»» Nội dung bài viết:
Ngôn ngữ trong thơ ca.
1. Đặc điểm chung của văn học là tính chính xác, tính hàm súc và tính hình tượng.
Ngôn ngữ là chất liệu, là phương tiện để biểu hiện mang tính đặc trưng của văn chương. M. Gorki từng viết: “Yếu tố đầu tiên của văn học là ngôn ngữ – công cụ chủ yếu của nó – và cùng với các sự kiện, các hiện tượng của cuộc sống – là chất liệu của văn học”.
Tuy nhiên, ở mỗi thể loại, những đặc điểm ấy lại biểu hiện dưới những sắc thái và mức độ khác nhau. Đồng thời, mỗi tác phẩm cũng có những vẻ đẹp riêng về ngôn ngữ.
Ngôn ngữ thơ ca không phải là vẻ đẹp của đồ trang sức hay trò choi phù phiếm mà là vẻ đẹp tỏa ra từ tâm hồn và ánh lên từ cuộc sống thông qua sự mài giũa và tinh luyện của nhà thơ. Ngôn ngữ thơ ca có thể xem là tiêu biểu cho ngôn ngữ văn học bởi các đặc điểm như tính chính xác, tính hàm súc, tính hình tượng được thể hiện một cách tập trung vói yêu cầu cao nhất trong ngôn ngữ thơ ca.
Xuất phát từ một yêu cầu rất quan trọng đối vói văn học là phải phản ánh hiện thực một cách chân thực, vẻ đẹp ngôn ngữ tho’ ca cũng được hình thành từ sự trong sáng và chính xác. Đó chính là khả năng biểu hiện đúng điều thi nhân muốn nói, miêu tả đúng cái mà tác giả cần tái hiện.
Đọc tác phẩm ‘Tây Tiến” tuy không xuất hiện từ “chết” nhưng ta vẫn gặp rất nhiều khái niệm chỉ cái chết:
“Gục lên súng mũ bỏ quên đời”
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ”
“Áo bào thay chiếu anh về đất”
“Tây Tiến người đi không hẹn ước”
Có lẽ ta ít bát gặp trong thơ ca kháng chiến chống Pháp (1946 – 1954) những thi phẩm nói về cái chết. Có một thời người ta phê phán Quang Dũng “bi lụy, sầu não” mà ít ai để ý đến những giá trị đích thực của bài thơ.
Những khái niệm về cái chết mà thi nhân sử dụng cho ta cảm nhận được những gì tác giả muốn miêu tả về hiện thực. Hơn nữa, mỗi lần sử dụng khái niệm này, tác giả đều cho ta thấy sự điêu luyện trong việc dùng ngôn ngữ. Hình ảnh người lính “gục bên súng mũ bỏ quên đời” nhưng tựa như vẫn đang làm nhiệm vụ canh gác giữa đất trời. Với những chàng trai ấy “sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc”. Bởi vậy, cái chết đối với họ là sự trở về nơi bắt đầu để chuẩn bị cho một con đường mới. Cụm từ “anh về đất” nhẹ nhàng, thiêng liêng, trân trọng.
Đọc tác phẩm “Sóng” của Xuân Quỳnh, ta bắt gặp một thứ ngôn ngữ dạt dào của một trái tim rạo rực, cháy bỏng với những khát khao trong tình yêu:
“Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”
Còn gì có thể mãnh liệt hơn thế. Sóng nhớ bờ trong chiều rộng không gian: “lòng sâu, mặt nước”; trong chiều dài thời gian: “ngày – đêm”. Em cũng thế. Nhưng sóng nhớ bờ vẫn còn có giới hạn “lòng sâu – mặt nước”, “ngày – đêm” , còn em nhớ anh xuyên qua không gian, thời gian thực tại để đến với cõi tâm thức “trong mơ”. Ngôn ngữ thơ ca đã giúp trái tim Xuân Quỳnh biểu hiện đến độ sâu nhất của nỗi nhớ. Đó chẳng phải là sự kì diệu của ngôn ngữ thơ ?
Xuân Diệu trong “Vội vàng” đã cởi bỏ cải áo xưa chật chội để đến với lối thơ tự do, ngôn ngữ, hình ảnh mới mẻ, tươi nguyên một sức sống, một sự cháy bỏng:
“Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa gió và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng…
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi
Hỡi xuân hồng ta muốn cẳn vào ngươi!”
