»» Nội dung bài viết:
Kiến thức văn bản
– “Chuyện người con gái Nam Xương” thuộc tác phẩm Truyền kì mạn lục (ghi chép tản mạn những điều kì lạ vẫn được lưu truyền), được viết ở thế kỉ XVI. Chuyện người con gái Nam Xương có nguồn gốc từ truyện cổ dân gian “Vợ chàng Trương”, là thiên thứ 16 trong 20 truyện của Truyền kì mạn lục.
– Dựa trên một câu chuyện dân gian về một nỗi oan khuất của một người thiếu phụ, Nguyễn Dữ đã viết về phẩm chất và số phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ, đồng thời lên án, tố cáo lễ giáo phong kiến hà khắc đã không cho người phụ nữ được bảo vệ mình.
Truyện được đánh giá là một áng “thiên cổ kì bút”, phản ánh sinh động về thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
Câu 1: Giới thiệu về tác giả Nguyễn Dữ và tác phẩm Truyền kì mạn lục
* Tác giả Nguyễn Dữ.
– Tác giả Nguyễn Dữ hiện chưa rõ năm sinh năm mất, sống vào khoảng thế kỉ XVI, là người huyện Trường Tân, nay là huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương.
– Thời ông sống, triều đình nhà Lê đã bắt đầu khủng hoảng suy thoái, các tập đoàn phong kiến tranh giành quyền lực gây ra liên tiếp các cuộc nội chiến kéo dài. Có giả thiết cho rằng ông là học trò của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Cha ông là tiến sĩ đời Lê Thánh Tông, bản thân ông cũng là người học rộng, tài cao nhưng giống như nhiều trí thức đương thời, ông chỉ làm quan một năm rồi xin về quê ẩn dật.
* Tác phẩm Truyền kì mạn lục.
– Truyền kì mạn lục bằng chữ Hán theo lối biền ngẫu xen những bài thơ, cuối mỗi truyện thường có lời bình của tác giả.
– Tác phẩm là bức tranh thực tại về xã hội đầy rẫy tệ nạn, bất công, và những người phụ nữ tài năng nhưng phải chịu nhiều khổ đau. Tác phẩm là lời nhấn mạnh về tình người, sự công bằng, và ước mơ về một xã hội yên bình. Truyện kì mạn lục là “thiên cổ tùy bút” của Việt Nam.
Nhà sử học Phan Huy Chú cho biết là “Truyền kì mạn lục” có 22 truyện nhưng hiện nay chỉ còn lại 20 truyện:
1. Câu chuyện ở đền Hạng Vương
2. Người nghĩa phụ ở Khoai Châu
3. Chuyện cây gạo
4. Chuyện gã Trà đồng giánh sinh
5. Chuyện kì ngộ ở Trại Tây
6. Chuyện đối tụng ở Long cung
7. Chuyện nghiệp oan của Đào thị
8. Chuyện chức Phán sự ở đền Tản Viên
9. Từ Thức lấy vợ tiên
10. Phạm Tử Hư lên chơi Thiên tào
11. Chuyện yêu quái ở Xương Giang
12. Chuyện đối đáp của người tiểu phu núi Na
13. Ngôi chùa hoang ở Đông Triều
14. Nàng Túy Tiêu
15. Bữa tiệc đêm ở Đà Giang
16. Người thiếu phụ Nam Xương
17. Lý tướng quân
18. Chuyện Lệ Nương
19. Cuộc nói chuyện thơ ở Kim Hoa
20. Tướng Dạ Xoa
Câu 2: Tóm tắt tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương
– Chuyện người con gái Nam Xương nói lên sự xót thương với những người phụ nữ tài sắc, đức hạnh mà chết oan trong bi kịch gia đình. Vũ Nương là một phụ nữ đảm đang, hiếu thảo, một mình nuôi dạy con thơ, phụng dưỡng mẹ già. Cái chết của Vũ Nương có giá trị tố cáo hiện thực sâu sắc, lên án chiến tranh phong kiến đã làm cho hạnh phúc lứa đôi phải li biệt, người vợ trẻ sống vất vả, cô đơn, lên án lễ giáo phong kiến khắt khe với tệ gia trưởng độc đoán, gây nên bi kịch gia đình, làm tan vỡ hạnh phúc. Vì lẽ đó, Chuyện người con gái Nam Xương có giá trị nhân đạo sâu sắc.
