. Chỉ có một tâm hồn thơ mới cảnh nhận được sự vận động nên thơ của đất trời trong hoàn cảnh nghặt nghèo như thế!

Có rất nhiều bài thơ trong Nhật ký trong tù, bạn đọc sẽ thấy tư tưởng, cảm xúc và cả hình tượng thơ luôn luôn có sự vận động. Trong những tác phẩm này thường có kết cấu: những câu trên thường miêu tả hiện thực trực quan, câu cuối nâng cánh cảm xúc hướng về tương lai, lí tưởng, sự sống.

Khi khảo sát Nhật ký trong tù trên phương diện này, chúng tôi thấy ngoài bài thơ Giải đi sớm là tiêu biểu như đã chọn phân tích trên, còn nhiều bài khác nữa, chẳng hạn như Chiều tối, Giữa đường đáp thuyền đi Ung Ninh, Buổi Sớm II,…:

Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng.

(Chiều tối)

Đáp thuyền thẳng xuống huyện Ung Ninh,
Lủng lẳng chân treo tựa giảo hình;
Làng xóm ven sông đông đúc thế,
Thuyền câu rẽ sóng nhẹ thênh thênh.

(Giữa đường đáp thuyền đi Ung Ninh)

Tám giờ chuông điểm, bữa ban mai,
Khuyên anh hãy cố gắng ăn no bụng,
Bĩ cực rồi ra ắt thái lai.

(Buổi Sớm II)

Nhà ngục Tĩnh Tây mờ mịt tối
Bỗng thành nhạc quán viện hàn lâm

(Chiều hôm)

Ví không có cảnh đông tàn,
Thì đâu có cảnh huy hoàng ngày xuân
Nghĩ mình trong bước gian truân,
Tai ương rèn luyện tinh thần thêm hăng.

(Tự khuyên mình)

Đêm thu không đệm cũng không chăn,
Gối quắp, lưng còng, ngủ chẳng an;
Khóm chuối trăng soi càng thấy lạnh,
Nhòm sang, Bắc Đẩu đã nằm ngang.

(Đêm thu)

Người biêt lo âu, ưu điểm lớn
Nhà lao mở cửa, ắt rồng bay!

(Chiết tự)

Đầu non sớm sớm vầng dương mọc
Khắp núi nơi nơi rực ánh hồng.

(Cảnh buổi sớm)

Mỗi bài, dừng bút nghỉ ngơi
Qua khoảng cửa ngục, ngóng trời tự do.

(Đêm không ngủ)

Từ những ví dụ đã nêu ở trên đủ để ta khẳng định trong Nhật kí trong tù, tư tưởng, cảm xúc và hình tượng thơ đều có sự vận động hướng về sự sống, ánh sáng, tương lai. Đây là kết quả của một tâm hồn lạc quan luôn hướng về phía trước. Nhưng cái gốc chính vẫn là ở Bác có ý niệm biện chứng về thời gian, cuộc sống và thời đại (chữ dùng của giáo sư Đặng Thanh Lê).

Thơ ca cổ điển quan niệm thời gian là vòng tuần hoàn. Trong khi ý niệm về thời gian trong Nhật kí trong tù thể hiện nhãn quan của một con người đã lĩnh hội được những quan niệm hiện đại trong đó thời gian đồng nghĩa với sự phát triển. Chính ý niệm đó nên tư tưởng nhấn mạnh sự đổi thay sẽ tốt là điều chắc chắn. Ngày xưa Đặng Dung đã từ bất chí mà cất lên: “Quốc thù vị báo đầu tiên bạch, Vận khứ anh hùng ẩm hận đa”. Hồ Chí Minh cũng có: “Phát bạch liễu hứu đa” nhưng không giống tiền nhân:

Gian khó không lùi, vẫn tiến lên,
Thù nhà nợ nước, nghĩa đương nhiên
Quyết tâm gắng sức và kiên nghị
Nhất định thành công sẽ có phần.

(Đọc lời giáo huấn của ông Tưởng)

III. Mối quan hệ giữa tính chất cổ điển và tính chất hiện đại trong tập thơ Nhật kí trong tù

Trong lĩnh vực nghệ thuật nói chung và văn chương nói riêng khi nói đến tính chất cổ điển và hiện đại tức là nói đến sự kế thừa và sáng tạo trong quá trình sáng tác. Kế thừa là một hiện tượng phổ biến trong đời sống. Trong sự phát triển của bất kì sự vật hiện tượng nào cái ra đời sau bao giờ cũng dựa trên cơ sở cái trước đó. Trong bản thân của cái mới có hiện hữu hình bóng của cái cũ. Khi yếu tố truyền thống được giữ gìn một cách có ý thức bên cạnh đó cái hạn chế cũng được loại bỏ một cách có ý thức thì sẽ thúc đấy sự phát triển. Đồng thời sáng tạo là nói đến sự đổi mới, cải biến cái cũ đồng thời đòi hỏi những phát hiện, những phát minh mới mẻ chưa từng có trước đó.

Nhật ký trong tù là một tập nhật kí bằng thơ được viết ở trong tù khá phóng khoáng, gặp gì ghi nấy, xúc cảm thế nào thì ghi như thế. Trong đó có đủ từ những chuyện nhỏ nhặt, tầm thường của sinh hoạt trong nhà tù, những chuyện không thơ chút nào như chuyện chia nước, gãi ghẻ, bị trói còng tay, bị áp giải đi sớm, phải ngồi hố xí, chuyện lính ngục đánh cắp mất chiếc gậy, chuyện nghe một người bạn tù thổi sáo…

Từ đây mới thấy, trong Nhật kí trong tù, Hồ Chí Minh đã làm được một việc khó làm là đưa các đề tài tầm thường, cá biệt sáp nhập vào các đề tài cao quý muôn thuở một cách hết sức tự nhiên. Từ chuyện nhìn trăng qua khe cửa nhà lao đồng nhất vào đề tài vọng nguyệt của thơ cổ điển. Từ chuyện người bạn tù thổi sáo, tác giả gợi người đọc nhớ tới tứ thơ “cách thướng nhất tằng lâu”. Từ hình ảnh bị giải đi trong cảnh chiều tà ít nhiều gợi liên tưởng tới dáng dấp người lữ thứ trong thơ cổ.

Trong nhiều bài thơ việc khơi dậy kí ức về cổ thi (Đường thi) nơi người đọc được tiến hành song song với yếu tố kể chuyện. Với cách làm này, tác giả đã khống chế được sự bành trướng của chất văn xuôi vào tác phẩm mặt khác làm tăng thêm tính gợi cảm, khả năng tích chứa ý nghĩa của của các chi tiết, hình ảnh thơ. Lúc này chất cổ điển đã trở thành điều kiện cần giúp cho những trang nhật kí hằng ngày trở thành thơ theo đúng nghĩa của nó. Việc sử dụng nhiều yếu tố cổ điển nhất là thi liệu và bút pháp chấm phá, tả cảnh ngụ tình giúp cho tập thơ bàng bạc không khí trầm mặc, cổ kính của thơ ca cổ điển và mang lại hiệu quả rất cao mà bất kì tác phẩm văn học nào cũng đều hướng đến đó là “ý tại ngôn ngoại”.

Yếu tố cổ điển và yếu tố hiện đại trong Nhật kí trong tù có mối quan hệ hữu cơ với nhau, không tách rời nhau được mà luôn hỗ trợ cho nhau. Thực ra tinh thần gang thép cách mạng theo kiểu hiện đại ở Hồ Chí Minh là một bước tiến mới dưạ trên nền tảng của phong thái ung dung tự tại của những bậc hiền triết trong thơ cổ điển. Tương tự như vậy, sự xuất hiện của con người trong tư thế làm chủ thiên nhiên là bước phát triển của quan niệm “thiên nhân tương cảm” của các bậc tiền bối.

Nếu như yếu tố cổ điển giúp cho Nhật kí trong tù từ một tập nhật kí trở thành thơ theo đúng nghĩa của thơ thì yếu tố hiện đại mang lại cho tập thơ tư tưởng của thời đại. Nếu yếu tố cổ điển là điều kiện cần thì yếu tố hiện đại là điều kiện đủ để đánh giá sự thành công của một tác phẩm văn học, đó là sự tìm tòi sáng tạo để mang lại một quan niệm mới được diễn đạt dưới một hình thức cũ.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang