Đọc thêm: Tự do – SGK Ngữ văn 12, tập 1

Tự do
(P.Ê-luy-a)

Văn bản.

Trên những trang vở học sinh
Trên bàn học trên cây xanh
Trên đất cát và trên tuyết
Tôi viết tên em

Trên những trang sách đã đọc.
Trên những trang trắng chưa dung
Đá máu giấy hoặc tro tàn
Tôi viết tên em

Trên hình ảnh rực vàng son
Trên gươm đao người lính chiến
Trên mũ áo các vua quan
Tôi viết tên em

Trên sa mạc trên rừng hoang
Trên tổ chim trên hoa trái
Trên thời thơ ấu âm vang
Tôi viết tên em

Trên điều huyền diệu đêm đêm
Trên khoanh bánh trắng hằng ngày
Trên các mùa cùng gắn bó
Tôi viết tên em

Trên những mảnh trời trong xanh
Trên ao mật trời ẩm mốc
Trên hồ vầng trăng lung linh
Tôi viết tên em

Trên mỗi khoảnh khắc hừng đông
Trên đại dương trên tàu thuyền
Trên vùng núi non điên dại
Tôi viết tên em

Trên áng mây trôi bềnh bồng
Trên nhễ nhại cơn bão dông
Trên hạt mưa rào nhạt thếch
Tôi viết tên em

Trên cây đến vừa thắp sang
Trên cây đèn đang lụi dần
Trên cả họ hàng quây quần
Tôi viết tên em

Trên nơi trú ẩn tan hoang
Trên ngọn hải đăng đổ nát
Trên mấy bức tường ngao ngán
Tôi viết tên em

Trên sức khoẻ được phục hồi
Trên hiểm nguy đã tan biến
Trên hi vọng chẳng vấn vương
Tôi viết tên em

Và bằng phép màu một tiếng
Tôi bắt đầu lại cuộc đời
Tôi sinh ra để biết em
Để gọi tên em.

(Phùng Văn Tửu dịch)

Bài thơ Tự do được viết vào mùa hè năm 1941, trong thời kì nước Pháp bị quân đội phát xít Đức xâm lược, in trong tập Thơ ca và chân lí (1942) và được coi là thánh ca của thơ ca kháng chiến Pháp. Ban đầu, Ê-luy-a đinh kết thúc bài thơ bằng tên của người phụ nữ mà ông yêu quý Nhưng qua nhiều hoạt động giành tụ đo cho nước Pháp, với nhận thức mới, ông đã thay thế câu kết bằng hai chữ Tự do. Bài thơ gồm 21 khổ thơ, không kể dòng cuối cùng chỉ là chữ Tự do (được viết hoa). Mỗi khổ bốn câu, ba câu đầu viết theo thể thơ bảy âm tiết, câu thứ tư (cũng là điệp khúc của toàn bài) chỉ có bốn âm tiết. Nguyên bản bài thơ không có vần, không có các dấu chấm câu, trừ dấu chấm hết cuối bài. Bản dịch trong SGK có lược bớt một số khổ thơ rải rác ở giữa bài.

Trào lưu siêu thực (còn gọi là chủ nghĩa siêu thực): khuynh hướng nghệ thuật xuất hiện ở pháp năm 1922 và là một hình thức chống lại trật tự tư sản, hướng tới một hiện thực cao hơn, trừu tượng, bí ẩn hơn (siêu thực) mà chỉ có trực giác của con người mới nắm bắt được. Chủ nghĩa siêu thực khai thác mối quan hệ giữa thực và mộng, giữa vô thức và ý thức, để “giấc mơ và hiện thực sẽ chuyển hoá thành một thực tế tuyệt đối, một cái siêu thực. Chủ nghĩa siêu thực đề cao lối viết “tự động tâm linh”, lối viết tự động tuôn trào theo cảm xúc, tạo ra kiểu chồng chất, xáo trộn các hình ảnh và kiểu câu thơ vắt dòng,… Các hình ảnh được kết họp không tuân theo trật tự lôgíc thông thường hay được kiểm soát bằng lí tính mà chỉ là sự sắp xếp liền mạch ngẫu hứng để tạo ra hiệu quả ngạc nhiên, bất ngờ, phá vỡ những thói quen và khuôn mẫu sáng tác cũ. Sống – chết, thực – ào, cái có thực – cái tưởng tượng, cái cao cả – cái thấp hèn, cái quá khứ – cái tương lai,… là đặc điểm riêng của thơ ông.

Đọc hiểu văn bản.

Câu 1: Tìm hiểu chủ đề, cách liệt kê các hình ảnh trong bài thơ.

Câu 2:Tìm hiểu kết cấu “Tôi viết tên em” ở mỗi khổ thơ cách lặp từ theo lối “xoáy tròn” và nhạc điệu bài thơ cách sử dụng đại từ “em” trong bài thơ?.

Câu 3: So sánh từ “trên” được sử dụng nhiều lần với ý nghĩa chỉ không gian và thời gian.

Câu 4: Câu thơ “Tôi viết tên em” được lặp lại trong từng khổ thơ, “tôi” có thể là tác giả và cũng có thể là những độc giả, “viết” có thể là ghi, chép, hành động. Hãy suy luận để chỉ ra tính chất “Thánh ca” của bài thơ này trong cuộc kháng chiến chống phát xít Đức.


* Soạn bài:

Tự do
(P.Ê-luy-a)

Đọc hiểu.

Câu 1:

– Chủ đề bài thơ là khúc ca ca ngợi tự do và bày tỏ khát vọng, sự say mê của tác giả và hàng triệu con người đối với tự do.

– Cách liệt kê các hình ảnh: mỗi khổ thơ đều xuất hiện liên tiếp các hình ảnh thu được bằng thị giác như “trang vở”, “bàn học”, “cây xanh”, “đất cát”, “tuyết”, “trang sách”, “tro tàn”, “gươm đao”, “mũ áo”, “sa mạc”, “rừng hoang”, “tổ chim”, “hoa trái”, “khoanh bánh trắng”, “trời xanh”, “vầng trăng”, “tàu thuyền”…, bằng cảm giác về màu sắc (“trời trong xanh”, “khoanh bánh trắng”, “rực vàng son”) không theo trật tự hay logic nào

→ Những hình ảnh được liệt kê trong bài thơ là những hình ảnh giản di, gần gũi, chân thực trong cuộc sống. Tuy nhiên, việc sử dụng hình ảnh này không làm mất đi sự thiêng liêng của tự do mà ngược lại nó làm cho Tự Do được mở rộng ra nhiều nghĩa: Tự Do hóa thân vào mọi nơi, mọi chỗ và hóa thân vào cuộc sống.

Câu 2:

Nghệ thuật tạo câu trùng điệp: “Tôi viết tên em”

– Tạo nhạc điệu cho bài thơ. Người đọc liên tưởng tới những nốt nhấn của một bản giao hưởng. Nó dội vào lòng người nghe, nó khắc sâu vào tâm trí, đồng thời sự lặp lại tạo ra điệp khúc.

– Sự lặp lại nhiều lần gợi một niềm tin vững chắc, một sự khẳng định chắc chắn, vững bền không thể đổi thay.

– Những lời tự nhủ, những lời khắc cốt ghi tâm ấy cũng chính là cách để nhà thơ thể hiện sự tôn thờ, đề cao tự do.

→ Đó là khát khao mãnh liệt của tác giả để vươn tới tự do.

– Cách lặp từ theo kiểu xoáy tròn “trên – trên” có tác dụng:

+ Tạo nhạc điệu, điểm nhấn cho bài thơ

+ Là cách thức tối ưu để tác giả bày tỏ tình yêu của mình với tự do

– Cách sử dụng đại từ “em” để gọi tự do là cách nhà thơ nhân hóa khái niệm trừu tượng này. Cách gọi này giúp nhà thơ diễn tả mối quan hệ thân mật, gắn bó và tình yêu thiết tha dành cho tự do.

– Kết cấu lặp từ theo lối xoáy tròn “trên- trên”:

+ Tạo nhạc điệu nốt nhấn cho bài thơ

+ Là cách thức tối ưu để tác giả bày tỏ tình yêu của mình với tự do

– Giới từ “trên” là giới từ báo hiệu trạng ngữ chỉ địa điểm

+ Giới từ “trên” xuất hiện nhiều lần trải dài liên tiếp trong toàn bộ bài thơ:

+ Địa điểm mang tính trừu tượng: thời thơ ấu, điều huyền diệu đêm đêm, các mùa, những mảnh trời trong xanh, khoảnh khắc hừng đông…

Tự do không chỉ được gắn với những vật cụ thể hiện hữu mà còn hiện diện trong mọi không gian mà tôi ngự trị. Nó hiện diện trong mơ, trong trí tưởng tượng trong hồi ức và trong tất cả những gì không thể cảm nhận bằng trực giác thông thường.

Câu 3:

– Giới từ “Trên” báo hiệu trạng ngữ chỉ địa điểm:

+ Địa điểm cụ thể, hữu hình: trang vở, bàn học, đất cát, tuyết, mũ áo vua quan…

+ Địa điểm trừu tượng: thời thơ ấu, điều huyền diệu đêm đêm, các mùa, những mảnh trời trong xanh, những khoảnh khắc hừng đông…

– Tự do không chỉ được gắn với những vật cụ thể đang hiện hữu mà hiện diện trong không gian mà “tôi” chiếm lĩnh ngự trị. Nó hiện diện trong giấc mơ, trong trí tưởng tượng, trong hồi ức và trong tất cả những gì không thể cảm nhận bằng trực giác thông thường.

– Giới từ “trên” chỉ thời gian (trên = khi, lúc). Trường phái siêu thực không phân biệt ranh giới rõ rệt giữa không gian, thời gian.

→ Khát vọng Tự do hóa thân khắp không gian, xuyên suốt thời gian, hiện hữu trong cuộc đời mỗi người

Câu 4:

“Tôi viết tên em” khi đang tuổi ấu thơ, ban đêm, ba ngày, lúc hửng đông, lúc đêm tối, khi ở ngoài đại dương mênh mông hay trên núi cao hiểm trở, lúc bão giông hay khi bình yên…

Dù ở nét nghĩa nào thì “tôi” đều biểu hiện tự do cháy bỏng, mãnh liệt. “Tôi” đã bị thu phục hoàn toàn bởi “em”. “Em” (tự do) đã ngự trị “tôi” chiếm trọn không gian của “tôi”, chiếm hết thời gian của “tôi” và suy nghĩ hành động của “tôi” luôn hướng về “em”.

Với cấu trúc và suy luận như vậy, bài thơ giống như lời của một bản trường ca, một khúc hát dài ca ngợi và kêu gọi tự do.

Đặt trong hoàn cảnh nước Pháp bị phát xít Đức xâm lược, nhân dân bị mất tự do, tác phẩm trở thành bài “Thánh ca”, kêu gọi nhân dân Pháp đấu tranh vì tự do, giải phóng đất nước.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang