Cảm nhận đoạn thơ:
“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”
(Việt Bắc – Tố Hữu)
* Gợi ý làm bài:
I. Mở bài:
– Giới thiệu ngắn gọn tác giả, tác phẩm và vấn đề nghị luận.
II. Thân bài:
Cảm nhận về đoạn thơ:
– Đoạn thơ là lời tâm tình, nhắn nhủ tha thiết giữa người ở lại và người ra đi. Người ở lại là đồng bào chiến khu Việt Bắc, người ra đi là những cán bộ kháng chiến từng gắn bó với quê hương cách mạng suốt mười mấy năm trời:
– Người ở lại với núi rừng nhạy cảm hơn về sự chia xa, cách biệt nên đã cất lên câu hỏi da diết, khắc khoải: “Mình về mình có nhớ ta… Mình về mình có nhớ không…” Mỗi câu hỏi là một lời nhắc nhớ về ân tình sâu nặng của mấy ngàn ngày kháng chiến: “Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”. Trên suốt hành trình đầy gian nan thử thách đó, quân với dân, miền ngược với miền xuôi… đã kề vai sát cánh, cùng nhau chia ngọt sẻ bùi… Trong lời hỏi của người ở lại còn chứa đựng lời nhắn nhủ thiết tha: Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn… mong mỏi người ra đi về với miền xuôi vẫn không quên núi rừng Việt Bắc…
– Người ra đi thấu hiểu nỗi niềm của người ở lại nên đã bày tỏ và khẳng định tình cảm sâu nặng dành cho đồng bào Việt Bắc:
“Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi”.
– Tâm trạng của những người kháng chiến trong phút giây từ biệt chiến khu cách mạng có sự đan xen, hòa quyện của niềm vui chiến thắng, hòa bình và nỗi buồn chia ly, xa cách. Trong đó, nổi bật nhất vẫn là tình cảm bùi ngùi, lưu luyến, nhớ thương dành cho người ở lại:
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau, biết nói gì hôm nay?
– Hình ảnh hoán dụ “áo chàm” vừa gợi cảm giác gần gũi, thân thương vừa tăng tính khái quát cho câu thơ. Phút “lặng im” chất chứa bao điều không thể diễn tả bằng lời. Đó cũng là khoảnh khắc kẻ ở, người đi thấu hiểu nỗi lòng nhau mà không cần phải giãi bày, thổ lộ…
Nhận xét ngắn gọn về tính dân tộc đậm đà của thơ Tố Hữu.
– Thơ Tố Hữu nói chung và Việt Bắc nói riêng đậm đà tính dân tộc cả trong nội dung và hình thức nghệ thuật.
+ Về nội dung: Ngợi ca nghĩa tình cách mạng của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến giữ nước, Tố Hữu đã tiếp nối, phát huy những truyền thống đạo đức cao quí của dân tộc.
+ Về nghệ thuật: sử dụng thể thơ lục bát truyền thống; kết cấu đối đáp mình – ta của ca dao, dân ca; ngôn ngữ mộc mạc, giản dị; vận dụng những phép tu từ quen thuộc của ca thơ ca dân gian; giai điệu thơ ngọt ngào, sâu lắng; sử dụng các từ láy, dùng vần và phối hợp các thanh điệu… kết hợp với nhịp thơ tạo thành nhạc điệu phong phú, diễn tả nhạc điệu bên trong của tâm hồn mà ở bề sâu của nó là điệu cảm xúc và tâm hồn dân tộc.
III. Kết bài:
+ Đoạn trích (và bài thơ Việt Bắc) đã thể hiện thành công nghĩa tình cách mạng thủy chung, sâu nặng của con người Việt Nam thời chống Pháp và tính dân tộc đậm đà của hồn thơ Tố Hữu.
+ Việt Bắc xứng đáng là đỉnh cao trên con đường thơ Tố Hữu và là một trong những thành tựu lớn của thơ ca cách mạng Việt Nam.
Tham khảo:
Cảm nhận tình cảm luyến lưu của nguwoif đi kẻ ở qua đoạn thơ: “Mình về mình có nhớ ta…. Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”
I. Mở bài :
– Tố Hữu là một nhà thơ tiêu biểu của thơ ca Cách mạng Việt Nam.
– “Việt Bắc” là một trong những bài thơ được xếp vào hạng những bài thơ “tống biệt” của Tố Hữu. Mặc dù là đề tài cũ nhưng bài thơ vẫn mới mẻ bởi “Việt Bắc” ra đời trong cuộc chia tay đặc biệt giữa nhân dân Việt Bắc và cán bộ kháng chiến vào tháng 10/1954.
– Ra đời trong hoàn cảnh ấy, bài thơ không mang cảnh trạng của một cuộc chia ly với nỗi buồn đầy nước mắt, mà là nỗi niềm chia ly trong tình cảm giữa cán bộ và nhân dân sâu đậm ân tình.
– Đoạn thơ mở đầu của bài thơ là sự thể hiện tinh tế và sâu sắc những rung động trong trái tim của người đi và người ở trong giờ phút phân li:
“Mình về mình có nhớ ta
….
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”.
II. Thân bài:
– Toàn đoạn thơ có 8 câu, được viết theo thể thơ lục bát với âm điệu nhẹ nhàng tha thiết mang âm hưởng của ca dao dân ca, là lời ướm hỏi và sự giãi bày nỗi niễm, cảm xúc của cả người đi lẫn người ở lại.
– Trước hết, mở đầu đoạn thơ là 4 câu thơ đầu là lời ướm hỏi chân thành của Việt Bắc với cán bộ kháng chiến trong giây phút ban đầu của cuộc chia tay:
“Mình về mình có nhớ ta.
…
Nhìn cây nhớ núi nhìn song nhớ nguồn”.
– Giọng thơ như chảy ra từ trong nguồn mạch của ca dao.
+ Cách xưng hô “mình – ta” cứ như lời bày tỏ tình yêu đôi lứa trong dân gian .Đại từ “mình” trong dân gian chỉ thể hiện ở cao trào của tình yêu khi hai con người hoá thân thành một. Ở đây, tác giả lấy phép màu nhiệm của tình yêu để cắt nghĩa, lý giải cho mối quan hệ gắn bó giữa các bộ với nhân dân.
+ Điệp ngữ và kết cấu câu hỏi tu từ “mình về mình có nhớ” được láy lại 2 lần như khơi vào trong kỷ niệm của người đi và người ở.
+ Cách dùng những từ ngữ gợi ý niệm về thời gian “mười lăm năm…” làm cho nỗi nhớ càng như thăm thẳm .Con số mười lăm nămvừa mang nghĩa thực, vừa mang nghĩa hư ảo : đó là mười lăm năm các mạng. mười lăm năm chiến khu Việt Bắc nhưng đồng thời cũng là mười lăm năm gắn bó thuỷ chung giữa cán bộ kháng chiến với nhân dân Việt Bắc (như mối tình Kim- Kiều qua bao nhiêu năm thử thách vẫn hướng về nhau).
+ Cách dùng hình ảnh gợi ý niệm về không gian “cây… núi”; “sông… nguồn” làm cho nỗi nhớ bồng bềnh, thăm thẳm. Các cặp hình ảnh “cây – núi”; “sông – nguồn” cũng vừa mang nghĩa thực, vừa mang nghĩa ảo gợi được không gian núi rừng Việt Bắc với những nét riêng, đặc thù. Ngoài ra, nó còn gợi lên tình cảm chung thuỷ trong mối quan hệ cội nguồn: Cán bộ từ dân mà ra, nhớ về nhân dân như nhớ về cội nguồn.
+ Cách liên tưởng so sánh trong bài thơ đã nới rộng về không gian của nỗi nhớ, làm cho kỷ niệm cứ được tuôn ra tầng tầng lớp lớp.
– Tiếp theo, 4 câu sau là sự thể hiện tâm trạng bâng khuâng, lưu luyến, bịn rịn của người đi với người ở lại:
“Tiếng ai tha thiết bên cồn
….
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”.
– Giây phút chia li trong tưởng tượng diễn ra cực kỳ sâu sắc với những cảm xúc ghìm nén trong tâm trạng của người đi :
+ Đại từ phiếm chỉ “ai” tạo nên một cõi mơ hồ, mông lung trong nỗi nhớ (như cách bày tỏ trong ca dao : Ai về ai có nhớ ai…).
+ Những từ láy “tha thiết”, “bâng khuâng”, “bồn chồn” diễn tả chính xác con sóng lòng đang dấy lên trong tâm hồn nhà thơ lúc phân li.
+ Hình ảnh hoán dụ “áo chàm” (chỉ người Việt Bắc) đã thể hiện tình cảm gắn bó của nhà thơ với những người dân Việt Bắc giản dị, nghèo khổ mà sâu đậm ân tình.
+ Cách ngắt nhịp 3/3; 3/3/2 ở hai câu thơ cuối đoạn diễn tả mộc cách thân tình cái ngập ngừng ,bịn rịn trong tâm trạng, trong cử chỉ của người đi kẻ ở vẫn quyến luyến không thể rời xa.
III. Kết bài:
– Có thể nói, đây là một trong những đoạn thơ hay nhất của bản tình ca Việt Bắc, bởi lẽ :
+ Nhà thơ đã miêu tả rất đúng quy luật nỗi nhớ trong tình cảm của con người ở vào giờ phút chia li: nỗi nhớ nào cũng làm cho thời gian đằng đẵng và không gian mênh mông. Nhớ nhau , người ta tính từng khoảng cách. Có điều ở đây, chưa chia li mà đã nhớ. Người còn đấy, cảnh còn đây, mặt đối mặt mà lòng đã bâng khuâng, lưu luyến.
+ Dù miêu tả tình cảm mang tính chất chính trị, nhưng đoạn thơ không khô khan, trừu tượng bởi tác giả nắm vững quy luật của tình đời, tình người. Chính vì thế, đoạn thơ (nói riêng) ; “Việt Bắc” (nói chung) đã vượt qua ranh giới của thời đại, thấm sâu vào hồn của người đọc qua nhiều thế hệ.