Cảm nhận bài thơ Từ ấy của Tố Hữu.

cam-nhan-bai-tho-tu-ay-cua-to-huu

Cảm nhận bài thơ Từ ấy của Tố Hữu.

  • Mở bài:

Cuộc đời cách mạng và cuộc đời thơ của Tố Hữu được đánh dấu bằng bài thơ Từ ấy (viết năm 1938). Bài thơ được viết tại nhà lao Thừa Thiên – Huế, đã đánh dấu một móc son quan trọng và đưa Tố Hữu bước vào đời thơ cách mạng. Đó là cái thời điểm nhà thơ tiếp nhận một lý tưởng sống, một quan niệm sống, cái lí tưởng đã thay đổi toàn bộ cuộc đời của nhà thơ, để có lời tâm nguyện chân thành sống theo lí tưởng mới: lí tưởng cách mạng. Với bút pháp thơ giàu chất lãng mạn, bài thơ là niềm vui sướng tràn ngập tâm hồn tác giả khi bắt gặp lí tưởng cộng sản và lời tâm niệm chân thành của người thanh niên mới giác ngộ lí tưởng cộng sản nguyện gắn bó với quần chúng lao khổ.

  • Thân bài:

Niềm vui sướng tràn ngập tâm hồn nhà thơ khi bắt gặp lí tưởng cộng sản được thể hiện ngay ở khổ thơ đầu. Trong đời mỗi người đều có thể có những phút giây bừng sáng, những sự đổi thay kì diệu để lại dấu ấn suốt đời. Đó là phút giây tình yêu chợt đến, là lúc chân lí khoa học loé sáng, là thời điểm giác ngộ một lí tưởng nhân sinh, một lẽ sống. Đó là lúc người ta đổi thay toàn bộ cách cảm nhận về cuộc đời. Với Tố Hữu, đó là lúc ông tiếp nhận lí tưởng cộng sản và lí tưởng ấy đã bừng sáng trong ông, rọi sáng cho ông suốt đời :

Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim…

Đọc bốn câu thơ mà tưởng như tâm hồn Tố Hữu đang bừng sáng lên mạnh mẽ trong cái giây phút thiêng liêng giác ngộ lí tưởng cách mạng, Mặt trời chói chang, nắng hạ bừng sáng, vườn cây ngát hương và tiếng chim rộn rã. Có đủ âm thanh, sắc màu, hương vị…. mà cái gì cũng đẹp, cũng ngây ngất say mê, bởi tất cả đều bừng sáng trong tâm hồn thi sĩ. Đây là sự bừng sáng của chân lí cách mạng đối với một con người, một đời người. Sự bừng sáng ấy vừa đột ngột vừa chói chang, lại tươi vui, đằm thắm và dạt dào sức sống. Nó được biểu thị bằng hai hình ảnh “mặt trời chân lí”, “vườn hoa lá” hài hoà thống nhất với nhau và kết tụ lại trong bốn từ làm bừng sáng cả khổ thơ: “bừng”, “chói”, “đậm”, “rộn”.“mặt trời chân lí” chói chang nhưng lại có “vườn hoa lá” xanh mát; có “bừng”, “chói” của ánh sáng lí tưởng thì lại có “đậm” mùi hương và “rộn” tiếng chim của cuộc sống cách mạng. Lí tưởng đã hoà vào cuộc sống, đã thành cuộc sống cách mạng trong tâm hồn thi sĩ.

Câu thơ hay nhất, bừng sáng nhất là: “Mặt trời chân lí chói qua tim”. Nhà thơ đã dùng cách nói mới du nhập từ phương tây: “Mặt trời chân lí” là một ẩn dụ có cấu tạo mới khiến cho lí tưởng cách mạng giống như mặt trời toả sáng rực rỡ. Dùng hình ảnh mặt trời để biểu trưng cho cách mạng thật không gì đúng và đẹp bằng. Chính Bác Hồ đã nói: “những sai lầm đều như bóng mây qua, còn chân lí của chủ nghĩa Mác Lê-nin thì như mặt trời, sáng mãi”. Tố Hữu, Lê Anh Xuân, Viễn Phương…. đều dùng mặt trời để biểu trưng cho cách mạng trong những bài thơ sau này. Nhưng “mặt trời chân lí” là hình ảnh đầu tiên Tố Hữu đã dùng trong bài thơ Từ ấy để ghi lại cái giây phút bừng sáng của lí tưởng trong tâm hồn ông. “Mặt trời chân lí” ấy đã “chói qua tim” (chứ không phải chói trong tim) bởi mặt trời như chiếu xuyên qua tim làm tâm hồn nhà thơ bừng sáng.

Nếu hai câu thơ trên chói chang rực rỡ ánh sáng của lí tưởng thì hai câu dưới lại xanh mát tươi vui hương sắc của cuộc sống. Hoa lá, hương thơm, tiếng chim là trạng thái đầy sinh khí của thiên nhiên trong một khu vườn, nó thể hiện tâm trạng say sưa, náo nức, rộn ràng của một tâm hồn đang vui sướng tràn ngập khi bắt gặp lí tưởng cách mạng :

Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim…

Nhà thơ đã cảm nhận lí tưởng với trái tim ngây ngất của tình yêu. Hương thì rất “đậm”, còn tiếng chim thì rất rộn ràng. Tình yêu cuộc sống, niềm say mê sống dường như đang căng tràn bất tận. Đây cũng là một đặc điểm của hồn thơ Tố Hữu, đặc biệt trong thuở ban đầu với bút pháp thơ giàu chất lãng mạn.

Hai khổ cuối là lời tâm nguyện chân thành của người thanh niên mới giác ngộ lí tưởng. Lí tưởng như ngọn lửa thắp sáng tâm hồn nhà thơ, khiến tâm hồn ông thêm rộng mở. Tố Hữu tự nguyện đến với cuộc sống cách mạng, với quần chúng lao khổ như một lẽ tự nhiên :

Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời.

Nhà thơ đến với “mọi người”, với “trăm nơi”, “với bao hồn khổ”, tạo thành một khối đời liên kết với nhau mạnh mẽ. Ông không còn cảm thấy cô đơn, riêng lẻ, yếu đuối nữa. Đó là điểm khác biệt với các thi nhân trong phong trào Thơ mới lúc bấy giờ, chưa tìm được hướng đi cho mình, nên họ thường bơ vơ, lạc lõng, bi quan giữa cuộc đời. Bốn câu thơ tuôn chảy từ một trái tim tự nguyện chân thành, ngỡ như không hề có chút vướng bận, băn khoăn. Bởi lòng nhà thơ đã thuộc về lòng quần chúng cách mạng, hồn nhà thơ đã nằm trong hồn những người lao khổ để “gần gũi nhau thêm mạnh khối đời”. Câu thơ giống như lời nói thường ngày, mộc mạc biết bao, mà cũng đằm thắm tính giai cấp biết mấy.

Khi đã “buộc lòng tôi với mọi người” thì cũng là lúc nhà thơ đã thực sự gắn bó với quần chúng lao khổ. Và ông đã tự hào nói lên điều đó với tình cảm thiết tha của mình :

Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm, cù bất cù bơ…

Vẫn là gắn bó với gia đình nhân loại rộng lớn: “vạn nhà”, “vạn kiếp”, “vạn đầu em nhỏ”… nhưng nhà thơ nghiêng về những kiếp người bất hạnh : những “kiếp phôi pha”, những trẻ em “không áo cơm cù bất cù bơ”. Ông mở lòng đón nhận những kiếp người đau khổ vào trong gia đình bao la của mình. “Tôi đã là” nghĩa là dứt khoát rồi, đã thực sự hoà mình vào quần chúng rồi, đã trở thành ruột thịt của họ rồi. Nhưng nếu để ý thì sẽ thấy trong khổ thơ 4 câu này, nhà thơ đã dành hai câu cho các em nhỏ (các đối tượng khác chỉ 1 câu). Phải chăng đó là những con người mà ông quan tâm, yêu thương nhất ? Như ta đã thấy trong phần đầu “Máu lửa” của tập “Từ ấy”, ông đã viết liền một mạch đến 5 bài thơ rất thương tâm về những em bé bất hạnh đang sống bơ vơ, trôi nổi giữa cuộc đời ? Và 3 chấm lửng kết thúc câu thơ cuối gợi nhiều liên tưởng về những em bé bất hạnh đó, khi nhà thơ đã mở rộng cánh tay thương yêu đón các em vào lòng mình.

Hai khổ thơ có 8 câu thơ, nhưng chỉ có hai kiểu câu và tập trung nói thiết tha một ý chính. Việc lặp đi lặp lại một kiểu câu, một loạt từ ngữ như vậy đã có một hiệu quả nghệ thuật mạnh mẽ. Nó cho thấy đó là lời tâm niệm thiết tha, sự khẳng định dứt khoát, là nhiệt tình hăm hở của người chiến sĩ trẻ nguyện tìm về chỗ đứng của mình ở phía những người khốn khổ, tha thiết được trở thành thành viên ruột thịt của cái đại gia đình to lớn ấy.

Chưa thể nói ở hai khổ thơ này, ngòi bút thơ của Tố Hữu đã đạt tới độ tinh luyện. Lời thơ còn dàn trải, có những từ ngữ còn sách vở, khuôn sáo (hồn khổ, khối đời, kiếp phôi pha); song với cảm xúc chân thành, giọng thơ sôi nổi, thiết tha, liền mạch, những câu thơ ấy vẫn đầy sức truyền cảm.

  • Kết bài:

Từ ấy có thể xem như một cột mốc trong đời thơ và đời cách mạng của Tố Hữu. Bài thơ “không chỉ” là kỉ niệm về một thời điểm mở đầu, là tâm nguyện gắn bó với nhân dân lao khổ, mà còn là khởi đầu của thế giới thơ Tố Hữu. Ở đây đã xuất hiện những hình ảnh thơ quen thuộc sau này của ông: tâm hồn, là mảnh vườn đầy nhành non lá mới, nắng chói, hoa thơm, chim hót, những hình ảnh ấy sẽ còn xuất hiện sau này trong nhiều bài khác nữa của nhà thơ. Và phải chăng những hình ảnh đầy sức sống này, cùng với ngọn lửa lí tưởng cháy sáng trong tim, đã làm nên chất lãng mạn say người của bài thơ: đó là lãng mạn cách mạng trong thơ Tố Hữu.

Xem thêm:


Tham khảo:

Cảm nhận bài thơ Từ ấy của Tố Hữu.

  • Mở bài:

Tố Hữu được xem là “cánh chim đầu đàn” của nền thơ cách mạng Việt Nam. Bài thơ “Từ ấy” được Tố Hữu viết vào tháng 7/1938 nằm trong phần Máu lửa” của tập thơ “Từ ấy”. Tập thơ “Từ ấy” là tập thơ đầu của Tố Hữu. Bài thơ bộc lộ niềm say mê náo nức khi đón nhận lý tưởng Đảng của Tố Hữu. Đồng thời thể hiện lời tâm nguyện của nhà thơ khi đã được giác ngộ Cách mạng.

  • Thân bài:

Tố Hữu là nhà thơ của tình cảm lớn: Thi sĩ không viết về những tình cảm riêng tư nhỏ bé của con người trong mối quan hệ đời thường mà say mê ca ngợi những tình cảm công dân, tình Cảm Cách mạng như tình đồng bào đồng chí, tình yêu quê hương, đất nước, kính yêu lãnh tụ, tinh thần quốc tế và sản. Cái tôi trữ tình trong thơ Tố Hữu ngay từ đầu là cái tôi chiến sĩ, càng về sau càng xác định rõ là cái tội nhân danh Đảng, nhân danh cộng đồng dân tộc.

Lẽ sống lớn trong thơ Tố Hữu là gắn bó với cuộc đấu tranh chung của đất nước nhân dân “vì thiêng liêng giá trị con người/ Vì muôn đời hoa lá xanh tươi”. Niềm vui trong thơ Tố Hữu cũng không nhỏ bé, tầm thường mà là niềm vui lớn; sôi nổi, hân hoan nhất và cũng rực rỡ tươi sáng nhất là những vần thơ về chiến thắng (“Huế tháng tám”, “Hoan hô chiến sĩ Điện Biên”, “Toàn thắng về ta”).

Với tư cách là một loại hình nghệ thuật ngôn từ, văn học lấy con người làm đối tượng nhận thức trung tâm và biểu đạt bằng phương pháp đặc thù, đó là hình tượng nghệ thuật. Hình tượng nghệ thuật, trước hết, là khách thể đời sống được nghệ sĩ tái hiện bằng tượng tưởng, sáng tạo trong tác phẩm. Nhưng văn bản văn học bao giờ cũng là lời của người kể chuyện hay của nhân vật trữ tình nên hình tượng trong tác phẩm còn là hình tượng của tác giả. Ở “Từ ấy” là cảm giác bừng ngộ đầy hạnh phúc của người thanh niên, trong lớp lẽ sống, bắt gặp lý tưởng Cộng sản.

Niềm say mê náo nức của tâm hồn nhà thơ khi đón nhận lý tưởng Đảng Bắt gặp lý tưởng Cộng sản, người thanh niên trí thức ấy như tiếp nhận được nguồn sáng xua đi đám mây u ám của cái tôi cá nhân tiểu tư sản:

“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim”

“Từ ấy”, một phiếm định về thời gian, chỉ thời khắc thiêng liêng bắt gặp lý tưởng cộng sản đã trở thành mốc son, trở thành bước ngoặt trong cuộc đời nhà thơ. Cách nói mang tính chiêm nghiệm, hồi tưởng nhưng không gợi cảm giác bâng khuâng, tiếc nuối thường có mà mạnh mẽ, khẳng định. “Từ ấy” là lúc ánh sáng của lý tưởng cộng sản soi rọi, như chiếc đũa thần kì ban phép lạ, làm bừng tỉnh, giúp con người đốn ngộ chân lí của cuộc sống. Trước “Từ ấy”, Tố Hữu đã từng bế tắc và tăm tối:

Băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời
Vẩn vơ mãi theo vòng quanh quẩn
Muốn thoát, than ôi, bước chẳng rời
Bâng khuâng đứng giữa đôi dòng nước
Chọn một dòng hay để nước trôi

Từ bóng đêm của cuộc đời cũ, Tố Hữu đã đón nhận ánh sáng lý tưởng Đảng. Lý tưởng Đảng đã chiếu rọi và làm bừng sáng về mặt trí tuệ, bồi dưỡng tình cảm cho con người. Vì thế hai tiếng “Từ ấy” không chỉ là tiếng lòng riêng của Tố Hữu mà nó ngân nga với mọi cuộc đời chung. Phải thấu hiểu được nỗi băn khoăn trong quá trình tìm đường và nhận đường của người thanh niên Nguyễn Kim Thành trước đó mới có thể cảm nhận được phần nào niềm vui lớn lao mãnh liệt khi được giác ngộ.

Nhà thơ đã gọi lý tưởng cộng sản bằng những hình ảnh ẩn dụ rực rỡ và ấm nóng. Nắng hạ – thứ ánh nắng chói chang, rực rỡ, nồng nàn, có tác động mạnh mẽ đến tâm hồn thi sĩ. Với Tố Hữu, lý tưởng cộng sản còn là “mặt trời chân lí” – một nguồn sáng vô biên, bất diệt mang lại sức sống, nguồn ấm nóng dạt dào. Chân lí là những gì đúng đắn nhất đã được mọi người thừa nhận. “Mặt trời chân lí” là hình ảnh ẩn dụ ca ngợi lý tưởng cách mạng, ca ngợi chủ nghĩa cộng sản đã soi sáng tâm hồn, là mặt trời toả ánh sáng đúng đắn nhất, mạnh mẽ nhất. Từ “bừng” chỉ ánh sáng phát ra bất ngờ, đột ngột. “Chói” chỉ nguồn ánh sáng có sức xuyên thấu mạnh mẽ. Tố Hữu đã từng ca ngợi lý tưởng Đảng, ca ngợi Bác Hồ:

“Người rực rỡ như mặt trời cách mạng
Đêm tàn bay chập choạng dưới chân Người”.

“Mặt trời chân lí” cũng là “Mặt trời cách mạng” Tố Hữu đã đón nhận lý tưởng Đảng, lý tưởng cách mạng bằng trí tuệ. Người thanh niên ấy đã nhận ra đâu là tốt đẹp, là nghĩa của đời phải vươn tới. Nói cách khác, nhà thờ hiểu được bản chất cuộc đời, đâu là đúng, đâu là sai. Trong khi biết bao nhiêu con người cùng trang lứa chưa dễ gì nhận ra lý tưởng Đảng, Tố Hữu đã chủ động đón nhận. Điều đó chứng tỏ, Tố Hữu phải là con người tỉnh táo, sáng suốt. Lý tưởng Đảng đã xua tan nhận thức mờ tối, mở ra trong tâm hồn nhà thơ một chân trời mới.

Tố Hữu không chỉ đón nhận lý tưởng Đảng bằng trí tuệ mà bằng cả tình cảm rạo rực, say mê, sôi nổi nhất. Hồn người đã trở thành vườn hoa, một vườn xuân đẹp ngào ngạt hương sắc, rộn ràng tiếng chim hót. Một mảnh vườn hoa lá chắc hẳn phải là mảnh vườn xanh tươi, tràn trề nhựa sống, có lá có hoa lại ngọt ngào hương sắc, Có chim hót rộn ràng: “Rất đậm hương và rộn tiếng chim”.

Mảnh vườn ấy được so sánh như tâm hồn nhà thơ. Phải chăng tâm hồn ấy tràn ngập niềm vui, niềm say mê, náo nức trẻ trung sôi nổi với cảm hứng lãng mạn tràn đầy trong buổi đầu tiếp nhận lý tưởng Cộng sản. Tố Hữu sung sướng đón nhận lý tưởng cộng sản cũng như cỏ cây đón nhận ánh sáng mặt trời. Lý tưởng cộng sản đã mang lại sức sống và niềm tin yêu cuộc đời cho con người. Đó cũng là giọng điệu chung của thơ Tố Hữu. Sau này khi viết về lý tưởng cộng sản, Tố Hữu cũng say sưa như thế:

“Rồi một hôm nào, tôi thấy tôi
Nhẹ nhàng như con chim cà lơi
Say đồng hương nắng vui ca hát
Trên chín tầng mây bát ngát trời”

(Nhớ đồng)

Vì thứ ánh sáng kì diệu ấy của lý tưởng cộng sản mà Tố Hữu luôn mang trong mình một chân lí bất diệt:

“Trái tim anh chia ba phần tươi đỏ
Anh dành riêng cho Đảng phần nhiều”

Có thể nói đây là khổ thơ hay nhất, đậm đà màu sắc lãng mạn nhất trong thơ Tố Hữu. Ngoài việc sáng tạo hình ảnh ẩn dụ “Mặt trời chân lý”, hình ảnh so sánh “vườn hoa lá”, cũng được tác giả lựa chọn, sử dụng từ ngữ rất chính xác, hình tượng và gợi cảm: “bừng; “chói”; “đậm”; “rộn”… Để diễn tả thật hay niềm say mê lý tưởng mà Đảng đã cho tôi sáng mắt sáng lòng.

Niềm vui lớn dẫn đến sự chuyển biến về lẽ sống. Như một sự tự nhiên, yêu nước, bắt gặp chủ nghĩa Mác – Lê nin, người thanh niên trí thức sau phút giây bừng ngộ về lẽ sống, hạnh phúc vì như được hồi sinh trong tâm hồn, là thức nhận về hành động của mình:

“Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải tới trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời”

Cả khổ thơ là một ý thức tự nguyện mới mẻ của người thanh niên xuất thân từ gia đình thuộc tầng lớp trung lưu. Đó không hẳn chỉ là lí trí bởi người đọc nhận thấy sự chân thành trong cách nói. Giọng thơ sôi nổi trong các điệp từ đầu câu, trong sự tiếp nối của dòng ý thức, trong cách bộc lộ trực tiếp, tạo nên sự hồn nhiên thành thực của người thanh niên say mê lý tưởng. Dưới ánh sáng lý tưởng cộng sản chủ nghĩa nhà thơ thấy tâm hồn mình gắn bó với nhân dân lao khổ. Các động từ-vị ngữ như “buộc”, “trang trải”; “gần gũi”… diễn tả tình bạn gắn bó thiết tha của người chiến sĩ cách mạng với quần chúng cần lao. Các từ ngữ “mọi người”, “trăm nơi”, “bao hồn khổ”… chỉ số đông nhân dân cần lao mà nhà thơ hướng tới để xây dựng “khối đời” chung, khối liên minh Công – nông ngày thêm mạnh, thêm gần gũi, chặt chẽ.

Ba chữ “tôi” xuất hiện trong khổ thơ 3 thể hiện một tình cảm chân thành, tiếng nói trái tim của người cách mạng. Chủ nghĩa cá nhân luôn luôn đối lập với chủ nghĩa Cộng sản, cái tôi nhỏ bé hoàn toàn đối lập với mọi người. Đó là những biểu hiện cụ thể của lối sống giai cấp tư sản và tiểu tư sản trước cách mạng. Khi thực sự được giác ngộ lý tưởng cách mạng của giai cấp vô sản.

Tố Hữu biểu hiện và khẳng định quan niệm mới về lẽ sống. Đó là sự gắn bó giữa cái tôi riêng và cái ta chung: “Tôi buộc lòng tôi với mọi người” thể hiện sự gắn bó đó hoàn toàn có tính tự nguyện vượt qua giới hạn của cái tôi để chan hoà với mọi người. Đó là biểu hiện tình thương với những người nghèo khổ. Hai tiếng “hồn khổ” giúp người đọc liên tưởng tới quần chúng lao khổ.