Xuân Diệu là nhà thơ của một “niềm khát khao giao cảm với đời – cuộc đời hiểu theo nghĩa trần thế nhất” (Nguyễn Đăng Mạnh). Và niềm khát khao ấy đã theo con chữ mà đến với bạn đọc muôn đời. Những ngôn ngữ Xuân Diệu viết ra đã có sức biểu hiện lớn lao các khát khao cháy bỏng của Xuân Diệu. Những động từ “ôm, riết, say, thâu, can,…” đã nói hộ những tình cảm dâng tràn trong trái tim thi sĩ.
2. Trong ngôn ngữ thơ ca, việc dùng từ trong sáng, chính xác cũng là sự sáng tạo, sự phát hiện độc đáo của tác giả.
Trong tác phẩm “Tây Tiến”, Quang Dũng đã sử dụng nhiều từ ngữ chính xác, đem lại hiệu quả nghệ thuật cao. Miêu tả thời gian, Quang Dũng không sử dụng khái niệm mùa quen thuộc, ông đã sáng tạo hình ảnh “mùa em”. Xuân, hạ, thu, đông là mùa của cả đất trời, của tất cả mọi người. Nhưng “mùa em” thì chỉ có của riêng Quang Dũng mà thôi. “Mùa em” là mùa ta gặp em, mùa gắn với hương nếp Mai Châu hay nghĩa tình người Tây Bắc.
Không viết “hoa nở” mà viết “hoa về”. “Hoa nở” thì tỉnh quá, thường quá. “ Hoa về” còn ẩn chứa niềm vui hân hoan của hoa, của lòng người.
Sử dụng từ thích hợp tạo nên vẻ đẹp ngôn ngữ trong thơ ca. Mai-a-cop-xki đã từng viết: “Phải phí tổn ngàn cân quặng chữ mới thu về một chữ mà thôi. Những chữ ấy làm cho rung động Triệu trái tim trong hàng triệu năm dài”
3. Sử dụng từ thích hợp với đối tượng được miêu tả hoặc tạo ra ngữ cảnh thích hợp để từ ngữ lộ đúng nghĩa của nó là bản chất của tính chính xác.
Trong bài “Tây Tiến”, Quang Dũng cũng từng viết:
“Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời”
Hai từ “khúc khuỷu”, “thăm thẳm” đặt gần nhau trong một câu thơ là điều khó gặp. Người đọc cảm giác dốc lên cao, cao mãi như dựng đứng giữa đất trời rồi đột nhiên chạm vào mây xanh. Dường như đất và trời gặp nhau nhờ dấu chân người lính.
Không chỉ chính xác, vẻ đẹp ngôn ngữ thơ ca còn toát lên từ sự cô đọng, hàm súc (ý tại ngôn ngoại). Nhà văn Hê-ming-uê đã từng đưa ra nguyên lý “Tảng băng trôi”. Tác phẩm văn chương phải là “một tảng băng trôi” bảy phần chìm, một phần nổi. Người nghệ sĩ không phải là cái loa phát thanh cho ý tưởng của mình mà nói lên bằng ngôn từ có nhiều sức gợi. Lời chật mà ý rộng, lời đã hết mà ý khôn cùng. Đây là cách dùng từ sao cho “ đắt” nhất, phù hợp nhất.
Khi xưa Nguyễn Du đã khắc họa thành công biết bao nhân vật chính nhờ tính hàm súc của ngôn ngữ thơ ca. Chỉ bằng một từ, mỗi nhân vật chỉ cần một từ thôi, Nguyễn Du đã cho ta thấy được bản chất nhân vật. Viết về Mã Giám Sinh, Nguyễn Du chỉ bằng một từ đã cho người đọc thấy được sự vô học của một kẻ đội lốt thư sinh: “Ghế trên ngôi tót sô sàng”. Chữ “ tót” đắt giá ấy đã làm đậm nét bản chất của Mã Giám Sinh. Thế là bao công sức trau chuốt về hình thức của Mã Giám Sinh đã đổ sông đổ bể.
Họa sĩ Van Gốc đã để lại cho nhân loại yêu nghệ thuật bức họa “Hoa hướng dương”. Chất liệu hội họa và tài năng nghệ thuật đã giúp ông làm điều đó. Nhưng hội họa không thể vẽ được hình ảnh “hoa đong đưa” như trong tho Quang Dũng: “Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”. Bông hoa ở đây không phải là bông hoa vô tri giữa dòng nước đang chuyển dộng. Ta bắt gặp ở câu thơ Quang Dũng một linh hồn hoa bé bỏng như đang làm duyên trên sông nước.
