Cảm nhận tình yêu quê hương xứ Huế của Hoàng Phủ Ngọc Tường trong trang kí Ai đã đặt tên cho dòng sông?
- Mở bài:
Người ta nói sông Hương là dòng sông của thi ca quả thật không sai. Trần Hữu Pháp trong bài Dòng sông ai đã đặt tên đã từng viết:
“Dòng sông ai đã đặt tên
Để người đi nhớ Huế không quên
Xa con sông mang theo nỗi nhớ
Người ở lại tháng năm đợi chờ”
Còn nhà thơ Thu Bồn lại bồi hồi trong lần Tạm biệt Huế:
“Con sông dùng dằng, con sông không chảy
Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu”.
Với bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông?, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đem đến cho sông Hương một diện mạo mới, một vẻ đẹp mới, vừa hết sức thân quen, lại vừa mới lạ vô cùng; qua đó thể hiện tình yêu quê hương xứ Huế rất sâu sắc của Hoàng phủ Ngọc Tường.
- Thân bài:
Hoàng Phủ Ngọc Tường sinh ra, lớn lên và trưởng thành ở Huế. Ông là nhà văn chuyên viết về bút kí – một thể loại thể hiện sự phóng túng, bộc lộ được cái tôi tác giả, mang đậm chất tự sự, chất lãng mạn. Sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường luôn có sự kết hợp giữa chất trí tuệ và trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều với nhiều kiến thức phong phú về nhiều lĩnh vực. Lối hành văn chu đáo của ông là lối hành văn hướng nội súc tích, mê đắm và tài hoa. Điều này được thể hiện rõ nét trong Ai đã đặt tên cho dòng sông?
Tác phẩm ra đời như một sự cảm tạ đối với đất mẹ Huế, nơi sinh ra nhà văn. Bút kí gợi ấn tượng cho người đọc ngay từ nhan đề tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông? nhan đề gợi sự hấp dẫn, cuốn hút, gợi trí tò mò, thể hiện sự ngỡ ngàng trước vẻ đẹp của sông Hương. Sông Hương thấm đẫm màu sắc của huyền thoại hay chính vẻ đẹp của sông Hương đã dệt nên nhiều huyền thoại xoay quanh con sông này.
Hoàng Phủ Ngọc Tường dã dành cho quê hương xứ Huế một tình yêu nồng thắm. Bằng ngòi bút tài hoa mang đậm tâm hồn Huế, tác giả đã viết lên vẻ đẹp sông Hương như vẻ đẹp kiều diễm của người con gái xứ Huế trong làn sương mờ ảo. Trước hết vẻ đẹp sông Hương được tác giả phát hiện qua cảnh sắc thiên nhiên, qua sự thay đổi chính dòng sông.
Thật vậy! Khi ở thượng nguồn, sông Hương hiện lên huyền bí, dữ dội, hoang sơ. Có lúc lại dịu dàng say đắm. Sông Hương được tác giả so sánh như bản hợp âm của những nốt bổng, trẩm để mãi mãi ngân nga vang vọng giữa đại ngàn của rừng già Trường Sơn. Sông Hương còn như cô gái Di – gan “phóng khoáng và man dại”. Chính rừng già tạo bản tính gan dạ, tự do, phóng khoáng cho sông Hương và chế ngự sức mạnh bản năng này.
Khi chảy qua rừng già, sông Hương mang vẻ đẹp của một sức sống trẻ trung mãnh liệt và hoang dại. Để rồi khi ra khỏi rừng già, sông Hương đã thay đổi. Sông Hương như đóng kín phần tâm hồn sâu thẳm của mình ở cửa rừng và “ném chìa khóa vào hang đá ở chân núi Kim Phụng”. Sông Hương lúc này mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở. Sông Hương đã thay đổi hẳn. Chính tác giả phải thốt lên: “Nếu chỉ mải mê ngắm khuôn mặt kinh thành của nó tôi nghĩ rằng người ta sẽ không hiểu một cách đầy đủ bản chất của sông Hương với cuộc hành trình gian truân mà nó đã vượt qua không thấu hiểu phần tâm hồn sâu thẳm của nó”.
Bằng óc quan sát tinh tế, trí tưởng tượng phong phú, bằng việc sử dụng nghệ thuật so sánh, nhân hóa táo bạo. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã phát hiện và khắc họa vẻ đẹp mạnh mẽ, trẻ trung đầy cá tính của dòng sông gợi lên ở người đọc những liên tưởng kì thú, gợi cảm, xác đáng, hấp dẫn.
