Truyện ngắn “Chữ người tử tù” (Nguyễn Tuân) là một minh chứng tiêu biểu cho nhận xét: “Các nhà văn lãng mạn thường tìm kiếm những giá trị cao đẹp trong những cảnh tối tăm, khám phá cái cao cả trong những cái tầm thường”.
Anh/ chị nghĩ sao về điều này?
- Mở bài:
Giới thiệu và dãn dắt vào vấn đề nghị luận.
- Thân bài:
Giải thích:
Ý kiến trên đề cập đến một đặc điểm nổi bật của văn học lãng mạn: Tạo nên sự đối lập giữa cái đẹp, cái cao cả với cái xấu, cái tầm thường, từ đó đề cao những giá trị tốt đẹp của con người và cuộc sống.
Phân tích “Chữ người tử tù” để chứng minh:
– Phát hiện vẻ đẹp hình tượng nhân vật Huấn Cao ( tài hoa, khí phách, thiên lương) trong sự đối lập với hoàn cảnh ngục tù . Nhân cách người tử tù bỗng tỏa sáng trong những phút giây cuối cùng của cuộc đời.
– Phát hiện vẻ đẹp nhân cách viên quản ngục trong sự tương phản với nghề coi ngục, với hoàn cảnh đề lao tăm tối như là “ một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ”.
– Cảnh cho chữ trong đề lao: Cái đẹp trong xiềng gông; cái đẹp thăng hoa từ đất chết, nơi ngục tù tăm tối và bẩn thỉu.
Tham khảo:
Chữ người tử tù là tập truyện ngắn rỳt từ tập Vang búng một thời của Nguyễn Tuõn (1940). Đây là truyện ngắn có nội dung tư tưởng sâu sắc và có nhiều thành công về tư tưởng nghệ thuật của tác phẩm bộc lộ tập trung trong hỡnh tượng nhân vật Huấn Cao.
Huấn Cao là nguyên mẫu của Cao Bá Quát, một danh sĩ nổi tiếng đời nhà Nguyễn. Ông là một tài năng lỗi lạc về tài văn “ Văn như Siêu, Quát vô tiền Hán ” và đồng thời cũng là người cầm đầu cuộc khởi nghĩa Mĩ Lương chống lại triều đình Tự Đức và thất bại. Ông để lại câu nói nổi tiếng “Nhất sinh đê thủ bái mai hoa”. Được gợi cảm hứng từ nguyên mẫu Cao Bá Quát, xây dựng theo lối lí tưởng hóa của chủ nghĩa lăng mạn, Huấn Cao đă trở thành biểu tượng cho vẻ Đẹp rực rỡ, cao cả, phi thường. Vẻ đẹp đó là sự hội tụ của tài hoa, khí phách, thiên lương.
Vẻ đẹp của Huấn Cao trước hết là vẻ đẹp của con người nghệ sĩ tài ba. Ông Huấn là nghệ sĩ trong nghệ thuật thư pháp. Chữ Huấn Cao viết là chữ Hán, loại văn tự giàu tính tạo hình. Các nhà nho thuở xưa viết chữ để bộc lộ cái tâm, cái chí. Viết chữ thành một môn nghệ thuật gọi là thư pháp, có người viết chữ thì có người chơi chữ. Người ta treo chữ đẹp ở những nơi trang trọng trong nhà, xem đó như một thú chơi tao nhã.
“Tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp” của ông nổi tiếng khắp một vùng tỉnh Sơn. “Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm (…) có được chữ ông Huấn Cao mà treo là có một báu vật trên đờr. Cho nên “Sở nguyện của viờn quan cai ngục này là có một ngày kia treo ở nhà riêng mình một câu đối do ông Huấn Cao viết”. Để có được chữ ông Huấn Cao, viên quản ngục không những phải dụng công, phải nhẫn nhục mà cũng phải liều mạng. Bởi vì biệt đãi Huấn Cao một kẻ tử tù là việc làm nguy hiểm có khi phải trả giá bằng tính mạng của mình.
Ở đây, tài viết chữ của Huấn Cao được biểu hiện qua hàng loạt chi tiết. Ngay từ đầu truyện, khi Huấn Cao chưa xuất hiện, tài năng của ông đã được nói tới một cách kính nể qua cuộc nói chuyện giữa Quản ngục và thơ lại: có phải ông Huấn nổi tiếng với cái tài viết chữ nhanh và đẹp đó không? Có nghĩa là chỉ cần nhắc đến cái tên đó thôi là đủ làm sống dậy cả một vùng tâm thức. Dùng bóng chữ để nói tài năng. Đạt được đến mức độ ấy, nét chữ ấy dứt khoát không phải sản phẩm của sự khéo tay thạo nghề của một người thợ. Mà mỗi lần đặt bút phải là một lần tài hoa sáng tạo, mỗi nét bút phải là sự kết tụ của tài năng nghệ sĩ, những con chữ không chỉ là chữ mà như một sinh thể nghệ thuật được lưu truyền trong hậu thế, danh tiếng bay tới tận nơi nhà giam hẻo lánh tỉnh Sơn. Ngay cả viên quan quản ngục của một huyện nhỏ vô danh cũng biết.
Tài năng ấy được thể hiện qua thái độ sùng kính của Quản ngục. Nhắc đến con chữ ông Huấn, Quản ngục như vẫn còn xúc động buông lời thán phục: “Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm (…) có được chữ ông Huấn Cao mà treo là có một báu vật trên đời“. Cho nên, từ khi mới biết đọc vỡ nghĩa sách Thánh hiền, Quản ngục đă mơ có ngày xin được chữ ông Huấn^ở nguyện của viên quan cai ngục này là có một ngày kia treo ở nhà riêng mình một câu đối do ông Huấn Cao viết“. Sau này dù có lăn lóc trong cái nghề coi ngục, hàng ngày hàng giờ phải đối mặt với những tr tiểu nhân, lũ cặn bă, nhưng ước nguyện cao quý ấy không nhạt phai. Với Quản ngục, có được chữ của ông Huấn treo trong nhà coi như có một báu vật. Gặp Huấn Cao, có lúc Quản ngục như quên hết bổn phận chức trách, chỉ đau đáu một sở nguyện xin chữ- thậm chí, sẵn sàng đánh cược cả tính mạng, đánh đổi cả sĩ diện để có được chữ Huấn Cao. Để có được chữ ông Huấn Cao, viên quản ngục không những phải dụng công, phải nhẫn nhục mà cũng phải liều mạng.
Sự tài hoa thể hiện rực rỡ trong cảnh cho chữ. Giữa không gian khói tỏa như đám cháy, một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng đang dậm tô nét chữ…Không phải những nét chữ thông thường, đó là sự hội tụ của cả tài hoa, khí phách, hoài bão và nhân cách ở đời. Huấn Cao quả là nghệ sĩ trong nghệ thuật thư pháp.
Qua việc miêu tả tài hoa bằng ngọn bút tài hoa, Nguyễn Tuân đă thể hiện thái độ trân trọng cái tài, cái đẹp, lòng luyến tiếc cái nhã thú văn hoá cổ truyền của con người Việt Nam đang lụi tàn và gửi gắm kín đáo triết lí nhân bản: “Biết trọng người có tài, hẳn không phải là kẻ xấu”“. Một lời đề nghị của nhà văn về lối sống tao nhã và biết trọng người tài.
Huấn Cao mang vẻ đẹp của khí phách hiên ngang, bất khuất. Dù chưa trực tiếp xuất hiện, nhưng qua câu chuyện của quản ngục và thơ lại, ta đã biết đó là con người có khí phách hiên ngang, “dọc ngang nào biết trên đầu có ai”, coi nhà tù thực dân như chốn không người, “ra tay tháo cũi xổ lồng như chơi”; có tài bẻ khóa vượt ngục; “văn võ kiêm toàn”; lí tưởng sống cao đẹp, dám chống lại triều đình mà ông căm ghét, khinh bỉ. Thái độ quản ngục và thơ lại: thán phục.b Thái độ bọn lính: kiêng nể tên này nguy hiểm và ngạo ngược nhất trong bọn.bChi tiết: đứng đầu gông, nhận phần nặng nhất.
Dù chí lớn không thành tư thế của Huấn Cao lúc nào cũng hiên ngang, bất khuất. Bị dẫn vào huyện ngục ông không chút run sợ (câu văn: “cánh cửa đề lao mở rộng” tạo tâm thế cho sự xuất hiện của Huấn Cao). Đáp lại thái độ xấc xược của bọn lính, Huấn Cao thản nhiên không thèm chấp. Lạnh lùng, chúc mũi gông, thúc xuống thềm đá tảng đánh thuỳnh một cái, thay cho câu trả lời. Chủ động vượt lên mọi hoàn cảnh. Trước những kẻ nắm giữ vận mệnh của mình, thái độ của Huấn Cao: vô cùng khinh bỉ. Đối với quản ngục, ông thản nhiên nhận rượu thịt, ung dung tự tại như việc phải làm trong cái hứng sinh bình. Nhận sự biệt đãi, ông còn tỏ thái độ khinh bạc đến điều, nói lời tàn nhẫn như dội vào ngục quan gáo nước lạnh. Là tử tù chỉ đợi ngày ra pháp trường vậy mà Huấn Cao vẫn giữ phong thái ung dung, đường hoàng.
Huấn Cao là người có “thiên lương” trong sáng, cao đẹp. Trong truyện Chữ người tử tù khái niệm “thiên lương” được Nguyễn Tuân sử dụng với nhiều ý nghĩa khác nhau. Với quản ngục và thơ lại thì “thiên lương” là ý thức của ông trong việc sử dụng cái tài của mình. Huấn cao có tài viết chữ nhưng không phải ai ông cũng cho chữ. Chữ quý chỉ dành cho người biết quý. Ông không bao giờ ép mình cho chữ vì vàng ngọc hay quyền thế. Ông chỉ trân trọng những ai biết yêu quý cái đẹp, cái tài…Trước khi cho chữ, Huấn Cao mới chỉ viết hai bộ tứ bình và một bức trung đường cho ba người bạn thân.
Ông tỏ thái độ khinh bạc đến điều với viên quan coi ngục và thầy thơ lại, vì tưởng quản ngục có ý đồ đen tối gì khi thấy viên quan ấy biệt đãi mình. Ông “cảm cái lòng biệt nhỡn liên tài” của quản ngục và thơ lại, khi biết họ thành tâm xin chữ. Ông quyết không phụ tấm lòng của họ, nên mới diễn ra cảnh cho chữ trong tù được tác giả gọi là “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”.
Sự thống nhất của cái tài, cái tâm và khí phách anh hùng ở hình tượng Huấn Cao. Sự thống nhất đó biểu hiện tập trung trong cảnh cho chữ ở cuối tác phẩm. Trong cảnh đó, Nguyễn Tuân đã để cho vẻ đẹp của cái tâm, của “thiên lương” chiếu rọi, làm cho cái đẹp của cái tài của khí phách anh hùng bừng sáng, tạo nên nhân cách chói lọi của Huấn Cao. Sự thống nhất của cái tài, cái tâm và khí phách anh hùng là lí tưởng thẩm mỹ của Nguyễn Tuân là chuẩn mực để ông đánh giá nhân cách của con người. Nguyễn Tuân đặt nhân vật dưới ánh sáng của lí tưởng ấy để các hình tượng bộc lộ vẻ đẹp với những mức độ khác nhau. Trên cái nền đen tối của nhà tù, quản ngục và thơ lại là hai điểm sáng bên cạnh cái vần sáng rực rỡ của Huấn Cao. Cũng chính lý tưởng thẩm mĩ ấy chi phối mạch vận động của truyện, tạo thành cuộc đổi ngôi kì diệu để kẻ tử tù trở thành người làm chủ tình huống, ban phát cái đẹp, truyền dạy cách sống, quan coi ngục thì khúm núm sợ hãi. Hình tượng Huấn Cao vì thế trở thành biểu tượng cho sự chiến thắng của ánh sáng đối với bóng tối, của cái đẹp cái cao cả đối với cái phàm tục, dơ bẩn của khí phách ngang tàng đối với thói quen nô lệ.
Nhân vật viên quản ngục được xây dựng với bút pháp giàu chất hiện thực, gần với cuộc đời hơn, thật hơn. Và chính ở đây thể hiện tài năng nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Đọc truyện, người đọc như thấy hiện ra trước mắt dáng đi, điệu đứng, lời ăn tiếng nói của viên quản ngục này. Lúc ở công đường, dáng điệu của y rõ bệ vệ, quan cách, oai phong, trầm tĩnh, rõ là chu đáo, cần mẫn trong công việc
Để làm nổi bật vẻ đẹp của Huấn Cao Nguyễn Tuân đã đặt nhân vật vào một tình huống truyện độc đáo. Đó là cuộc gặp gỡ giữa Huấn Cao với quản ngục và thơ lại – cuộc gặp gỡ của tử tù với viên quan cai ngục nhưng cũng là cuộc hội ngộ của những kẻ “liên tài tri kỉ”.
Cảnh cho chữ lại diễn ra trong một nơi nhà ngục “đêm hôm đó trong trại giam tỉnh Sơn, ở một không gian chật hẹp, ẩm tối”. “tường đầy mạng nhện.”. Nhưng giữa không gian chật hẹp đó, với bút pháp tương phản, nhà văn đã gây ấn tượng cho người đọc với hình ảnh tráng lệ, nổi lên giữa không gian tăm tối là bó đuốc tẩm dầu .là tấm lụa trắng tinh còn nguyên vẹn lần hồ.và mùi thơm của chậu mực. Ánh sáng từ ngọn đuốc, ngọn lửa như xua đi khung cảnh tăm tối ảm đạm chốn lao tù.