Giác ngộ lý tưởng cộng sản ở Tố Hữu nghĩa là giác ngộ lập trường giai cấp, từ bỏ cái tôi cá nhân của giai cấp tiểu tư sản để hoà nhập với khối đời chung của nhân dân lao khổ. Dù sao quan niệm mới mẻ của Tố Hữu đã chứng tỏ nhà thơ đã thoát khỏi cái tôi cô đơn bế tắc, gắn bó với giai cấp cần lao, tìm thấy niềm vui và sức mạnh ngay trong cuộc đời. Đặc biệt, Tố Hữu khẳng định mối liên hệ sâu sắc giữa thơ nói riêng và văn học nói chung với cuộc sống. Nhất là cuộc sống của nhân dân lao khổ.

Sống cùng thời đại nhà thơ có nhiều thanh niên chán nản đã quay lưng lại với cuộc đời để thu mình trong cái tôi cô đơn. Như Chế Lan Viên:

“Với tôi tất cả như vô nghĩa
Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau.”

Lẽ sống của người chiến sĩ cộng sản, của một thi sĩ lớn luôn hướng về phía đất nước nhân dân và thấm thía sức mạnh của nhân dân với đất nước như mối liên hệ bền chặt giữa nghệ sĩ với cuộc đời, nghệ thuật với cuộc sống. Đó cũng là lẽ sống của biết bao chiến sĩ cùng thời, Xuân Diệu đã từng tâm sự:

“Tôi cùng xương thịt với nhân dân
Cùng đổ mồ hôi cùng sôi nước mắt
Tôi sống với cuộc đời chiến đấu
Của triệu người yêu dấu cần lao”

Mốc thời gian để khẳng định tình cảm lớn của nhà thơ Tố Hữu. Trước bước ngoặt quan trọng của cuộc đời, người chiến sĩ Cộng sản trẻ tuổi như nhìn lại một chặng đường đã đi qua, thấu suốt đời sống tình cảm, chiêm nghiệm về vốn sống và thấy:

“Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm cù bất cù bơ”

Khổ thơ cuối với cách diễn tả trùng điệp, các từ “con”, ”em” xuất hiện liên tục,giọng thơ càng trở nên sôi nổi thiết tha. Đây là thể hiện sự chuyển biến sâu sắc trong tình cảm của Tố Hữu. Nhà thơ khẳng định mình là con người gần gũi thân thiết, là thành viên của đại gia đình lao khổ. Các từ “đã là”, “là con”, “là em”, “là anh” diễn tả tình cảm đầm ấm, thiết gắn bó và gần gũi biết bao cùng “với vạn nhà”, “vạn kiếp phôi pha”, “vạn đầu em nhỏ” cho thấy người chiến sĩ cách mạng sống trong lòng nhân dân, được nhân dân yêu thương, đùm bọc, chở che để khơi dậy sức mạnh nhân dân đứng lên đấu tranh cho hạnh phúc, cho độc lập, tự do của dân tộc.

Cái tôi trữ tình ở đoạn thơ hiện lên với trạng thái đa nhân cách, đem lại cho người đọc cùng lúc nhiều ấn tượng. Trên hết là sự ngưỡng mộ con người trẻ tuổi khi bắt gặp và nhận ra lý tưởng, con đường đi của đời mình và đặt ra những bước chân vững chắc trên con đường với những con người cùng khổ. Nhà thơ đồng cảm, yêu thương, san sẻ cùng với những con người ấy bằng cả trái tim bằng cả những tình cảm ruột thịt của bản thân. Và càng yêu thương, càng căm giận những điều bất công, tác giả càng hăng hái hoạt động cách mạng, hoạt động nghệ thuật. Và cũng vì lẽ đó mà Tố Hữu đã trở thành “nhà thơ của vạn nhà, buộc lòng mình cùng nhân loại” (Chỉ Lan Viên). Bài thơ có kết thúc ngỏ như mở ra ở người đọc những cảm xúc về tình thần nhân loại, dành chỗ cho hành động.

