Cảm nhận tấm lòng nhân đạo cao cả của nhà văn qua qua truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”
- Mở bài:
Văn xuôi giai đoạn kháng chiến chống Pháp (1945 – 1954) thực sự là một quá trình thí nghiệm, kiếm tìm sự phù hợp giữa nghệ thuật và cuộc sống. Thời gian ngắn, số lượng tác phẩm còn lại được đến hôm nay không nhiều, nhất là ở hai thể loại tiểu thuyết và truyện ngắn. Chúng ta đặc biệt trân trọng những tác phẩm tinh túy của chặng đường văn học đặc biệt này, trong đó có truyện ngắn xuất sắc Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài.
- Thân bài:
Vợ chồng A Phủ vừa là thành tựu tương đối hiếm hoi của văn xuôi kháng chiến, vừa ghi dấu sự trưởng thành của ngòi bút Tô Hoài trong sự chiếm lĩnh mảng đề tài miền núi, một đề tài tới nay vẫn còn nhiều mới lạ với bạn đọc. Truyện được tổ chức chặt chẽ, dẫn dắt rất dung dị, tự nhiên, không cần chạy theo những chi tiết li kì rùng rợn mà vẫn có sức hút mạnh mẽ. Có được điều đó chính là nhờ cái nhìn hiện thực sắc bén và chủ nghĩa nhân đạo tích cực của nhà văn. Sự thể hiện cuộc đời hai nhân vật trung tâm từ bóng tối đau khổ, ô nhục vươn ra ánh sáng của tự do và nhân phẩm đã chứng minh rất rõ điều đó.
Trước hết, tác phẩm là sự cảm thông sâu sắc của nhà văn với số phận của nhân vật Mị và A Phủ và phê phán gay gắt các thế lực tàn bạo.
Mị vốn là một cô gái trẻ trung, xinh đẹp, chăm làm nhưng nghèo khổ, có thể nói “Khổ từ trong trứng”. Bố mẹ nghèo , cưới nhau không có tiền phải vay nợ nhà thống lí. Nợ chưa trả hết, người mẹ đã qua đời. Bố già yếu quá, món nợ truyền sang Mị, Thống lí Pá Tra muốn Mị làm con dâu “gạt nợ”. Mà quan trên đã muốn, kẻ dưới làm sao thoát được! Pá Tra xảo quyệt, lợi dụng tục lệ của người Mèo, cho cướp Mị về. Thế là không có cưới hỏi, không cần tình yêu mà vẫn hoàn toàn hợp lẽ. Có ai dám bênh vực Mị! Ngòi bút hiện thực tỉnh táo của Tô Hoài đã phanh trần bản chất bóc lột giai cấp ẩn sau những phong tục tập quán.
Mị mang tiếng là con dâu nhưng thực sự là một nô lệ, thứ nô lệ người ta không phải là mua mà lại được tha hồ bóc lột, hành hạ. Mị ở nhà chồng như ở giữa địa ngục. Không có tình thương, không sự chia sẻ vợ chồng; chỉ có những ông chủ độc ác, thô bạo và những nô lệ âm thầm, tăm tối. Dần dần rồi Mị cũng quên luôn mình là con người nữa. Suốt ngày “Mị lầm lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”, lúc nào cũng cúi mặt, thế giới của Mị thu hẹp trong một cái ô cửa sổ” mờ mờ trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”.
Kết quả của hoàn cảnh sống thật chua xót: “Ở lâu trong cái khổ Mị quen rồi”, cô nhẫn nhục, cam chịu đến thành tê liệt ý thức: “Là con trâu, con ngựa phải đổi từ cái tàu ngựa nhà này sang tàu ngựa nhà khác, con ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, biết làm mà thôi”.