Qua “Truyền kì mạn lục”, người đọc mãi mãi thương cảm Vũ Nương, thương cảm những thân phận của người phụ nữ trong xã hội cũ.
Câu 3: Vũ Nương được giới thiệu như thế nào? Qua cách giới thiệu của tác giả, em thấy Vũ Nương là người như thế nào? Cách giới thiệu của tác giả về nhân vật chính như thế nào?
– Vũ Nương là người có tính thùy mị, nết na, tư dung tốt đẹp. Hơn thế nữa, nàng còn là người vợ thủy chung và là người con dâu hiếu thảo, người mẹ hiền. Tuy nhiên, nàng lại có số phận hết sức oan nghiệt.
– Những tính cách cơ bản của Vũ Nương:
+ Thủy chung: Trong cuộc sống vợ chồng, biết chồng có tính đa nghi, nàng luôn giữ gìn khuôn phép, không bao giờ để vợ chồng bất hòa. Khi tiễn chồng đi lính, Vũ Nương không mong chồng “được đeo ấn phong hầu” mà chỉ mong chồng “bình yên” trở về. Rồi đến khi xa chồng, sống trong cảnh đơn lẻ nên “mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi” thì nỗi nhớ chồng lại dâng đầy trong lòng nàng. Việc nàng trỏ bóng trên tường, bảo là “cha Đản” cũng chính là sự an ủi chính mình.
+ Hiếu thảo: Khi Trương Sinh đi lính, nàng đã thay chồng một mình tần tảo vừa chăm sóc mẹ chồng, vừa nuôi dạy con thơ. Mẹ chồng ốm, nàng “hết sức thuốc thang, lấy lời khuyên ngọt ngào khuyên lơn”... Khi mẹ chồng mất, nàng đau đớn, xót xa, lo việc ma chay như đối với cha mẹ đẻ. Lời nói của bà mẹ chồng trước khi mất là lời ghi nhận công ơn to lớn của Vũ Nương đối với gia đình chồng “Sanh kia quyết chẳng phụ con cũng như con đã chặng phụ mẹ”.
+ Hiền hậu: Tối tối, Vũ Nương trỏ bóng mình trên tường và bảo đó là “cha Đản”. Chi tiết chiếc bóng trên tường đầy ý nghĩa. Vũ Nương muốn an ủi con, bù đắp cho con sự thiếu vắng tình cha. Đồng thời cũng cho thấy được tấm lòng yêu con của người mẹ hiền
Câu 4: Em hãy tìm chi tiết miêu tả cử chỉ, lời nói của Vũ Nương khi tiễn chồng đi lính? Qua cử chỉ và lời dặn dò ấy giúp em hiểu gì về tình cảm của Vũ Nương với chồng ?
– Khi tiễn chồng ra lính: “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thể là đủ rồi. Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì, khiến cho tiện thiếp băn khoăn, mẹ hiền lo lắng. Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trồng liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình, thương người đất thú! Dù có thư tín nghìn hàng, cũng sợ không có cảnh không bay bổng”
– Qua lời thoại trên, có thể khẳng định nhân vật Vũ Nương là người con gái đẹp người,đẹp nết. Nàng là người không ham vinh hoa phú quý,luôn coi trọng sự an nguy của chồng cũng như hạnh phúc gia đình. Điều đó cho ta thấy nàng là một người vợ chung thủy, một lòng một dạ với người chồng,đồng thời thể hiện vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ VN thời phong kiến.
Câu 5: Tình cảm của Vũ Nương với mẹ chồng như thế nào? Theo em, vì sao Vũ Nương lại có thể chăm sóc mẹ chồng hết lòng như vậy?