Bài thơ là niềm vui giác ngộ lý tưởng thể hiện nhận thức mới mẻ về lẽ sống và những chuyển biến về tình cảm sau khi nhà thơ bắt gặp lý tưởng cách mạng. Từ ấy còn là lời tuyên bố về lẽ sống và lý tưởng nghệ thuật của tác giả. Sau này nhớ lại thuở Từ ấy, Tố Hữu viết: “Từ ấy là tâm hồn trong trái của tuổi người tin đồn mươi, đi theo lý tưởng cao đẹp, dám sống, dám đấu tranh Từ độ không chỉ là tình cảm của riêng Tố Hữu với Đảng mà là tâm trạng của một thế hệ thanh niên các mạng được Đảng giác ngộ và dìu dắt để gánh vác sự nghiệp giải phóng dân tộc những năm đất nước còn dưới ách thực dân phong kiến”.

Nhà thơ đã xây dựng những hình ảnh thơ tươi sáng, giàu sức sống như hình ảnh mặt trời chân lí, nắng hạ, vườn hoa lá. Bên cạnh đó, thi sĩ đã sử dụng nhuần nhuyễn những biện pháp tu từ truyền thống như ẩn dụ, so sánh, điện từ ngữ, ngôn ngữ thơ giản dị giàu tính nhạc. Giáo sư Đặng Thai Mai gọi tập thơ Từ ấy là “bó hoa lửa lộng lẫy nồng nàn nở ra từ cuộc cách mạng vĩ đại của dân tộc”.

  • Kết bài:

Dẫu còn những nét hồn nhiên của cái nhìn về lý tưởng cách mạng, về lẽ sống, về cách mạng, dẫu còn những nhận thức đơn giản về những người lao khổ song trong thời điểm những năm 30 của thế kỉ trước, khi biết bao người bế tắc trong cảm giác lạc loài, thiếu quê hương hay quẩn quanh trong cái tôi cô đơn, nhỏ bé. Thì Tố Hữu vẫn chứng mình cho mọi người thấy những nét đẹp, những chân lí sáng lời của lí tưởng cách mạng đã giúp chàng thanh niên may mắn thấy được cuộc sống mới, cuộc đời mới trong niềm hạnh phúc của tuổi trẻ.


Tham khảo:

Cảm nhận lý tưởng sống của người chiến sĩ cách mạng trong bài thơ Từ ấy.

  • Mở bài:

Thơ Tố Hữu là thơ củạ một chiến sĩ cách mạng, một nhà thơ có lí tưởng. Tố Hữu làm thơ trước hết là để ca ngợi cách mạng, ca ngợi Đảng và khẳng định lí tưởng cộng sản chủ nghĩa. Lí tưởng đã đem lại mục đích cho cuộc đời nhà thơ, cùng lí tưởng ấy đã đem lại lẽ tồn tại và sức sống cho hồn thơ ông. Trong “Từ ấy”, Tố Hữu thường dùng những từ ngữ đẹp nhất để gọi tên lí tưởng. Đó là “mắt thần chủ nghĩa”… Tất cả những tên gọi khác nhau đó đều có chung một nghĩa chủ đạo: sự soi sáng, dẫn dắt, vạch hướng; chung một sắc thái biểu cảm cơ bản: sắc thái thành kính, ân tình.

  • Thân bài:

Cảm hứng đối với lí tưởng là nguồn cảm hứng mạnh mẽ quán xuyến suốt tập thơ Tố Hữu. Ở đây có cái náo nức, rạo rực của tuổi trẻ bắt gặp ánh sáng, niềm hân hoan trước lí tưởng cuốn theo sự đồng cảm của người đọc đến mức không cưỡng lại được và lòng tin sắt đá vào lí tưởng đủ sức bất chấp mọi thứ trên đời.

Cảm động biết bao là buổi đầu gặp gỡ, trong hoàn cảnh đạt nước còn nô lệ, kẻ thù tung ra đủ thứ bùa mê hòng đánh lạc hưởng đấu tranh của quần chúng, hoặc đe dọa bằng súng gươm, bạo lực… Buổi đầu, Tố Hữu phải trải qua một thời gian “băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời”. Nhưng một biến cố lịch sử vĩ đại đã xảy đến, quyết định vận mệnh của đất nước, của thế hệ nhà thơ: phong trào yêu nước từ 1930 trở đi có Đảng lãnh đạo. Và lí tưởng cộng sản đã đến với Tố Hữu, chói chang, rực rỡ, như mặt trời xua tan đêm tối, như nguồn sống vô tận tiếp cho tâm hồn nhà thơ đơm hoa, kết trải, hun đúc trong anh bao nhiêu khát vọng nồng nàn vươn đến một thế giới ngập tràn ánh sáng. Tố Hữu đã viết những dòng thơ cảm động nhất về cái buổi ban đầu không thể nào quên được ấy:

“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hường và rộn tiếng chim ”

Lí tưởng vừa lắng sâu, thấm tỏa trong tâm hồn nhà thơ, vừa trào lên theo dòng cảm xúc mãnh liệt thành những biểu tượng rực rỡ. Hình ảnh trong bon çâu thơ bừng sáng long lanh, có bao nhiêu là táo bạo, trẻ trung trong cái thế giới tâm hồn hân hoan, chói sáng ây. Duyên nợ giữa nhà thơ và lí tưởng là duyên nợ của mối tình đầu, khi đã bén rễ thì sẽ bền vững suốt đời, sẽ đi qua thử thách của thời gian nguyên vẹn, vượt lên mọi gian khó, hiểm nguy. Nhưng ở đây có cái gì lớn lao hơn, thiêng liêng hơn cả một mối tình, như là ân nghĩa tạo dựng sinh thành – bởi chính Đảng và lí tưởng của Đảng đã trực tiếp sinh ra nhà thơ cách mạng.

Người chiến sĩ cách mạng đã thấm nhuần lí tưởng của Đảng. Viễn cảnh lịch sử mà “Từ ấy” nêu lên làm lí tưởng rất cao đẹp, dài lâu. Lí tưởng của giai cấp vô sản, đó được xem là cái đích cuối cùng của chủ nghĩa cộng sản là một thế giới đại đồng chan hòa tình yêu thương:

“Rồi Xuân ấy cả nhân quần vui vẻ
Nắm tay nhau tuy khác tiếng, màu da
Giẫm chân lên những núi sông chia rẽ
Và ôm nhau thân ái cùng vang ca ”.

Nơi thế giới lí tưởng, con người vụt lớn lên, hào hùng, đầy sức mạnh “Xây thế giới cao quá trời xanh thẳm’’. Hình ảnh ấy trong sáng, đẹp như ước mơ và chính nó là ước mơ đẹp đẽ nhất, cao quý nhất mà loài người có thể nghĩ ra được. Nhưng mặt bên kia của vấn đề, hay nói đúng hơn, cái đích đầu tiên cần phải đạt đến, thành quả đầu tiên cần phải hái lấy, chướng ngại đầu tiên trên đường đi đến lí tưởng cần phải vượt qua là đập tan ách thống trị của kẻ thù dân tộc:

“Quyết hi sinh phá tan hết gông xiềng
Cho Tổ quốc muôn năm độc lập… ”

  • Kết bài:

Là nhà thơ đã chọn con đường Cách mạng từ thời thanh niên, trải qua những năm tháng tù đày, thơ của ông là tiêu biểu của quan niệm nghệ thuật Cách mạng. Ông quan niệm: “Muốn có thơ hay, trước hết, phải tạo lấy tình. Nhà thơ chân chính phải không ngừng phấn đấu, tu dưỡng về lập trường tư tưởng; xác định thật rõ ràng tầm nhìn, cách nhìn. Tự nguyện gắn bó chân thành là yêu cầu cao nhất đối với người nghệ sĩ trong quan hệ với đất nước, với nhân dân. Ngoài ra, các nhà thơ Cách mạng còn phải kiên quyết đấu tranh, không khoan nhượng trước những biểu hiện lệch lạc, với cái xấu cái ác. Tóm lại, viết thơ phải xứng đáng là người chiến sĩ xung kích trên mặt trận văn hóa tư tưởng.” Đây chính là đòi hỏi cấp thiết nhất của chủ nghĩa yêu nước. Nội dung cơ bản của lí tưởng trong “Từ ấy” chính là sự kết hợp hai chân lí lớn nhất của thời đại: độc lập dân tộc và chủ nghĩa công sảng cách mạng. Nhà văn cũng phải ở giữa cuộc đời, góp phần vào nhiệm vụ đấu tranh và phát triển xã hội.

Phân tích bài thơ Từ ấy của Tố Hữu

2 Trackbacks / Pingbacks

  1. Nhớ đồng (Tố Hữu) (Bài 2, Ngữ văn 11, tập 1, Kết Nối Tri Thức) - Theki.vn
  2. Phân tích bài thơ Nhớ đồng của Tố Hữu - Theki.vn

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.