Ai có thể ngờ cô gái trẻ trung, yêu đời ngày nào thổi sáo hồi hộp chờ đợi người yêu, đã từng hái lá ngón định ăn để khỏi chịu nhục, giờ đây lại chai lì, u mê đến thế. Quả thật hoàn cảnh quyết định tính cách. Nguyên tắc biện chứng của chủ nghĩa hiện thực đã được nhà văn tuân thủ nghiêm ngặt. Sự yếu đuối của kẻ nô lệ, sự vùi dập tàn bạo của bọn bốc lột tất sẽ dẫn đến cảnh ngộ bi đát ấy. Nỗi khổ nhục của cô gái Mèo này thật đã có thể so sánh với nỗi nhục của Chí Phèo khi “Đánh mất cả nhân tính lẫn nhân hình”.(Thật ra, Chí Phèo còn có lúc nghênh ngang, còn dọa nạt được người khác). ).
Nếu xem xét giá trị hiện thực của một tác phẩm như là sự phản ánh chân thật cuộc sống, thì Vợ chồng A Phủ quả là bản cáo trạng hùng hồn về nỗi thống khổ của người phụ nữ miền núi, vừa chịu gánh nặng của chế độ phong kiến, vừa bị trói chặt trong xiềng xích của thần quyền. Tâm lý nơm nớp sợ “Con ma nhà Thống Lý” đã nhận mặt mình từ buổi bị bắt về”Cúng trình ma” là một ám ảnh ghê gớm đè nặng suốt cuộc đời Mị (ngay cả đến khi cô đã trốn thoát khỏi Hồng Ngài). Xem thế đủ thấy bọn thống trị cao tay đến nhường nào trong nghệ thuật “ ngu dân” để dễ trị.
Có thể nói, nhà văn đã không hà tiện cung cấp cho người đọc những chi tiết có giá trị bóc trần bản chất xã hội vô nhân đạo, ở đó thân phận người dân nghèo mới mong manh bất ổn làm sao! Ta sững sờ trước cảnh cô Mị lặng lẽ ngồi lơ lững trong những đêm đông buốt giá, thằng chồng thì đi chơi về khuya ngứa tay đánh Mị ngã dúi xuống đất. Lại còn có cái hình ảnh nhức nhối phũ phàng: người con gái bị trói đứng vào cột trong buồng tối, bị trói chỉ vì muốn đi chơi tết như bạn bè. Sự bất lực của Mị tràn theo dòng nước mắt chua chát trên má môi mà không có cách gì lau đi được.
Cuộc đời nô lệ của A Phủ thật ra là sự lặp lại với ít nhiều biến thái chính cuộc đời Mị. Lý do mà Thống Lí Pá Tra buộc A Phủ phải thành người ở công không, không phải vì cuộc ấu đả thường tình của đám trai làng. Vấn đề là ở chỗ pháp luật trong tay ai? Khi kẻ phát đơn kiện cũng đồng thời là kẻ ngồi ghế quan toà thì còn nói gì tới công lý nữa! Vậy nên mới có cảnh xử kiện quái gỡ nhất trên đời mà chúng ta được chứng kiến tại nhà Thống Lí. Kết quả là người con trai khỏe mạnh phóng khoáng vì lẽ công bằng mà phải đem cuộc đời mình trả nợ nhà quan.
Cảnh ngộ của hai nhân vật Mị và A Phủ ít nhiều gợi đến những Chí Phèo, chị Dậu, những chú AQ và những thím Tường Lâm… Đó là những hình tượng nghệ thuật được cô đúc từ chính cuộc đời đau khổ trong xã hội cũ.
Nhà văn trân trọng những phẩm chất tốt đẹp của người bất hạnh và vạch ra hướng đi cho họ. Tô Hoài trong khi đào sâu vào hiện thực đã phát hiện ra con đường tất yếu mà các nhân vật của ông đi tới. Sự đè nén quá nặng nề, những đau khổ chồng chất mà bọn thống trị gây ra tất sẽ dồn những kẻ khốn cùng ấy tới sự chống trả và nếu gặp được ánh sáng soi đường, họ sẽ đến được thắng lợi (Tô Hoài có cái may mắn là viết “Vợ chồng A Phủ” sau cách mạng tháng tám). Tất nhiên nhà văn phải có con đường riêng cho sự thể hiện chân thật chân lí đơn giản ấy.
Lấy việc miêu tả tâm lí làm điểm tựa vững chắc, Tô Hoài đã tìm ra được sự phát triển logic của tính cách. Đây mới thật sự là một giá trị hiện thực độc đáo của tác phẩm, và là chỗ có sức thuyết phục mạnh mẽ nhất. (Tô Hoài đã chỉ ra sự hợp lí của quá trình tha hóa nhân cách của cô Mị thời kì đầu. Mị làm việc nhiều quá, bị đày đọa khổ ải quá, mãi rồi Mị phải “quen”, phải cam chịu. Lúc trước Mị không được quyền tự tử vì sợ liên luỵ với bố; giờ bố chết, nhưng Mị không còn muốn tự tử nữa.).
Mị như một cái máy, không có ý thức, không cảm xúc ước ao. Liệu cô ta có thể thức tỉnh được nữa không? Nhà văn trả lời: có. Nếu đã có một hoàn cảnh làm tê liệt tâm hồn con người thì cũng sẽ có một hoàn cảnh đánh thức được nó. Hoàn cảnh nào đây? Phép mầu nào đây? Kỳ diệu thay và cũng đơn giản thay.
Tiếng sáo mà Mị tình cờ nghe được giữa một ngày mùa xuân đầy hương sắc. Tất cả chợt sống dậy, Mị thấy lòng “thiết tha bồi hồi”và lập tức nhớ lại cả quãng đời thiếu niên tươi đẹp. Có gì lạ đâu nhỉ? Thanh niên Mèo ai chả yêu tiếng sáo, mà Mị lại là cô gái thổi sáo giỏi. Hơn nữa, tiếng sáo đang chập chờn kia lại nhắc đến tình yêu, ”và lập tức nhớ lại cả quãng đời thiếu niên tươi đẹp. Có gì lạ đâu nhỉ? Thanh niên Mèo ai chả yêu tiếng sáo, mà Mị lại là cô gái thổi sáo giỏi. Hơn nữa, tiếng sáo đang chập chờn kia lại nhắc đến tình yêu, “gọi bạn yêu” nó thức dậy trong sâu thẳm trong lòng cô khát vọng tình yêu thương và hạnh phúc.
Như vậy tiếng sáo lại động chính cái sức mạnh bền vững, bất diệt nhất của tuổi trẻ, Mị nhớ lại rành rõ “” nó thức dậy trong sâu thẳm trong lòng cô khát vọng tình yêu thương và hạnh phúc. Như vậy tiếng sáo lại động chính cái sức mạnh bền vững, bất diệt nhất của tuổi trẻ, Mị nhớ lại rành rõ “mình vẫn còn trẻ lắm”, rằng “ rằng “bao nhiêu người có chồng vẫn đi chơi xuân”. Và bên tai Mị cứ “lững lờ”. Tiếng sáo sự bừng tỉnh từ sâu xa trong tâm hồn ấy biểu hiện bên ngoài bằng hành động mới nhìn rất lạ: “”. Và bên tai Mị cứ “lững lờ”. Tiếng sáo sự bừng tỉnh từ sâu xa trong tâm hồn ấy biểu hiện bên ngoài bằng hành động mới nhìn rất lạ: “Mị lén lấy hũ rượu cứ uống ừng ực từng bát. Rồi say, Mị lịm mặt ngồi đấy”. Có ngọn lửa nào đang cần phải khơi lên hay cần phải dập tắt đi bằng hơi men vậy? Chỉ biết rằng cô gái đã quyết thay váy áo đi chơi, điều mà bao năm rồi cô không nhớ đến
Có thể coi đây là một bước đột biến tâm lí nhưng là kết quả hợp lí toàn bộ quá trình tác động qua lại giữa hoàn cảnh với tính cách nhân vật. Sự “vượt rào” của Mị tuy bị đàn áp ngay (A Sử đã tắt đèn, trói đứng cô vào cột); nhưng ý thức về quyền sống, khát vọng về hạnh phúc đã trở lại. Mị lại biết khóc, lại muốn tự tử. Và những giọt nước mắt trong cái ngày tàn nhẫn này sẽ lưu giữ trong lòng Mị như một vết bỏng rát để đến khi bắt gặp những dòng nước mắt chảy “lấp lánh” trên gò má hốc hác của A Phủ, nó đã biến thành sự đồng cảm sâu sắc giữa những người cùng khổ. Toàn bộ ý thức phản kháng của Mị hiện hình qua một câu hỏi sáng rõ: “); nhưng ý thức về quyền sống, khát vọng về hạnh phúc đã trở lại. Mị lại biết khóc, lại muốn tự tử. Và những giọt nước mắt trong cái ngày tàn nhẫn này sẽ lưu giữ trong lòng Mị như một vết bỏng rát để đến khi bắt gặp những dòng nước mắt chảy “lấp lánh” trên gò má hốc hác của A Phủ, nó đã biến thành sự đồng cảm sâu sắc giữa những người cùng khổ.