Từ lúc ra khỏi rừng già, xuôi về đồng bằng phì nhiêu, hành trình của sông Hương vẫn nằm gọn trong tầm quan sát và miêu tả tài hoa của người nghệ sĩ. Hành trình này bắt đầu khi sông Hương trên đường tìm đến với Huế. Mở đầu cho hành trình này tác giả đã sử dụng nghệ thuật ẩn dụ thật táo bạo. Tác giả ví sông Hương như người con gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại. Và đồng bằng chính là người tình mong đợi đã đến đánh thức nó. Trên đường tìm gặp Huế, sông Hương “chuyển dòng một cách liên tục, vòng giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm”. Sông Hương thay đổi hướng chảy; đang chảy theo hướng nam – bắc qua điện Hòn Chén, vấp Ngọc Trảng rồi “vẽ đường cung thật tròn về phía đông bắc; ôm lấy chân đồi Thiên Mụ”. Sông Hương mềm mại được ví như người con gái đang kiếm tìm người tình mong đợi, tìm gặp thành phố tương lai của nó.
Từ đây, vẻ đẹp của dòng sông trở nên biến ảo vô cùng. Từ ngã ba tuần sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn, sắc nước trở nên xanh thẳm. Qua điểm cao Tam Thai, Vọng Cảnh người ta luôn nhìn thấy sông Hương mềm như tấm lụa. Những ngọn đồi này tạo nên những mảng phản quang nhiều màu sắc “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”. Dòng sông mang vẻ đẹp cổ kính trầm mặc như triết lí, như cổ thi khi chảy qua những rừng thông u tịch, những lăng tẩm đồ sộ của cố đô ở thượng lưu. Qua cái nhìn đầy lãng mạn của Hoàng Phủ Ngọc Tường, dòng sông Hương hiện lên như một cô gái dịu dàng mơ mộng đang khao khát đi tìm thành phố tình yêu thơ tiếng gọi vang vọng từ trái tim.
Bằng nghệ thuật so sánh cân đối, hài hòa đậm chất thơ, ngôn ngữ phong phú gợi hình, nhà văn đã khắc họa vẻ đẹp dòng sông huyền ảo, lung linh sắc màu để rồi trầm tư, dịu dàng gợi sự cổ kính trường phi.
Hành trành tiếp theo của sông Hương là chảy vào thành phố Huế. Ở chặng đường này tác giả miêu tả sông Hương gặp gỡ Huế như cuộc gặp gỡ của hai người yêu nhau, lâu ngày không gặp.
Vẻ đẹp của Huế hiện lên với cầu Tràng Tiền in trên nền trời nhỏ nhắn như vành trăng non. Đây là một trong những biểu tượng của Huế như mơ màng chờ đợi, như vẫy gọi dòng sông. Tiếp theo là đến những Cồn Hến, Cồn Giã Viên, những lăng tẩm của cố đô. Tổng thê Huế như một đô thị cổ, trải dọc hai bờ sông.
Đúng là Huế thật đẹp và thơ. Làm nên vẻ đẹp đó không thể không nói đến vẻ đẹp sông Hương ở chặng này. Mong đợi gặp người tình Huế, khi mới đến ngoại ô Kim Long, biết là tìm đúng đường về, sông Hương vui tươi hẳn lên. Dòng sông kéo một nét thực thảng theo hướng tây nam – đông bắc. Ở Cồn Giã Viên sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ nhàng sang Cồn Hiến, khiến dòng sông mềm mại hẳn đi “như một tiếng vâng không nói ra của tình yêu”. Ở đoạn này, sông Hương hiện lên e thẹn, ngượng ngùng khi gặp người tình mong đợi và thể hiện sự thuận tình, bằng lòng mà không nói ra.
Sông Hương và Huế đã hòa làm một. Sông Hương làm nên vẻ đẹp mộng mơ nghìn năm cổ tích của Huế. Còn Huế làm nên vẻ đẹp trầm tư, sâu lắng của sông Hương. Sông Hương với nhiều nhánh sông đào mang nước đi khắp nơi. Sức mạnh dữ dội của sông Hương ở thượng nguồn giờ đã được điều hòa vào với Huế. Lưu tốc của dòng nước sông Hương giảm hẳn. Khi đi qua thành phố Huế sông Hương chảy “trôi đi chậm, thực chậm, cơ hồ chỉ còn là mặt hồ yên tĩnh” thể hiện khát vọng được tác giả cảm nhận như cuộc hội ngộ của tình yêu.
Tác giả đã khám phá, phát hiện vẻ đẹp sông Hương từ góc độ tâm trạng để thấy sông Hương gặp thành phố Huế như đến với điểm hẹn của tình yêu sau hành trình dài vất vả, gian truân. Vì vậy, sông Hương ở đây vui tươi, dịu dàng, mềm mại, thẹn thùng như người con gái đứng trước người tình của mình. Nghệ thuật so sánh đầy mới lạ, bất ngờ khiến sông Hương trở nên có linh hồn, tràn trề sự sống như một cô gái si tình đang say đắm trong tình yêu. Hội ngộ, gắn bó để rồi phải chia tay. Sông Hương chia tay với Huế thật bịn rịn, lưu luyến bâng khuâng. Đây là sự lưu luyến bịn rịn của đôi tình nhân “như sực nhớ lại một điều gì chưa kịp nói, nó đột ngột đổi dòng, rẽ ngoặt sang hướng đông tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ”. Sông hương được tác ví như nàng Kiều trong đêm tình tự với chàng Kim với nỗi vấn vương, lẳng lơ kín đáo của tình yêu, như tấm lòng chung tình của người dân ở Châu Hóa với quê hương xứ sở. Ngã rẽ ấy, chỗ ngoặt ấy như lời thề của sông Hương với Huế ; người tình trước khi về với biển cả bao la. Sông Hương – Huế vốn đã đẹp, mộng mơ như qua cái nhìn, cách khám phá miêu tả của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương – Huế trở nên có tâm hồn, sống động, tràn trề sức sống đầy lãng mạn tình tứ.
Tuy nhiên, đó không chỉ đơn thuần là dòng sông của thiên nhiên, đó còn là dòng sông của văn hóa, dòng sông của thi ca, của âm nhạc. Dòng sông Hương hiện nên như dòng sông âm nhạc khi tác giả miêu tả sông Hương như một người tài tử đánh đàn lúc đêm khuya. Sông Hương mượt mà với những vẻ đẹp nhìn từ góc độ văn hóa và thi ca.
Sông Hương thực sự trở thành nguồn cảm hứng vô tận cho âm nhạc và thi ca, và chính dòng sông cũng chính là bản nhạc êm đềm, những khúc tình ca xao xuyến lòng người. Nhà văn cho rằng có một dòng thi ca về sông Hương, một dòng thơ không bao giờ lặp lại mình. Mỗi thi nhân đều tìm cho mình một cảm hứng mới mẻ, độc đáo về dòng sông. Nguyên nhân không chỉ xuất phát từ cảm nhận chủ quan của thi sỹ mà còn vì những vẻ đẹp phong phú, biến ảo của dòng sông.
Qua cách cảm nhận độc đáo và lãng mạn, nhà văn đã coi sông Hương là cội nguồn sinh thành của nền âm nhạc cổ điển xứ Huế. Sự thơ mộng của sông Hương trong đêm, tiếng nước rơi trầm bổng từ những mái chèo khuya thánh thót khiến nhà văn liên tưởng đến “phiến trăng sầu” của Nguyễn Du trong những đêm dạo thuyền trên sông Hương, nhớ đến giai điệu du dương của Tứ đại cảnh, một bản nhạc cổ về Huế tương truyền do Tự Đức sáng tác.
Theo cảm nhận chủ quan với rất nhiều thiên vị của tình yêu, Hoàng Phủ Ngọc Tường cho rằng có lẽ vẻ đẹp buồn lãng mạn của sông Hương là nguyên nhân của nhiều liên tưởng về mối quan hệ kỳ diệu giữa dòng sông đêm, bản nhạc và câu thơ Nguyễn Du. Chính sông Hương là nơi sinh thành ra toàn bộ nèn âm nhạc cổ điển của Huế. Sông Hương gợi cảm hứng để Nguyễn Du viết lên khúc đàn của Kiều:
Trong như tiếng hạc bay qua
Đục như tiếng suối mới sa nửa vời
Dòng Hương Giang còn là đề tài gợi cảm hứng cho các nghệ sĩ để tạo nên một dòng thi ca về sông Hương. Dòng thi ca về sông Hương khôn bao giờ tự lặp lại mình bởi mỗi nghệ sĩ có khám phá riêng về nó. Từ Hương Giang xanh biếc hằng ngày, nó thay màu thực bất ngờ trong thơ Tản Đà:
“Dòng sông trắng – là cây xanh”
(Chơi Huế – Tản Đà)
Từ dòng tha thiết êm đềm, mơ màng, sông Hương chợt nhiên hùng tráng như “kiếm dựng trời xanh” khí phách hào hùng trong thơ Cao Bá Quát. Để rồi chuyển thành nỗi “quan hoài vạn cổ” trong thơ Bà Huyện Thanh Quan hay trở thành sức mạnh phục sinh của tâm hồn thơ Tố Hữu. Sông Hương thực sự đã đem đến nguồn cảm hứng mới mẻ, bất tận cho các thi nhân. Không chỉ thế, dòng sông gắn liền với những phong tục, với vẻ đẹp tâm hồn của người dân xứ Huế. Điều đó được tác giả khám phá qua màu sương khói trên sông Hương giống như màu áo điều lục một sắc áo cưới của các cô dâu trẻ trong tiết sương giáng. Hay vẻ trầm mặc sâu lắng của sông Hương như một nét riêng – rất riêng của tâm hồn con người xứ Huế “rất dịu dàng và rất trầm tư…”
Tiếp tục cuộc hành trình khám phá vẻ đẹp sông Hương, tác giả đem đến cho người đọc vẻ đẹp sông Hương gắn liền với lịch sử hào hùng của mảnh đất cố đô. Sông Hương là dòng sông của sử thi là niềm tự hào của đất nước. Sử thi mà trữ tình, bản hùng ca mà cũng là bản tình ca dịu dàng tươi mát. Đó là nét độc đáo của xứ Huế, của sông Hương được tác giả khám phá và khắc họa từ góc độ lịch sử. Để khái quát vẻ đẹp sông Hương trong lịch sử của mảnh đất cố đô, tác giả đã xây dựng sông Hương như một người con gái anh hùng, khi Tổ quốc gọi, nó tự biết hiến đời mình làm một chiến công.