– Vũ Nương là người con dâu hiếu thảo khiến ta thật cảm phục. Trương Sinh đi lính, mẹ gia vì nhớ thương con nên sinh đau ốm. Vũ Nương hết lòng yêu thương chăm sóc mẹ chồng , nàng dành những lời hết sức ngọt ngào để động viên, giành những hành động tràn đầy yêu thương để chăm sóc mẹ. Nàng lo thuốc thang lễ bái thân Phật dành những lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn. Khi mẹ chồng mất làm hết lời thương xót lo ma chay tế lễ hết sức chu đáo như đối với cha mẹ đẻ của mình. Tấm lòng hiếu thảo của nàng được mẹ chồng ghi nhận qua lời trăn trối cuối cùng xanh kia Quyết chẳng phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ.
– Thời xưa mối quan hệ hệ giữa mẹ chồng và nàng dâu không mấy khi suôn sẻ tốt đẹp ấy thế mà dường như giữa họ không hề có một chút khoảng cách có lẽ lòng hiếu thảo sự tận tâm của nàng đã làm cho mẹ chồng cảm động và luôn hy vọng con dâu của mình được sống hạnh phúc bình luận bình an suốt đời khi tất cả những hành động của nàng không chỉ xuất phát từ trách nhiệm của một người con dâu đối với mẹ chồng mà còn xuất phát từ trái tim yêu thương của nàng. Tấm lòng ấy của nàng làm rung động bao trái tim người đọc
Câu 6: Theo em nếu xét các đức tính cần có theo quan niệm phong kiến xưa kia của người phụ nữ (tam tòng tứ đức) thì nàng Vũ Nương đã có đủ chưa?
– Theo em nếu xét các đức tính cần có theo quan niệm phong kiến xưa kia của người phụ nữ (tam tòng tứ đức) thì nàng Vũ Nương đã có đủ trong cuộc sống gia đình với người chồng hay nghi kị, khi tiễn chồng đi lính, trong những năm tháng xa chồng, trong quan hệ với mẹ chồng, khi chồng trở về và bị chồng nghị oan, khi đã được thần linh cứu và được sống ở thế giới thần tiên.
Câu 7: Nguyên nhân nào dẫn đến bi kịch của Vũ Nương?
– Nguyên nhân trực tiếp:
+ Lời nói ngây thơ của bé Đản đã vô tình gây nên mối hiểu lầm của Trương Sinh.
+ Nguyên nhân đáng trách nhất để dẫn đến cái chết oan khuất của Vũ Nương đó là tính cách đa nghi, ít học của Trương Sinh. Khi nghe lời nói ngây thơ của con trẻ, chàng chẳng thèm suy xét đúng sai hay lắng nghe những lời phân trần mà vội vàng kết tội vợ mình. Chính sự hồ đồ, độc đoán, tệ bạc này của Trương Sinh là nguyên nhân quan trọng nhất đẩy Vũ Nương đến đường cùng không lối thoát. Nếu Trương Sinh là một người tỉnh táo và biết lắng nghe, suy xét, có lẽ bi kịch này sẽ không xảy ra.
– Nguyên nhân gián tiếp:
+ Do chế độ nam quyền độc đoán, một xã hội mà nam nữ không bình đẳng, hôn nhân không có tình yêu và tự do.
+ Do chiến tranh phong kiến phi nghĩa.
Câu 8: Phân tích ý nghĩa từng lời thoại của Vũ Nương đối với chồng ?
* Lần 1: Khi tiễn chồng đi lính
– Không trông mong vinh hiển, chỉ cầu cho chồng được trở về bình an. Lời dặn thể hiện nàng coi trọng hạnh phúc gia đình hơn mọi công danh phù phiếm: “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”
– Cảm thông sâu sắc với nỗi gian lao, nguy hiểm của chồng: “Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều con gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có mà mùa dưa chín quá kì, khiến cho tiện thiếp băng khoăn, mẹ hiền lo lắng”
– Thể hiện nỗi nhớ nhung khắc khoải của người vợ yêu chồng: “Nhìn trăng soi thành cũ lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang lại thổn thức tâm tình thương người đất thú! Dù có thư tín nghìn hàng cũng sợ không có cánh hồng bay bổng”
→ Đó là lời nói của người vợ thùy mị, dịu dàng và rất mực yêu chồng, đằm thắm, thiết tha. Lời dặn ấy xuất phát từ trái tim giàu tình yêu thương, biết chấp nhận những thử thách, biết đợi chờ để yên lòng người đi xa. Đồng thời còn giúp ta cảm nhận được khát vọng của người phụ nữ bình dị.