Những nét vẽ như khắc như chạm đã vẽ lên một hình ảnh hào hùng “Một người tù…” cạnh đó là thầy thơ lại và QN. Sự khúm núm, run run không phải là biểu hiện của sự hèn nhát mà là thái độ ngưỡng vọng trước cái đẹp, cái tài. Động tác của họ ăn ý nhịp nhàng “HC…” thể hiện sự thấu hiểu tận đáy lòng. Không còn nhà ngục, không còn kẻ tử tù, không còn viên quan coi ngục nắm quyền sinh quyền sát trong tay, chỉ còn lại những dòng chữ tươi tắn.
Những lời khuyên chân thành và thái độ ân cần của Huấn Cao đã làm cho Quản ngục bừng tỉnh, vái lạy người tù. Có cái vái lạy làm cho con người ta trở nên thấp hèn, nhưng cũng có cái vái lẫy khiến tầm vóc con người lớn lao hơn. Và cái vái lạy của Quản nguc trước Huấn Cao là một cái vái lạy tôn cao nhân cách. Đó là cái vái lạy trước cái đẹp.
Nhân vật viên quản ngục là một sáng tạo rất mực sinh động của Nguyễn Tuân, để vừa tô đậm vẻ đẹp lí tưởng của nhân vật Huấn Cao, lại vừa thể hiện vẻ đẹp của một con người đang được dắt dẫn bởi cái đẹp và cái thiện. Đây là kiểu sáng tạo nhân vật rất mới trong văn học hiện đại Việt Nam, cái cách để cho nhân vật tự tạo tính cách.
Qua việc xây dựng hai hình tượng nhân vật Huấn Cao và viên quản ngục, Nguyễn Tuân muốn khẳng định rằng trong mỗi con người đều có một người nghệ sĩ, đều ẩn chứa tâm hồn yêu cái đẹp, cái tài. Không phải ai cũng xấu hết, bên cạnh phần ác quỷ vẫn có “thiên lương”. Cái đẹp tồn tại cả trong môi trường của cái ác, cái xấu, nhưng không vì thế mà nó lụi tàn, trái lại, nó có thể càng mạnh mẽ và bền bỉ vươn lên như hoa sen giữa đầm lầy.
Miêu tả Huấn Cao để làm nổi bật sự chiến thắng của cái tài, cái đẹp, cái tâm và khí phách ngang tàng Nguyễn Tuân triệt để sử dụng sức mạnh của nguyên tắc tương phản, đối lập của bút pháp lãng mạng đối lập giữa ánh sáng và bóng tối giữa cái đẹp cái cao cả với cái phàm tục dơ bẩn. Có sự tương phản ở những chi tiết tạo hình được sử dụng để miêu tả không khí của cảnh cho chữ (bóng tối phòng giam, ánh sáng đỏ rực của bó đuốc, tấm lụa bạch còn nguyên vẹn…). Có sự đối lập tương phản giữa sự cho chữ (công việc tạo ra cái đẹp “nói lên hoài bảo tung hoành của một đời người”). Với hoàn cảnh cho chữ (nơi hôi hám, bẩn thỉu, nơi giam cầm cùm trói tự do). Có sự đối lập phong thái của người cho chữ (đường hoàng) với tư thế của kẻ nhận chữ (khúm núm). Ngôn ngữ miêu tả nhân vật của Nguyễn Tuân giàu chất tạo hình. Ông sử dụng nhiều từ hán việt lời ăn tiếng nói mang khẩu khí của người xưa làm tăng thêm vẻ đẹp của một thời vang bóng ở hình tượng Huấn Cao.
Nhân vật Huấn Cao thể hiện tài năng nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Đó là biểu tượng cho sự chiến thắng của cái tài, cái đẹp, cái tâm trước cái phàm tục, dơ bẩn của khí phách ngang tàng đối với thói quen nô lệ. Đây là lý tưởng thẩm mĩ của nhà văn, là ý tưởng tư tưởng của hình tượng. Hình tượng Huấn Cao được xây dựng trên cơ sở nguyên mẫu Cao Bá Quát một nhà nho có tài văn thơ, viết chữ đẹp nổi tiếng một thời và cũng là người từng tham gia lãnh đạo khởi nghĩa nông dân chống lại triều đình nhà Nguyễn. Xây dựng nhân vật Huấn Cao Nguyễn Tuân bộc lộ tình cảm yêu nước và tinh thần dân tộc thầm kín của mình.