Toàn bộ ý thức phản kháng của Mị hiện hình qua một câu hỏi sáng rõ: “người kia việc gì phải chết?” Mị quyết định trong khoảnh khắc: cắt dây trói giải thoát cho A Phủ. Và tất nhiên, Mị cũng bỏ trốn, tự giải thoát chính mình. Hai kẻ trốn chạy chịu ơn nhau, cảm thông nhau, dựa vào nhau để tạo lập hạnh phúc. Thế nhưng cái đồn Tây lù lù xuất hiện và lại có cha con Thống Lí Pá Tra về ở trong đồn, thì họ thật sự bị dồn đến chân tường. Trước mặt họ, chỉ còn sự lựa chọn cuối cùng: trở lại kiếp nô lệ hay chống kẻ thù. Chắc chắn họ thà chết còn hơn lại sống như cũ. Nhưng muốn chống kẻ thù, họ trông cậy vào ai? Cách mạng đã đến với họ đúng giây phút ấy. Mị và A Phủ đi theo cách mạng, sẽ thuỷ chung với cách mạng như một lẽ tất yếu!
Bằng sự am hiểu cuộc sống và khả năng phân tích những vấn đề sắc bén, nhất là bằng ngòi bút miêu tả tâm lí tinh tế, Tô Hoài đã tái hiện chân thật và sinh động cuộc hành trình từ đau khổ, tối tăm ra phía ánh sáng cách mạng của những người dân lao động với chế độ cũ. Tác phẩm đem lại cho bạn đọc nhận thức đúng đắn về con đường cách mạng dân tộc dân chủ ở nước ta. Ngoài ra giá trị hiện thực của truyện còn được gia tăng bằng màu sắc địa phương rất đậm nét với cảnh sắc, phong tục, sinh hoạt của người Mèo, bằng bản sắc tâm hồn độc đáo của các nhân vật. Cùng một số phận, một cảnh ngộ, những diễn biến tâm lí của Mị rất khác A Phủ. A Phủ mạnh mẽ, bộc trực, dứt khoát. Mị dường như chính chắn hơn nhưng lại yếu đuối hơn.
Bất cứ tác phẩm văn học nào cũng chứa đựng thái độ của nhà văn đối với cuộc sống, trước hết là với con người. Ngay giá trị hiện thực của ”Vợ chồng A Phủ” đã để lộ cái nhìn nhân đạo, ưu ái của Tô Hoài. Khi cô đúc nỗi cùng khốn vào hai thân phận nô lệ với ý thức làm một bản cáo trạng về xã hội cũ, Tô Hoài đã gợi lên trong chúng ta sự căm phẫn, sự đau xót, sự cảm thông khi miêu tả buổi lễ ăn thề giữa A Châu và A Phủ như là cuộc nhân duyên giữa quần chúng và cách mạng, ông đem lại niềm tin về một tương lai sáng sủa cho những người bị áp bức.