* Lần 2: “Thiếp vốn con kẻ khó được nương tựa nhà giàu được nương tựa nhà giàu. Sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa binh. Cách biệt ba năm giữ gìn mọt tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót. Đâu có sự mất nết hư thân như lời chàng nói. Dám xin bày tỏ để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp”
→ Nàng phân trần để chồng hiểu rõ lòng mình. Nàng đã nói đến thân phận, tình nghĩa vợ chồng, khẳng định tấm lòng thuỷ chung trong trắng, xin chồng đừng nghi oan, có nghĩa là nàng hết lòng hàn gắn hạnh phúc gia đình.
* Lần 3: “Thiếp sở dĩ nương tựa vào chàng vì có cái thú vui nghi gia nghi thất. Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió; khóc tuyết bông hoa rụng cuống, kêu xuân cái én lìa đàn, nước thẳm buồn xa, đầu còn có thể lại lên núi .Vọng Phu kia nữa”
→ Nàng đã nói lên nỗi đau đớn thất vọng khi không hiểu sao mình bị nghi oan, bị đối xử bất công. Đồng thời đó còn là sự tuyệt vọng đến cùng cực khi khao khát của cả đời nàng vun đắp đã tan vỡ. Tình yêu không còn. Cả nỗi đau khỏ chờ chồng đến hoá đá như trước đây cũng không còn có thể làm được nữa.
*Lần 4: “Kể bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu Mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ”.
→ Đây là lời độc thoại. Lời thoại là một lời than, một lời nguyền xin thần sông chứng giám nỗi oan khuất và tiết hạnh trong sạch của nàng. Lời thoại đã thể hiện nỗi thất vọng đến tột cùng, nỗi đau cùng cực của người phụ nữ phẩm giá nhưng bị nghi oan nên tự đẩy đến chỗ tận cùng là cái chết
Câu 9: Qua bi kịch của Vũ Nương, em có suy nghĩ gì về số phận của người phụ nữ xưa?
– Con người không làm chủ được vận mệnh của mình. Sống cam chịu, nhẫn nhục…(sự cam chịu, nhẫn nhục càng làm cho những bất công, ngang trái đè nặng lên cuộc đời, số phận của họ).
– Xã hội phong kiến với những luật lệ khắt khe, vô nhân đạo gây ra bao bất công cho người phụ nữ; chế độ đa thê gây bao cảnh oan trái đau lòng.
– Người phụ nữ buộc phải cam chịu, nhẫn nhục nên những bất công đó có điều kiện phát triển.
– Thế lực bạo tàn và lễ giáo phong kiện khắt khe đã chà đạp lên nhân phẩm người phụ nữ, mặc dù họ là những người phụ nữ đáng trân trọng trong gia đình và xã hội.
Câu 10: Em có nhận xét gì, suy nghĩ gì về hành động tự trầm mình xuống dòng sông tự vẫn của Vũ Nương
– Xung quanh cái chết của Vũ Nương có rất nhiều cách lý giải khác nhau. Hai ý kiến, một khẳng định do Trương Sinh cả ghen, một cho rằng do chiến tranh phong kiến đều có cơ sở. Tuy nhiên, mỗi ý kiến mới chỉ đúng ở một khía cạnh. Trương Sinh cả ghen là nguyên nhân trực tiếp dẫn tới cái chết của Vũ Nương: Nếu Trương Sinh biết kiềm chế nóng giận, sáng suốt suy xét, tin ở vợ chứ không tin vào sự ngây thơ của con trẻ… kết cục sẽ khác. Chiến tranh phong kiến là nguyên nhân gián tiếp dẫn đến cái chết của Vũ Nương.