Ngắm “mùa thu vàng” của Lê Vitan, ai cũng trầm trồ khen ngợi, nhưng có ai nghe thấy tiếng lá văng khô khi đọc đến cau thơ:
“Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô”
(Tiếng thu – Lưu Trọng Lư)
4. Tính đa nghĩa của từ cũng tạo nên vẻ đẹp cho ngôn ngữ thơ ca.
Phải chăng một tác phẩm văn chương vượt qua sự băng hoại của thời gian là tác phẩm luôn làm nảy sinh nhiều cách hiểu. Tiếng khóc của Nguyễn Du trong “Độc Tiểu Thanh kí” đâu phải chỉ là tiếng khóc cho nàng Tiểu Thanh tài hoa nhưng bạc mệnh? Đằng sau tiếng khóc ấy là tiếng khóc cho mình, cho những người “cùng hội cùng thuyền” như Tiểu Thanh của Nguyễn Du. Tiếng khóc tự thương mình ấy khiến Nguyễn Du vượt qua thời gian trở thành nhà nhân đạo chủ nghĩa trong văn học trung đại.
Tiếng đàn trong “Đàn ghi ta của Lorca” cũng không chỉ là âm thanh cất lên từ cây đàn. Dưới ngòi bút tài hoa của Thanh Thảo, tiếng đàn còn là linh hồn, là thân phận, là khát vọng của thiên tài Lorca – ngưòi nghệ sĩ, người chiến sĩ của đất nước Tây Ban Nha.
“tiếng ghi ta nâu
bầu trời cô gái ấy
tiếng ghi ta lá xanh biết mấy –
tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan
tiếng ghi ta ròng ròng máu chảy”
5. Ngôn ngữ thơ ca là ngôn ngữ có nhịp điệu, không có nhịp điệu thì không thành thơ.
Người ta thường nói thơ là tình cảm, là tiếng nói của trái tim. Do đó, ngôn ngữ thơ ca có tác dụng gợi cảm đặc biệt. Ngôn ngữ thơ ca là ngôn ngữ có nhịp điệu, không có nhịp điệu thì không thành thơ. Ta dễ hiểu vì sao rất nhiều bài thơ đã được phổ nhạc.
Nhịp điệu của bài thơ “Sóng” là nhịp điệu của con sóng ngoài đại dương, cũng là nhịp điệu sóng lòng của người phụ nữ khi yêu”
“Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ”
Nhịp điệu của “Tây Tiến” là nhịp điệu của một khúc nhạc quân hành một thời binh lửa:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Nhịp điệu trong “Việt Bắc” là nhịp điệu của tiếng lòng sâu nặng, gắn bó của kẻ ở – người đi, của tình quân – dân thám thiết:
“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn”.
Nhịp điệu trong bài thơ Tiếng hát con tàu của Chế Lsan viên là tiếng lòng hăm hở đến với mọi miền của tổ quốc:
“Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ
Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa
Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa
Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa”
Ngôn ngữ thơ ca không đối lập vói ngôn ngữ toàn dân. Nó tiếp thu tinh hoa của ngôn ngừ thường nhật không ngừng nâng cao, làm giàu thêm ngôn ngữ toàn dân.
Vẻ đẹp ngôn ngữ thơ ca tựa như Cô bé Lọ Lem trong truyện cổ tích. Lúc đi dự hội thì như một nàng tiên đầy duyên dáng nhưng thường ngày lại tất bật với những giặt giũ áo quần, người vương mùi hành, mùi khoai mới gọt. Ngôn ngữ thơ ca không đối lập với ngôn ngữ toàn dân. Nó tiếp thu tinh hoa của ngôn ngừ thường nhật không ngừng nâng cao, làm giàu thêm ngôn ngữ toàn dân.
Chính vì vậy, nhà thơ không ngừng sáng tạo như người thợ tài năng gọt giũa, nhào luyện để tạo nên giá trị về nghệ thuật ngôn từ.
Tạo hóa tạo cho con người ngôn ngữ để sáng tạo thơ ca. Từ những lời hát trong bài ca lao động của người nguyên thủy, những lời cầu nguyện, mong ước điều tốt lành cho mùa màng đến lời niệm chú, có thể coi như hình thức đầu tiên của thơ. Trải qua thời gian, vẻ đẹp ngôn ngữ thơ ca ngày càng phát triển và hoàn thiện tựa như những nguồn nước mát trong nảy sinh từ cội nguồn sáng tạo sâu thẳm vô tận của con người.