Thật ra cũng khó tách bạch đâu là giá trị hiện thực, đâu là giá trị nhân đạo ở một tác phẩm như “Vợ chồng A Phủ”. Hiện thực và nhân đạo nhiều khi hòa trộn với nhau. Không thể không nói đến tính chân thật, chính xác, logic ở những đoạn mô tả tâm lí, nhưng rõ ràng phải biết thông cảm, biết trân trọng nâng niu con người lắm, mới có thể xét đoán tâm hồn người ta tinh tế như vậy. Thật khó quên hình ảnh cô Mị lần tìm về quỳ lạy trước mặt bố mà khóc nức nở. Đứa con chưa kịp nói gì người cha đã biết:“Mày về quỳ lạy tao để mày chết đấy à? Không được đâu con ơi”. Mị ném nấm lá ngón xuống đất, quay trở lại chốn địa ngục trần gian. Phải, cô gái ấy vốn có một nhân cách đáng trọng. Cô thà chết để khỏi sống khổ nhục, nhưng lại phải chấp nhận sống khổ nhục hơn bất hiếu với cha. Chính Mị, khi còn trẻ đã biết xin bố:”con nay đã lớn rồi con sẽ thay bố làm nương trả nợ. Bố đừng bán con cho nhà giàu”. Đó là con người biết yêu quý tự do, biết khẳng định quyền sống.
Ngay cả lúc bị hoàn cảnh vùi dập đến mê mụ, trong tro tàn của lòng cô vẫn âm ỉ đốm than hồng của niềm ham sống, khao khát thương yêu. Nếu nhà văn chỉ tuân theo một thứ hiện thực khách quan, lạnh lùng thì làm sao ông có thể đón đợi và nắm bắt tài tình giây phút sống lại bất ngờ và mãnh liệt đến thế của cô gái. Không trước sau ông vẫn tin rằng hoàn cảnh dẫu có khắc nghiệt đến mấy, cũng không thể tiêu diệt hoàn toàn nhân tính. Mị đã sống lại bằng tuổi trẻ, bằng nỗi day dứt về thân phận của mình. Chính cái khát vọng sống mãnh liệt không thể chết được ở Mị, làm cho Mị đồng cảm với cảnh ngộ của A Phủ và đi đến quyết định giải thoát cho A Phủ, giúp Mị tự giải thoát khỏi cái chốn địa ngục để làm lại cuộc đời, để sống như một con người.
- Kết bài:
Tô Hoài đã trân trọng từng bước trưởng thành của Mị và A Phủ. Cái nhìn của ông về hai nhân vật này là một cái nhìn nhân đạo tích cực. Ông cảm thông nỗi đau của Mị và A Phủ, mặt khác ông trân trọng ý thức nhân phẩm, khát vọng giải phóng và tin ở khả năng tự làm chủ trước cuộc đời của hai con người đau khổ này. Phải chăng, chính cái nhìn đó đã tạo nên giá trị của tác phẩm.
Bài tham khảo:
Tấm lòng nhân đạo của nhà văn qua việc khắc họa cuộc đời và số phận của nhân vật Mị và A Phủ
- Mở bài:
“Vợ chồng A Phủ” là truyện ngắn đặc sắc trong sự nghiệp văn chương của nhà văn Tô Hoài nói riêng và của văn xuôi chống Pháp nói chung. Qua số phận của nhân vật Mị và A phủ, truyện phản ánh chân thực và sinh động cuộc sống vùng cao, nơi có những thân phận khổ đau, những con người nghèo khó sống dưới ách áp bức, bóc lột của thực dân, phong kiến.
- Thân bài:
Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” thành công nhất trong ba truyện ngắn viết về đề tài Tây Bắc của nhà văn Tô Hoài. Tác phẩm chứa đựng cả giá trị nghệ thuật, giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo. Tô Hoài viết về Mị và A Phủ với tất cả lòng yêu thương, cảm thông bằng một ngòi bút chứa chan lòng nhân đạo, khả năng phân tích tinh tế những diễn biến nôi tâm đầy mâu thuẫn.