– Có người nói, Vũ Nương chết khi Trương Sinh đã trở về, như vậy không thể nói là Vũ Nương chết do chiến tranh được. Hiểu như vậy là tách rời cái chết của Vũ Nương ra khỏi toàn bộ diễn biến câu chuyện. Chính Trương Sinh phải đi lính xa nhà nên mới xảy ra sự hiểu lầm đáng tiếc. Ngoài ra, do con thơ vô tình hại mẹ, do Vũ Nương yếu đuối, do lễ giáo phong kiến khắt khe… cũng góp phần đẩy Vũ Nương đến cái chết. Song, bao trùm và sâu xa hơn cả, đó là do chế độ xã hội phong kiến đã không bảo đảm được quyền sống, quyền hạnh phúc cho người phụ nữ. số phận họ mỏng manh; tai hoạ, oan khiến có thể giáng lên đầu họ bất cứ lúc nào vì những lý do không đâu mà không được bất kỳ sự bảo vệ nào.
– Như vậy, bi kịch của Vũ Nương đã vượt ra khỏi giới hạn bi kịch của một gia đình. Đó là bi kịch số phận của một lớp người trong xã hội. Giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của truyện cũng vì thế mà cỏ tầm khái quát cao hơn.
Câu 11: Em hãy phân tích ý nghĩa của cái bóng (được nhắc lại nhiều lần) trong tác phẩm?
– Cái bóng là 1 chi tiết nghệ thuật sáng tạo, độc đáo, giàu ý nghĩa. Chi tiết này xuất hiện từ đầu tác phẩm có tác dụng thắt nút câu chuyện( đẩy các mâu thuẫn đến đỉnh điểm). cái bóng xuất hiện trong lời nói đùa của Vũ Nương khi nói với người con. Những ngày xa cách, bé Đản luôn hỏi về bố, Vũ Nương chỉ cái bóng mình trên vách và nói với con đó là cha Đản. Trong những ngày tháng xa chồng, nàng luôn nghĩ về người chồng yêu dấu, trong suy nghĩ của nàng, chồng luôn ở bên cạnh, vợ chồng như hình với bóng. vậy mà không ngờ một lời nói đùa trong thương nhớ laị trở thành sợi dây vô tình, oan nghiệt thắt chặt cuộc đời nàng.
– Chi tiết cái bóng không chỉ có tác dụng thắt nút câu chuyện, mà điều thú vị là cũng chính câu chuyện này lại mở nút câu chuyện.Vũ Nương được giải oan cũng như hình tượng cái bóng: một đêm phòng không vắng vẻ, bé đản chỉ bóng cha mình trên vách nói rằng cha đản lại đến. Trương Sinh bây giờ mới ngộ tỉnh ra, thấu hiểu nỗi oan của vợ, mâu thuẫn câu chuyện đã được giải quyết. Có thể nói rằng: cái bóng là một hình tượng nghệ thuật đạt tới sự hoàn chỉnh, là sự tập trung, khái quát hoá, hình tượng hoá sự hiểu lầm vô tình hay lưỡng ý của Trương Sinh. Chi tiết này tạo nên sự bất ngờ cho câu chuyện, nó góp phần làm nên thành công trong việc xây dựng tình huống truyện trong việc bộc lộ nội dung chủ đề của tác phẩm.
Câu 12: Tại sao tác giả lại thêm đoạn Vũ Nương sống dưới thuỷ cung?
– Tác giả lại thêm đoạn Vũ Nương sống dưới thuỷ cung để muốn nói rằng Vũ Nương dù khi sống hay lúc đã thác làm ma đều khát khao hạnh phúc gia đình. Nàng vì phải chịu nỗi oan cay nghiệt mà chết. Nhưng vì lòng thanh sạch mà được sống dưới thủy cung. Trong những ngày sống cuộc sống nơi cung nước, Vũ Nương vẫn không quên mong nhớ dương gian và thầm mong chồng sẽ giải oan cho nàng.
– Vũ Nương nhờ Phan Lang nhắn Trương Sinh lập đàn giải oan là để chính chồng nàng chiêu tiết cho nàng, và hiểu tấm lòng chung thủy của nàng. Âm dương cách trở, nàng chỉ hiện về trong thoáng chốc rồi biến mất. Qua chi tiết này tác giả không chỉ khắc họa sâu sắc bi kịch của Vũ Nương mà còn khẳng định một lần nữa vẻ đẹp tâm hồn của nàng. Lời thoại của Vũ Nương không trở về vì đã thề sống chết với đức Linh Phi còn chứng tỏ nàng là người sống tình nghĩa, đã mắc ân với Linh Phi thì nàng sẽ ở lại trả ân đức đó.
Câu 13: Sự tức giận của Trương Sinh khi nghe lời của bé Đản đã trút giận lên Vũ Nương có đáng trách không? Vì sao?
– Sự tức giận của Trương Sinh khi nghe lời của bé Đản đã trút giận lên Vũ Nương vừa đáng thương vừa đáng trách. Đáng thương vì nếu trong trường hợp người chồng đi xa về phát hiện vợ lăng loàn thì cũng khó có thể kiểm soát được bản thân. Nhưng đáng trách vì Trương Sinh đã giận quá mất không, dẫn đến sự việc đáng tiếc xảy ra với người vợ của mình. Chính vì thiếu lòng tin tưởng vợ cho nên khi giặc tan, chàng trở về, nghe câu nói ngây thơ của con trẻ, lòng ghen tuông của chàng trỗi dậy lấn át cả tình thương khiến chàng hành động mù quáng mà không cần quan tâm đến lời giãi bày, biện minh của vợ.
– Trương Sinh còn là một con người hết sức cố chấp, bảo thủ. Nếu đã tin tưởng điều gì thì chàng khó lòng mà thay đổi. Khi Vũ Nương van nài muốn chàng hiểu rõ nguồn cơn sự việc, chàng đã không nói. Bởi Trương Sinh tin tưởng chắc chắn vào điều mình nghĩ là sự thật và sợ nói ra Vũ Nương sẽ tìm lời mà thoái thác, phủ lấp sự việc. Hành động ích kỷ, đê tiện ấy của chàng đã đẩy Vũ Nương đến sự tuyệt vọng, khiến nàng phải lấy cái chết để chấm dứt nỗi ô nhục trong nỗi dày vò ghê gớm.
Câu 14: Qua nhân vật Trương Sinh, tác giả muốn phê phán điều gì ?
– Qua nhân vật Trương Sinh, tác giả muốn phê phán tính cách của người đàn ông gia trưởng, độc đoán và ích kỷ. Đồng thời phê phán là bản chất của xã hội phong kiến đương thời với chế độ phụ hệ. Mọi việc đều phải nghe theo sự sắp xếp của người đàn ông. Điều đó đã đấy những người phụ nữ rơi vào thảm cảnh.
Câu 15: Nguyên nhân sâu xa và nguyên nhân trực tiếp dẫn đến nối oan khuất của Vũ Nương?
* Trực tiếp:
– Do Trương Sinh một kẻ hồ đồ, vũ phu, hay ghen, đa nghi. Dù biết vợ nết na thủy chung vẫn luôn đề phòng quá mức, trước lời nói ngây thơ của bé Đản không cho Vũ Nương cơ hội giải thích, chính điều ấy đã bức tử Vũ Nương.
* Gián tiếp:
– Do chiến tranh phong kiến phi nghĩa khiến nhiều người phải rời mái ấm gia đình, chiến tranh đã chia cắt vợ chồng cha con, gây nên những hiểu lầm mà Vũ Nương phải gánh chịu.
– Vũ Nương chết do lời nói ngây thơ của đứa trẻ, do trò đùa chỉ vào bóng của mình của Vũ Nương.
* Sâu xa:
– Do xã hội phong kiến nam quyền thối nát, bất công coi trọng quyền uy của người giàu và người đàn ông trong gia đình. Cuộc hôn nhân của Vũ Nương ngay từ đầu đã chênh lệch về giai cấp, về khoảng cách giàu nghèo, về tính cách của Vũ Nương và Trương Sinh.
Câu 16: Viết đoạn văn nêu cảm nhận của em về nhân vật Vũ Nương
Vũ Nương trong “Chuyện người con gái Nam Xương” là một người phụ nữ hội tụ tất cả phẩm chất quý báu của phụ nữ truyền thống Việt Nam. Nàng không chỉ xinh đẹp dịu dàng mà tư dung tốt đẹp. Khi lấy chồng, luôn giữ gìn mực thước nên gia đình luôn giữ được hòa khí. Trong lúc chồng đi lính: Lo toan việc nhà, chăm sóc mẹ già, dạy dỗ con thơ đều chu đáo. Đồng thời, Vũ Nương còn là một người phụ nữ có lòng tự trọng. Khi bị Trương Sinh nghi oan, nàng giải thích hết lời mà chàng không tin, Vũ Nương đã nhảy xuống sông tự vẫn để chúng minh sự trong sạch của mình. Nàng thà chết để được chứng minh trong sạch còn hơn là sống một cuộc đời bị mọi người xỉ vả. Thế nhưng cuộc sống của Vũ Nương cũng như cuộc đời của người phụ nữ xưa là những trang buồn đầy nước mắt. Không những thế, Vũ Nương còn là một người phụ nữ giàu lòng vị tha. Khi ở dưới thủy cung nàng vẫn một lòng nhớ về chồng và con mặc dù chính chồng nàng là nguyên nhân gây ra cái chết cho nàng. Khi được Trương Sinh lập đàn giải oan, nàng còn cảm ơn chồng vì đã nghĩ đến nghĩa vợ chồng mà giải oan cho nàng. Vũ Nương có vẻ đẹp hoàn thiện như vậy xứng đáng được hưởng cuộc sống hạnh phúc một cách trọn vẹn nhưng lại phải chết oan uổng. Qua đây ta thấy được Vũ Nương là một người phụ nữ đẹp người đẹp nết nhưng lại chịu số phận đầy bất hạnh.
Câu 17: Hãy viết một kết thúc khác cho Chuyện người con gái Nam Xương
Sau khi nhận được chiếc hoa vàng của vợ mình từ tay Phan Lang, Trương Sinh đã lập một đàn giải oan ba ngày ba đêm cho nàng ở bến sông Hoàng Giang, rồi quả thấy Vũ Nương ngồi trên một chiếc kiệu hoa ở giữa dòng, theo sau có đến hơn năm mươi chiếc xe nữa, cờ tàn tán lọng, rực rỡ đầy sông, lúc ẩn lúc hiện. chàng vội gọi, nàng vẫn ở giữa dòng mà nói vọng vào:
– Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ. Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể về lại nhân gian được nữa.
Nói rồi, mắt nàng ứa lệ nhìn con, nhìn chồng. Đứa trẻ nhìn thấy mẹ đằng xa, kêu khóc thảm thiết. Trương Sinh hận mình tính khí nóng nảy, đã khiến cơ sự đau đớn ngày hôm nay, ngẩng đầu lên trời mà khóc rằng:
– Hỡi trời cao có mắt, Vũ Nương nàng sống một đời toàn vẹn trọn nghĩa trọn tình, nay chỉ vì tính khí của Trương Sinh này mà phải hy sinh mạng sống của mình, mẹ con chia lìa đau thương, vợ chồng cách biệt phương trời, gia đình không biết còn có có ngày nào hạnh phúc? Trời xanh chiếu trọn tấm lòng người chồng này mà rủi lòng thương cho.
Linh Phi nghe tiếng chàng Trương Sinh cũng chảy dài hai dòng lệ, thấu được tâm can lòng dạ chàng nay đã thay đổi cũng mạo muội ngẩng đầu xin với trời cao cho mình một lần được giúp đỡ cho người con gái bất hạnh. Nói rồi, Linh Phi đưa tay lên trời mà vẫy mạnh ba cái, gió mạnh từ đâu bỗng thổi đến, không gian chung quanh bụi bay mù mịt. Rồi ngay sau đó cơn giông qua đi, người ta không còn thấy lọng hoa hay đức Linh Phi đâu nữa, chỉ thấy bên bến sông Hoàng Giang, có một gia đình nọ được đoàn tụ, gia đình của người con gái Nam Xương với tấm lòng cao đẹp, cuối cùng cũng có được một cuộc sống viên mãn.