Đó là lần theo thời gian lịch sử, tác giả lùi về quá khứ xa xưa thời các vua Hùng, sông Hương hiện nên là một dòng sông biên thùy xa xôi của đất nước. Rồi đến thế kỉ XV, XVI, sông Hương đã “chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía Nam Đại Việt” hay “vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân của anh hùng Nguyễn Huệ”. Để rồi, trong kháng chiến chống Pháp, sông Hương chứng kiến những bi thương của phong trào khởi nghĩa Cần Vương và lập lên chiến công oanh liệt trong Cách mạng tháng Tám. Trong kháng chiến chống Mĩ, tết Mậu Thân, sông Hương góp sức mình vào chiến dịch này, mong muốn giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Nhìn lại toàn bài kí, chúng ta ai cũng nhận ra bài kí mở đầu và kết luận bằng một câu hỏi “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”. Nếu nhan đề đó là một câu hỏi gợi sự cuốn hút, lôi cuốn độc giả đồng thời thể hiện tình cảm ngưỡng mộ, ngỡ ngàng, thái độ trân trọng ngợi ca của tác giả về sông Hương, với Huế thì chính nội dung bài kí là câu trả lời. Chính con người đã đặt tên cho dòng sông như gửi gắm vào đấy tất cả những ước vọng muốn đem cái đẹp và tiếng thơm để xây đắp văn hóa và lịch sử như tác giả từng lí giải.
Đoạn trích bài bút ký mang đậm phong cách của thể tùy bút vì chất tự do phóng túng và hình tượng cái “tôi” tài hoa, uyên bác của Hoàng Phủ Ngọc Tường, một hồn thơ thực sự trong văn xuôi với trí tưởng tượng lãng mạn và những cảm xúc sâu lắng. Từ tình yêu say đắm với dòng sông quê hương, từ những hiểu biết phong phú về văn hóa, lịch sử, địa lý, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã làm hiện lên những vẻ đẹp khác nhau của sông Hương trong một văn phong tao nhã, hướng nội, qua đó người đọc nhận ra tình yêu và sự gắn bó tha thiết của một trí thức yêu nước với cảnh sắc quê hương và lịch sử dân tộc.
- Kết bài:
Ai đã đặt tên cho dòng sông? được đánh giá là bài kí hay nhất viết về vẻ đẹp sông Hương, cố đô Huế thân yêu. Bài kí thể hiện tình yêu thiết tha đến say đắm của tác giả đối với cảnh và người xứ Huế, đồng thời thể hiện phong cách viết kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Đó là sự phóng túng, tài hoa, am hiểu kiến thức về văn hóa, lịch sử, địa lý, văn chương, với cảm hứng ngợi ca. Bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? như lời cảm tạ của tác giả đối với đất mẹ Huế nơi nuôi dưỡng tâm hồn nhà văn.
- Phân tích ý nghĩa và giá trị bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng phủ Ngọc Tường
- Vẻ đẹp của dòng sông Hương dưới góc nhìn nghệ thuật trong “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ Ngọc Tường
- Phân tích vẻ đẹp của sông Hương qua ngòi bút của Hoàng Phủ Ngọc Tường trong tác phẩm “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”
- Cảm nhận vẻ đẹp hùng vĩ, hiểm trở vừa hung bạo vừa thơ mộng, trữ tình của con sông Đà trong tùy bút “Sông đà” của Nguyễn Tuân
Cảm ơn tác giả nhiều