Tô Hoài mở đầu bằng giọng kể chuyện về một người con gái trong nhà Thống lí “Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lý Pá Tra thường trông thấy có một cô con gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Nhà thống lí nổi tiếng giàu có nhất vùng, ắt hẳn người trong nhà phải sung sướng lắm, nhưng thực tế không phải vậy. Người con gái được nói trên chính là Mị, một con dâu gạt nợ. Cô phải sống những chuỗi ngày đau khổ của kiếp tôi tớ, mà danh nghĩa là con dâu nhà giàu có. Thân Mị không chỉ là thân trâu ngựa mà còn thua cả trâu ngựa “Con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc cả đêm lẫn ngày”.
Mị là một người con gái có nhan sắc, lại rất giỏi thổi sáo “Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao người mê ngày đêm thổi sáo đi theo Mị”. Tô Hoài không trực tiếp tả vẻ đẹp ngoại hình của Mị, nhưng qua những từ ngữ như “cúi mặt, mặt buồn rười rượi, thổi sáo giỏi, có biết bao người mê …” ta cũng hình dung ra Mị là một cô gái đẹp. Đẹp nhưng buồn. Buồn vì số phận của kiếp làm dâu gạt nợ. Mị đang tuổi xuân phơi phới, tràn đầy nhựa sống và vẻ đẹp tâm hồn. Mị đã được yêu và đã khao khát yêu, trái tim đã bao lần hồi hộp trước một âm thanh hò hẹn. Chính vì thế, A Sử đã lợi dụng cơ hội “hẹn hò” ấy bắt Mị về trình ma, để rồi Mị vĩnh viễn là con dâu nhà thống lí. Mị đã có lần muốn chết nhưng không thể chết vì món nợ cha còn đó; nhưng đến lúc có thể chết, vì cha cô không còn, thì cô lại buông trôi, kéo dài mãi sự tồn tại vật vờ.
Mị chấp nhận kiếp sống mòn mỏi và hầu như tê liệt cả tâm hồn, không còn sức phản kháng, ngay cả khi A Sử trói Mỵ trong đêm xuân, vì thấy Mị chuẩn bị đi chơi. Và đến khi thấy A Phủ bị trói đứng mấy đêm liền, Mị cũng thản nhiên thổi lửa hơ tay. Mị nghĩ“Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy cũng thế thôi”. Câu văn thật hay, bởi phải nói thế mới thấu hết sự lạnh lẽo tê dại của tâm hồn Mị. Giờ đây Mị chỉ là cái xác không hồn mà thôi. Tâm hồn Mị càng trở nên chai sạn, luôn căm lặng “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Nhất là căn “buồng mị nằm kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông nhỏ bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay nắng. Mị nghĩ rằng mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì thôi”. Đây chính là ngục thất tinh thần, nó không giam hãm thân xác Mị, nhưng nó cách li tâm hồn cô với cuộc đời, nó cấm cố tuổi xuân và sức sống của cô. Tiếng nói tố cáo chế độ phong kiến miền núi đã cất lên nhân danh quyền sống và quyền tự do của con người.
Tưởng Mị đã chết cả tâm hồn rồi, nhưng không, tâm hồn ấy chợt sống dậy khi thấy “một dòng nước mắt lắp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đem lại” của A Phủ, thì Mị chợt tỉnh. Chính sự thức tỉnh ấy,đã giúp Mị nhớ ra mình, xót cho mình; để rồi Mị cắt dây trói, giải cứu cho A Phủ, đồng thời giải thoát cho chính mình. Mị cởi trói cho A Phủ để rồi bất ngờ chạy theo A Phủ. Tình yêu cuộc sống như được thổi bùng lên trong Mị. Mị như tìm lại được con người thật đã bị lãng quên bấy lâu, đầy sức sống và khát khao thay đổi số phận. Hai con người từng chịu nhiều đau khổ của chế độ phong kiến thổ ty đã tìm được hạnh phúc “Hai người đi ròng rã hơn một tháng, họ chuyền trên những miền núi cao ngất, lốm đốm nhà, thấp thoáng ruộng, đất đỏ, suối trắng tinh, trông thấy trước mặt mà đi mấy tháng chưa tới …”.
Tô Hoài rất tinh tế trong việc miêu tả diễn biến tâm hồn Mị, và những diễn biến ấy được xây dựng theo “thời gian tâm lí”, phát triển theo chiều hướng tăng dần. Đó là cái nhìn thật biện chứng của tác giả vào thế giới nội tâm: từ dửng dưng đến thương xót, từ lãng quên đến nhớ thiết tha, từ không sợ thoắt sang hoảng hốt … Không những thế tác giả còn khéo léo xây dựng nhân vật Mị – một nhân vật có thể nói là điển hình cho số phận của những phụ nữ niềm núi đầy bất hạnh, khổ đau dưới chế độ phong kiến thổ ty thần quyền nói riêng; của bao phụ nữ của dưới chế độ phong kiến nói chung.
Bên cạnh nhân vật Mị, nhân vật A Phủ cũng là nạn nhân của chế độ độc tài phong kiến miền núi. Số phận của nhân vật Mị và A phủ cũng là số phận của biết bao con người nghèo khó nơi miền núi, từng ngày từng giờ gánh chịu sự áp bức, bóc lột đến tận xương tủy của bọn phong kiến miền núi. A Phủ phải chịu cảnh đi ở đợ gạt nợ cho nhà thống lý. Từ một chàng trai mồ côi, hiền lành, giỏi giang, cuộc sống tự do phóng khoáng, thoáng chốc đã trở thành người ở gạt nợ, cho thấy sức mạnh thống trị của bọn cầm quyền, chúa đất.
A Phủ mang hình ảnh của những chàng mồ côi, chàng Khó: to lớn, khỏe mạnh, lao động cừ, can đảm và nghĩa khí.Chàng trai ấy không sợ phải đối diện với bọn con quan, dám trừng trị chúng khi chúng quấy phá cuộc vui xuân của đàm bạn bè mình. A Phủ lấy chính cái vòng cổ bạc có tua chỉ xanh của A Sử – dấu hiệu chứng tỏ A Sử là con quan, mà kéo dập đầu nó xuống, xé áo nó ra mà đánh. Nhưng trận đánh hào hứng ấy hóa ra lại là sự mở đầu cho một chặng đường khổ sở tột cùng của A Phủ. A Phủ bị bắt rồi bị phạt vạ trong một phiên tòa kì lạ: đầy những khói thuốc phiện,“người thì đánh, người thì quỳ lại, kể lễ, chưởi bới …”, rồi lời tuyên án kì dị của tên thống lí, mà nhất là tục “trình ma”.
A Phủ phải quỳ, bị đánh, bị chửi … suốt từ chiều đến tối, rồi từ tối đến sáng hôm sau. Đến lúc không phải quỳ, phải đánh nữa, A Phủ được đứng lên, chân “tập tễnh” mà phải cầ dao mỗ lợn để thiết đãi những kẻ đã đánh mình, kẻ đã biến mình thành nô lệ. Kể từ ngày này, A Phủ trở thành kẻ nô lệ cho nhà thống lí, không chỉ một đời mà đến đời con đời cháu, bao giờ hết nợ mới được tự do; nhưng biết đến khi nào mới hết.
Có lần đi chăn bò, do mê bẫy dím, A Phủ lỡ để hổ vồ mất một con bò. Và anh phải bị Pá Tra trói đứng vào chân cột cho đến chết. Hóa ra mạng người còn rẻ hơn một con bò. Một cảnh bất công bày ra trước mắt, đã tố cáo chế độ phong kiến miền núi, tố cáo bọn thống trị chà đạp lên mạng sống của người dân bần cùng, tước mất tất cả quyền được sống, quyền tự do của họ. Chúng ta thấy ở đây có một cái lạ là người dân chấp nhận bị đày dọa, không phản kháng, cũng như con trâu tự đi tìm cột vậy. A Phù phải tự mình vác cọc, tự mình lấy dây mây, rồi lại tự mình đóng cọc gỗ xuống bên cột. Tức là anh đã tạo mọi điều kiện cho sự đày đọa hành hạ bản thân.
A Phủ là chàng trai phóng khoáng, thích tự do, thế mà chấp nhận để người ta trói mình, mà anh biết trước cái chết sẽ đến với mình. Điều này có mâu thuẫn với tính cách của A Phủ chăng? Câu trả lời rằng “Không”, vì trong đêm ấy anh đã tìm cách nhay dứt vòng dây trói, để rồi người ta trói anh thêm nhiều vòng nữa khiến anh không thể cử động, xoay sở gì được. Mâu thuẫn này phải chăng cũng xuất phát từ tục “trình ma” – chế độ phong kiến thần quyền miền núi. Cũng như Mị sau khi “trình ma” thì trở thành con dâu gạt nợ mãi mãi “ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rủ xương ở đây thôi”; còn A Phủ lại trở thành người ở gạt nợ đời đời cho nhà thống lí.
Cuộc đời và số phận của nhân vật Mị và A Phủ có những điểm tương đồng, cùng là nạn nhân của gia đình Pá Tra: một là con dâu gạt nợ, còn một là người ở nợ, cả hai cùng bị bố con trói đứng. Chính vì thế giữa hai người đã có sự đồng cảm, khiến Mị bất chấp cả nỗi sợ hãi cắt dây giải cứu cho A Phủ và sau đó giải thoát cuộc đời mình ra khỏi kiếp làm dâu tôi đòi. Chính tình huống giải cứu A Phủ đã mở ra một tương lai mới, sáng sủa cho hai người. Họ đã thành chồng vợ, và được A Châu giác ngộ lí tưởng cách mạng.
- Kết bài:
Heghen từng nói “phải đẩy tới chớp đỉnh của mâu thuẫn thì sự sống nhiều hình vẽ mới hiện ra”. Cũng thế, số phận của nhân vật Mị và A phủ ở Hồng Ngài, từ cam chịu đến vùng dậy đấu tranh, nhưng đấu tranh chỉ mang tính tự phát. Còn ở Phiềng Sa, Mị và A Phủ từ đấu tranh tự phát ấy đã chuyển sang tự giác để tự giải phóng đời mình, dưới sự giác ngộ và lãnh đạo của Đảng mà tiêu biểu là các bộ A Châu. Từ đó, câu chuyện tạo ra một quá trình phát triển cách mạng cho những hình tượng trung tâm: từ đấu tranh tự phát, A Phủ đã tiến đến cuộc đấu tranh tự giác; từ bóng tối của cuộc đời đau khổ, tủi nhục, anh đã vươn tới ánh sáng của nhân phẩm, tự do và con đường cách mạng. A Phủ đã quay trở về giải thoát cho cuộc đời Mị và đem lại hạnh phúc đôi lứa cho cả hai người.
- Ôn tập luyện thi từ A đến Z văn bản “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài
- Cảm nhận vẻ đẹp tâm hồn và sức sống mãnh liệt của nhân vật Mị
- Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài
- Phân tích giá trị nhân đạo của “Vợ chồng A Phủ” (Tô Hoài) qua cuộc đời của nhân vật Mị và A Phủ
- So sánh vẻ đẹp nhân vật người anh hùng Tnú (Rừng Xà Nu – Nguyễn Trung Thành) với nhân vật A Phủ (“Vợ Chồng A Phủ” – Tô Hoài)
- Qua truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”, hãy làm rõ: “dẫu trong cùng cực đến thế, mọi thế lực của tội ác cũng không giết được sức sống con người”