Chứng minh Bình Ngô đại cáo là áng thiên cổ hùng văn, là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc.

binh-ngo-dai-cao-la-ang-thien-co-hung-van-la-ban-tuyen-ngon-doc-lap-thu-hai-cua-dan-toc

Bình Ngô đại cáo là áng thiên cổ hùng văn, là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc.

I. Mở bài:

– Tác giả Nguyễn Trãi: là anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, là nhà thơ, nhà văn kiệt xuất.

– Bình Ngô đại cáo: là áng thiên cổ hùng văn, là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc.

II. Thân bài:

1. Giải thích: Thế nào là áng thiên cổ hùng văn ?

– Là áng văn hùng tráng được lưu truyền lại đến muôn đời.

– Trước Bình Ngô đại cáo, đã có những áng văn chính luận xuất sắc như “Chiếu dời đô”, “Hịch tướng sĩ”, nhưng đến Bình Ngô đại cáo tính chất hùng tráng được thể hiện sâu sắc hơn cả bởi giá trị nội dung tư tưởng và nghệ thuật mà nó thể hiện

2. Chứng minh: Bình Ngô đại cáo là áng thiên cổ hùng văn.

a. Nhan đề bài cáo gợi ý nghĩa trang trọng, thiêng liêng.

Đại cáo là thể văn chính luận được vua chúa, thủ lĩnh dùng để công bố, tuyên ngôn những sự kiện trọng đại cho thiên hạ biết bằng những lời lẽ đanh thép, lí luận sắc bén, kết cấu chặt chẽ.

Bình Ngô: nghĩa là dẹp yên giặc Ngô. Theo lịch sử ghi lại thì Minh Thái Tổ tức Chu Nguyên Chương người khai nghiệp nhà Minh, thuở chưa xưng đế đã có lúc tự xưng là Ngô quốc công, rồi được tấn phong là Ngô vương. Bởi vậy Ngô ở đây vừa là tước hiệu của Chu Nguyên Chương, vừa là nguồn gốc, quê cha đất tổ của Chu Nguyên Chương. Bình Ngô là bình tận gốc gác, giống nòi của giống họ Chu – Thái Tổ nhà Minh. Cách đặt tên tác phẩm thật thâm thúy, thể hiện sâu sắc tài năng và mưu trí của Nguyễn Trãi.

– Nguyễn Trãi muốn toàn dân thấy rằng, bài cáo là một văn kiện mang tính pháp luật, có ý nghĩa trọng đại, ngang với văn kiện pháp luật mà Minh Thái Tổ ban bố. Văn kiện của Chu Nguyên Chương tượng trưng cho uy quyền và công cụ bảo vệ nhà Minh, ở Việt Nam, Nguyễn Trãi thay lời vua Lê Thái Tổ dùng Đại cáo để tuyên bố bình Ngô thắng lợi và khẳng định sự độc lập của Đại Việt.

– Như vậy, Đại cáo bình Ngô là bài cáo có ý nghĩa trọng đại của quốc gia công bố rộng khắp về việc đánh đuổi giặc Minh, giành lại độc lập, chủ quyền của dân tộc. Nhan đề tác phẩm gợi ý nghĩa trang trọng, thiêng liêng.

b. Quy mô, dung lượng, tầm vóc lớn lao.

– Bình Ngô đại cáo là áng văn có quy mô lớn với dung lượng dài gồm 4 phần được phân chia rõ ràng. Mỗi phần lại mang những nội dung trọng tâm cụ thể:

  • Phần 1: Nêu lên luận đề chính nghĩa.
  • Phần 2: Vạch rõ tội ác kẻ thù.
  • Phần 3: Trình bày quá trình chinh phạt gian khổ và tất thắng của cuộc khởi nghĩa.
  • Phần 4: Tuyên bố chiến quả khẳng định sự nghiệp chính nghĩa.

→ Trước Bình Ngô đại cáo chưa có một áng văn chính luận nào có quy mô lớn như thế.

c. Nội dung sâu sắc, tư tưởng tiến bộ.

– Tư tưởng lớn lao xuyên suốt chiều dài tác phẩm là tư tưởng “nhân nghĩa”. Tư tưởng vừa có sự kế thừa của Nho giáo, vừa có sự mở rộng và sáng tạo với hai nội dung “yên dân” và “trừ bạo”. Từ trước đến nay, chưa một ai phát hiện và phát biểu một cách hùng hồn và rõ ràng tư tưởng này như Nguyễn Trãi.

– Lời tuyên bố hùng hồn, đanh thép về độc lập, chủ quyền của dân tộc qua rất nhiều phương diện (nền văn hiến, lãnh thổ, phong tục, lịch sử, hào kiệt):

+ Gọi vua Đại Việt là “Đế”, đặt các triều đại của Đại Việt sánh ngang với các triều đại của Trung Hoa thể hiện niềm tự hào tự tôn dân tộc.

+ So với “Nam quốc sơn hà”, bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của nước ta, đại cáo bình Ngô vừa có sự kế thừa, vừa có sự mở rộng: kế thừa các yếu tố về phong vựa, lãnh thổ, cách gọi các vua nước Việt là “đế”, mở rộng, phát triển ở các yếu tố nền văn hiến, phong tục, lịch sử, hào kiệt và tất cả những yếu tố này không cần đến sự định đoạt của “thiên thư” mà do chính con người thiệt lập.

Là bản tuyên ngôn hùng tráng và đầy đủ nhất về độc lập và chủ quyền dân tộc.

– Thái độ căm phẫn trước những tội ác dã man của kẻ thù:

+ Chúng dùng luận điệu bịp bợm để cướp nước, khủng bố sát hại người dân vô tội, bóc lột thuế khóa vơ vét sản vật, phá hoại môi trường tiêu diệt sự sống, phá hoại sản xuất bóc lột sức lao động.

+ Nỗi đau đớn, xót xa, uất hận, căm tức của nhân dân trước những tội ác ấy

Là bản cáo trạng hùng hồn, đanh thép về tội ác kẻ thù.

– Tình yêu đất nước và một lòng chiến đấu chống giặc Minh của Lê Lợi, của nghĩa quân Lam Sơn và nhân dân:

+ Lê Lợi là người anh hùng áo vải, có lí tưởng, hoài bão lớn lao và là linh hồn của cuộc chiến

+ Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đầy gian khổ mà hào hùng, vẻ vang của dân tộc, khí thế như vũ bão và cách ứng xử đầy nhân văn của dân tộc.

+ Sự thất bại thảm hại, nhục nhã, ê chề của giặ

Niềm tự hào, tự tôn dân tộc sâu sắc

d. Lập luận chặt chẽ, đanh thép đầy thuyết phục.

– Đi từ cơ sở lí luận của tư tưởng nhân nghĩa và chân lí về độc lập chủ quyền soi chiếu vào thực tiễn sự bất nhân, tàn ác của giặc Minh và cuộc khởi nghĩa gian khổ mà hào hùng của dân tộc và cuối cùng đi đến kết luận địch phi nghĩa, ta chính nghĩa.

– Các lí lẽ sắc bén, dẫn chứng thuyết phục: Chứng minh về chủ quyền độc lập của dân tộc bằng những dẫn chứng thuyết phục (văn hiến, lãnh thổ, phong tục, lịch sử, hào kiệt), nói về tội ác của giặc (tội ác khủng bố, sát hai, hủy diệt môi trường, phá hoại sản xuất, bóc lột sức lao động,…),…

e  Giọng điệu hào hùng, đanh thép, hùng tráng.

– Sử dụng cách nói đầy hình ảnh: Nướng dân đen, vùi con đỏ, Trúc lam sơn không ghi hết tội, đánh một trận sạch không kình ngạc, đánh hai trận tan tác chim muông,…

– Câu văn ngắn dài, biến hóa linh hoạt khi thì đanh thép luận tội lúc lại hào hùng ngợi ca, khẳng định dứt khoát, quyết liệt

– Sử dụng các thủ pháp nghệ thuật liệt kê, phóng đại, đối lập để thể hiện những lập trường, quan điểm của tác giả

III. Kết bài:

– Khẳng định lại vị trí của tác phẩm Bình Ngô đại cáo: là áng thiên cổ hùng văn, là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc.

– Thể hiện tầm vóc và vị trí của Nguyễn Trãi qua tác phẩm: đại nhân, đại trí, đại dũng.

Bài văn tham khảo 1:

  • Mở bài:

Nguyễn Trãi danh nhân văn hóa thế giới, ông để lại sự nghiệp sáng tác đồ sộ. Bên cạnh những tác phẩm giàu giá trị nghệ thuật, còn có những tác phẩm giàu tính chiến đấu, và một trong những tác phẩm đó không thể không nhắc đến Bình Ngô đại cáo. Tác phẩm là bản tổng kết cuộc kháng chiến chống quân Minh đầy gian lao mà cũng vô cùng hào hùng của dân tộc.

  • Thân bài:

Năm 1427, nghĩa quân Lam Sơn giành thắng lợi huy hoàng, đã tiêu diệt viện binh của giặc. Lúc này, Vương Thông đang cố thủ trong thành Đông Quan để chờ hai đạo viện binh do hai tướng giỏi của nhà Minh chỉ huy là Liễu Thăng và Vạn Thạnh, nhưng hai đạo quân này đã bị quân ta chặn đánh, Vương Thông viết thư xin hàng và rút quân về nước. Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Lợi viết “Bình Ngô đại cáo” để tuyên bố với toàn dân về việc dẹp yên giặc Ngô. Đây được coi là bản tuyên ngôn độc lập lần thứ hai của dân tộc, được ban bố vào đầu năm 1428.

Phần đầu của tác phẩm, Nguyễn Trãi nêu lên luận đề chính nghĩa: Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân/ Quân điếu phạt trước lo trừ bạo. Nhân nghĩa vốn được hiểu là lòng yêu thương con người. Nhưng với Nguyễn Trãi, yêu thương ấy phải được thể hiện bằng hành động cụ thể: “cốt ở yên dân”, bảo vệ cuộc sống bình yên của nhân dân, mà trước hết là phải trừng trị kẻ có tội, bấy giờ chính là giặc Minh xâm lược. Như vậy, nhân nghĩa của ông xuất phát từ lòng yêu dân, mong cho dân có cuộc sống yên ổn. Đây là tư tưởng tiến bộ của Nguyễn Trãi, đồng thời đây cũng là lần đầu tiên người dân xuất hiện với vị trí quan trọng trong văn kiện có tầm cỡ thời đại.

Phần tiếp theo, ông đưa ra năm yếu tố cơ bản để khẳng định sự tồn tại có chủ quyền của nước Đại Việt. Nền độc lập của ta được dựa trên: Cương vực lãnh thổ, phong tục tập quán, truyền thống lịch sử và chủ quyền riêng “mỗi bên xưng đế một phương”. Nguyễn Trãi đã hoàn thiện quan niệm về quốc gia, dân tộc. Đây là bước tiến dài so với bản tuyên ngôn độc lập thứ nhất – Nam quốc sơn hà.

Sau khi nêu lên luận đề chính nghĩa, bằng giọng văn đanh thép Nguyễn Trãi đã vạch trần tội ác của giặc Minh. Để tố cáo tội ác của chúng, ông đứng trên lập trường dân tộc, sử dụng ngôn ngữ hết sức chuẩn xác: nhân, thừa cơ cho thấy luận điệu bịp bợm của giặc Minh: phù Trần diệt Hồ. Không chỉ vậy ông còn đứng trên lập trường nhân bản để tố cáo tội ác của kẻ thù khi chúng cai trị nhân dân ta. Chúng hủy hoại cuộc sống của con người bằng những hành động hết sức dã man: Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn/ Vùi con đỏ xuống hầm tai vạ. Không dừng lại ở đó chúng còn hủy hoại môi trường sống của muôn loài cây cỏ; Các chính sách thuế khóa nặng nề, vơ vét cho bằng hết sản vật của nước ta, tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ, tiêu diệt đường sống muôn loài. Chúng sử dụng dân ta như một công cụ để phục dịch cho chúng: người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng,… Những tội ác của chúng thấu đất, vang tới tận trời xanh, không thể dung thứ: Lẽ nào trời đất dung tha/ Ai bảo thần nhân chịu được. Câu hỏi vang lên như một lời cảnh cáo, cũng thể hiện niềm đau xót của tác giả trước thảm cảnh mà nhân dân phải hứng chịu. Với những hình ảnh đối lập tương phản, giàu giá trị gợi cảm tác giả đã tố cáo một cách đanh thép nhất tội ác của kẻ thù.

Sau những lời văn thống thiết, nhưng cũng đầy mạnh mẽ, tiếp đến Nguyễn Trãi kể lại quá trình chinh phạt gian khổ và thắng lợi tất yếu của quân dân ta. Trong những buổi đầu khởi nghĩa, tình thế quân ta hết sức khó khăn, quân thù đang vào thời điểm mạnh nhất, quân ta thì Tuấn kiệt như sau buổi sớm/ Nhân tài như lá mùa thu. Tương quan đó khiến cuộc khởi nghĩa càng trở nên khó khăn. Nhưng dưới sự lãnh đạo của người anh hùng Lê Lợi, quân ta đã giành được thắng lợi hoàn toàn. Lê Lợi là người có lòng căm thù giặc sâu sắc: Ngẫm thù lớn há đội trời chung/ Căm giặc nước thề không chung sống và ông mang trong mình lòng quyết tâm lớn tiêu diệt quân xâm lược, mang lại bình yên cho nhân dân. Ông không chỉ coi trọng người hiền tài mà còn coi trọng vai trò của nhân dân: Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới. Tất cả người dân nhỏ bé, thấp kém nhất đều được tập hợp dưới ngọn cờ của Lê Lợi. Đây là lần đầu tiên người dân được đưa vào vị trí trang trọng đến vậy. Điều đó đã tạo nên sự thống nhất một lòng, đoàn kết toàn dân tộc. Chính sự đoàn kết đó đã đem lại hết thắng lợi này đến thắng lợi khác cho nhân dân ta: Đánh một trận, sạch không kình ngạc/ Đánh hai trận, tan tác chim muông/ Nổi gió to trút sạch lá khô/ Thông tổ kiến phá toang đê vỡ.

Lời tuyên bố chiến thắng, mở ra kỉ nguyên độc lập của dân tộc thật dõng dạc, tràn đầy niềm tự hào: Xã tắc từ đây vững bền/ Giang sơn từ đây đổi mới, đất nước ta bước vào thời kì tự chủ, thịnh vượng dưới triều đại mới. Đồng thời ông cũng rút ra những bài học lịch sử: Kiền khôn bĩ rồi lại thái/ Nhật nguyệt hối rồi lại minh, để khẳng định niềm tin vào vận mệnh mới của dân tộc sau khi đã trải qua những cơn bĩ cực. Đồng thời ông cũng khẳng định, chiến thắng chúng ta có được là nhờ sự kết hợp sức mạnh của thời đại và sức mạnh truyền thống dân tộc: Âu cũng nhờ trời đất tổ tông khôn thiêng ngầm giúp đỡ mới được như vậy.

Văn bản là sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố chính luận và chất văn chương. Kết cấu văn bản chặt chẽ, lập luận vô cùng sắc bén, lời văn đanh thép tố cáo tội ác giặc, hùng hồn, hào sảng khi nói về chiến công của nhân dân ta. Nhưng bên cạnh đó cũng đậm chất văn chương nghệ thuật với những câu văn giàu cảm xúc, giàu hình tượng, giàu giá trị tạo hình, gây ám ảnh sâu sắc với người đọc.

  • Kết bài:

Bình Ngô đại cáo là bài ca ngợi ca cuộc khởi nghĩa Lam Sơn thần kì đã chấm dứt sự xâm lược của giặc Minh. Đồng thời cũng là bản tố cáo đanh thép, dõng dạc những tội ác mà giặc Minh phạm với nhân dân ta. Bên cạnh đó, bài cáo còn là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc, xứng đáng là áng thiên cổ hùng văn bất hủ của muôn đời.

Bài văn tham khảo 2:

  • Mở bài:

Nguyễn Trãi để lại sự nghiệp văn học đồ sộ, giàu giá trị cả về nội dung và nghệ thuật. Trong kho tàng tác phẩm ấy ta không thể không nhắc đến Bình Ngô đại cáo vốn được mệnh danh là áng thiên cổ hùng văn. Tác phẩm không chỉ xuất sắc về nội dung mà còn mang những đặc sắc về nghệ thuật.

  • Thân bài:

Tác phẩm được viết bởi Nguyễn Trãi dưới sự chỉ đạo của chủ tướng Lê Lợi sau khi nhân dân ta giành thắng lợi, đánh tan quân Minh xâm lược. Văn bản được viết ra nhằm tuyên bố với toàn dân về việc kết thúc thắng lợi vẻ vang chống quân xâm lăng. Đây được coi là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc sau Nam quốc sơn hà. Đồng thời tác phẩm cũng được đánh giá là áng thiên cổ hùng văn tức áng văn chương hùng tráng được lưu truyền đến cả muôn đời sau. Để trở thành một áng văn bất hủ muôn đời như vậy chắc chắn Bình Ngô đại cáo phải có nội dung xuất sắc, lại đồng thời phải có một bút pháp điêu luyện, tài ba. Chỉ khi hội tụ đầy đủ hai yếu tố ấy, thì mới xứng danh áng thiên cổ hùng văn.

Mở đầu tác phẩm, lời văn vô cùng đanh thép, dõng dạc, nêu lên luận đề nhân nghĩa, luận đề này cũng chính là yếu tố chi phối đến nội dung toàn bài :

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo

Nhân nghĩa vốn là khái niệm đạo đức của Nho giao, để nói về đạo lí, cách ứng xử và tình yêu thương giữa con người với nhau. Ở đây Nguyễn Trãi không chỉ tiếp thu mà còn có sự phát triển đạo lý ấy, tình yêu thương phải được thực hiện bằng những hành động cụ thể: cốt ở yên dân, làm cho nhân dân có cuộc sống yên ổn. Để thực hiện được điều đó cần phải trừng trị những kẻ tham tàn, bạo ngược, những thế lực hắc ám đã phá vỡ cuộc sống bình yên của dân chúng. Như vậy, với Nguyễn Trãi, nhân nghĩa xuất phát từ nhân dân, vì yêu thương dân chúng, đồng thời nhân nghĩa còn gắn vời lòng yêu hòa bình, từ đó nhân nghĩa chính là lòng yêu nước. Đây chính là điểm mới mẻ, tiến bộ của Nguyễn Trãi.

Không dừng lại ở đó, Nguyễn Trãi còn đầy tự tin, bản lĩnh khẳng định chủ quyền của dân tộc ta, ông không chỉ khẳng định trên phương diện cương vực lãnh thổ, mà còn khẳng định ở những phương diện mang chiều sâu, thuộc về vốn văn hóa, truyền thống của mỗi dân tộc: Như nước Đại Việt ta từ trước/…/ Song hào kiệt đời nào cũng có. Ông sử dụng những từ ngữ hết sức chuẩn xác: từ trước, vốn xưng, đã lâu, đã chia, cũng khác để khẳng định sự hiển nhiên, vốn có lâu đời của chân lí. Ông là người đã hoàn thiện quan niệm về quốc gia, dân tộc, đây là một bước tiến không hề nhỏ so với bản tuyên ngôn độc lập trước đó.

Trên cơ sở khẳng định chủ quyền của dân tộc, Nguyễn Trãi đã vạch trần tội ác cũng như âm mưu xâm lược của chúng. Ông đã thật tài tình khi sử dụng các từ nhân, thừa cơ để vạch trần luận điệu bịp bợm, xảo trá của chúng phù Trần diệt Hồ. Chúng lấy cớ phù Trần diệt Hồ mà thực tế là để đàn áp, vơ vét tài sản, của cải của nhân dân ta. Chúng có những hành động vô cùng dã man: Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn/ Vùi con đỏ xuống hầm tai vạ; thu thuế nặng nề: Nặng thuế khóa sạch không đầm túi, chúng độc ác đến mức còn không tha cho cả những sự vật vô tri: Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,… Tội ác của chúng không chỉ khiến nhân dân căm hận mà trời đất cũng không tha thứ. Đọc từng câu thơ ta cũng thấy xót xa cho thân phận của người dân khi phải chịu đựng ách áp bức của giặc Minh. Bởi vậy, những anh hùng hào kiệt bấy giờ sao có thể khoanh tay đứng nhìn cảnh đồng bào ta phải đổ máu trước lũ giặc ngoại xâm. Người anh hùng Lê Lợi phất cờ khởi nghĩa trong khi còn gặp vô vàn khó khăn, nhưng bằng sự kiên trì, óc phán đoán sáng suốt ông đã dũng cảm vượt qua mọi trở ngại ấy. Nghĩa quân anh hùng, dũng cảm tiến đánh những vị trí khác nhau khiến kẻ thù sức cùng lực kiệt. Giọng văn, nhịp điệu đoạn thơ trở nên dồn dập, hứng khởi hơn bao giờ hết: Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,/ Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay; Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm/ Tốt Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm. Quân ta đã dành chiến thắng vang dội, điểm sáng ở đây chính là chiến thắng dựa trên tư tưởng nhân nghĩa: Đem đại nghĩa để thắng hung tàn/ Lấy chí nhân để thay cường bạo. Ta giành chiến thắng, không tiêu diệt kẻ thù đến tận cùng, mà vẫn chừa ra cho họ con đường sống: Họ đã tham sống sợ chết, mà hoà hiếu thực lòng/ Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức/ Chẳng những mưu kế kì diệu/ Cũng là chưa thấy xưa nay. Vì nhân dân nên mới khởi nghĩa, trong cuộc khởi nghĩa nhân dân cũng chính là lực lượng nòng cốt. Đến khi tha cho kẻ thù cũng để nhân dân nghỉ sức. Nhắc đến nhân dân với vị trí quan trọng như vậy chỉ xuất hiện trong tư tưởng của Nguyễn Trãi. Nhân dân là cốt lõi trong tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi.

Kết thúc bài đại cáo là lời ngợi ca, là tiếng lòng hoan hỉ tuyên bố chiến thắng và khẳng định tính chất chính nghĩa của cuộc khởi nghĩa: Xã tắc từ đây vững bền/ Giang sơn từ đây đổi mới/ Kiền khôn bĩ rồi lại thái/ Nhật nguyệt hối rồi lại minh.

Tác phẩm không chỉ xuất sắc ở nội dung mà còn đặc sắc về nghệ thuật. Tác phẩm được coi là áng văn chính luận mẫu mực, với bố cục chặt chẽ, lập luận sắc sảo. Để tạo tiền đề triển khai toàn bộ tác phẩm, Nguyễn Trãi đã nêu luận đề nhân nghĩa ngay khi mở đầu bài cáo, tiếp đến là vạch trần tội ác của kẻ thù; buổi đầu kháng chiến gian lao và thắng lợi vẻ vang của ta; cuối cùng là lời tuyên bố chiến thắng, khẳng định sự chính nghĩa của cuộc kháng chiến. Để làm nổi bật tội ác của giặc ông đã khéo léo sử dụng nghệ thuật đối lập tương phản: Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồng đối lập với Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán. Ngoài ra sử dụng những hình tượng giàu giá trị gợi tả, gợi cảm: Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,/ Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi. Để vạch trần tội ác man rợ, tàn bạo của kẻ thù. Giọng văn thống thiết, đau đớn, xót xa khi nói về thảm cảnh của nhân dân, lúc đanh thép, mạnh mẽ khi kết tội kẻ thù.

Với sự xuất sắc ở cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật, Bình Ngô đại cáo xứng đáng là “áng thiên cổ hùng văn” của muôn đời. Tác phẩm là áng văn bất hủ về sức mạnh tự lực, tự cường của dân tộc trong quá trình đấu tranh chống lại quân xâm lược, đem lại sự an yên, hạnh phúc cho nhân dân.

Nhắc tới Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi, người ta nhớ ngay đến một văn kiện lịch sử, một khúc tráng ca khải hoàn của một đất nước đã trải qua những hai mươi năm khổ cực bởi ách đô hộ và chiến tranh chống giặc Minh. Tác phẩm là sự kết tinh của lòng yêu nước, ý chí đánh giặc quật cường của một dân tộc phải sống trong những ngày tháng đau thương, khổ nhục mà rất đỗi vinh quang. Thế nhưng bài cáo ấy đã được nhà văn kiệt xuất Nguyễn Trãi viết bằng nghệ thuật chính luận đỉnh cao, bậc thầy mà ít tác phẩm cùng thể loại ở thời trung đại có được. Để rồi Bình Ngô đại cáo xứng đáng được gọi là áng “thiên cổ hùng văn”.

Áng “thiên cổ hùng văn” tức là áng văn hùng tráng được lưu truyền đến cả nghìn đời. Để có được danh xưng ấy, chắc chắn đòi hỏi ở đó phải là một tác phẩm văn chương xuất sắc cả về nội dung lẫn nghệ thuật. Đồng thời cũng kể phải đến những giá trị lịch sử, tư tưởng vĩ đại, có dấu ấn và ý nghĩa đến muôn đời. Nhưng có lẽ, một tác phẩm hay có thể lưu truyền đến được nghìn đời như vậy phải chạm đến được trái tim, cảm xúc của các thế hệ bao đời; phải có ý nghĩa tư tưởng lớn lao phù hợp với mọi thời đại… Bình Ngô đại cáo là một áng văn bất hủ như thế.

Đã trải qua bao nhiêu năm, nhưng chắc hẳn dân tộc ta vẫn luôn tự hào khi có một bản hùng văn tráng lệ như Bình Ngô đại cáo. Tác phẩm đã khơi dậy lòng yêu nước, lòng tự tôn dân tộc, khát vọng hòa bình, ý chí bất khuất trên con đường đấu tranh bảo vệ đất nước. Biết bao nhiêu cảm xúc mà Nguyễn Trãi đã để tràn lên ngòi bút. Có sự kiên quyết, vững trãi trong lời mở màn đầu tiên:

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.

Nhân nghĩa vốn là một tư tưởng đạo Nho, thể hiện cách hành xử tốt đẹp giữa người với người, chẳng hề xa lạ. Nhưng bốn chữ yên dân, trừ bạo Nguyễn Trãi đã nâng nó lên một tầm cao mới, trở thành một lý tưởng xã hội, một đạo lý dân tộc đến muôn đời. Đâu có phải ở ngay thời điểm ấy, giết giặc Minh để trừ bạo ngược mà bất cứ kẻ ngang tàng nào gây họa đều phải diệt trừ để nhân dân được sống yên ổn,, ấm no. Ấy là nhân nghĩa bắt nguồn từ “dân vi bản”. Cho nên, ngay ở khúc mở màn này mới thấy có cả niềm kiêu dũng, hiên ngang khi khẳng định chủ quyền, độc lập dân tộc:

Như nước Đại Việt ta từ trước
Song hào kiệt đời nào cũng có.

Khí chất tự chủ được toát lên từ sự so sánh đầy mới mẻ mà tiền lệ chưa từng có. Nó có giá trị hiển nhiên ở bất cứ thời điểm nào, cho bất cứ dân tộc nào. Nhưng vào lúc ấy, cách khẳng định chủ quyền với cường quốc bắc phương như thế là một đòn giáng chí mạng vào những kẻ đang thừa cơ gây họa đối với dân tộc ta.

Và còn có cả nỗi căm hờn, uất nghẹn với tội ác tày trời của bè lũ cướp nước và bán nước. Làm sao chúng ta có thể quên những cảnh tượng đầy ám ảnh:

Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ

Suốt hai mươi năm bại nhân nghĩa, nát cả đất trời, từ con người thậm chí đến loài côn trùng cây cỏ cũng đều bị tàn sát thương tâm. Tội ác ấy nước Đông Hải không rửa sạch mùi, trúc Nam Sơn không ghi hết tội, muôn đời chứng cớ còn ghi. Mỗi cảnh người, cảnh nhà, cảnh đất nước đều tan hoang dưới lưỡi lê của loài khát máu… Làm sao chúng ta quên? Nguyễn Trãi như chạm vào nỗi đau nhức nhối đến tận tim gan, xương tủy, mà hiển nhiên nhận ra biết bao kẻ thù, đâu chỉ giặc Minh trong suốt chiều dài lịch sử giữ nước cũng đều mang chân tướng của những kẻ bạo tàn. Vì thế mà một nỗi đau như làm trỗi dậy nhiều nỗi đau để rồi không được quên sứ mệnh phải bảo vệ đất nước, đánh đuổi bè lũ kia.

Hơn thế, có cả sự trăn trở, lo âu cho vận mệnh đất nước với tấm lòng ái quốc, thương dân chứa chan. Không phải ngẫu nhiên Nguyễn Trãi dùng đến hơn hai mươi câu văn để nói về chủ tướng Lê Lợi. Một hình mẫu của bậc anh hùng bước ra từ đời sống của nhân dân. Từ xuất thân đến cách xưng hô đều rất gần gũi, Lê Lợi đau nỗi đau dân tộc như dân mình, căm thù và nung nấu quyết tâm trả thù giặc như dân mình, khát vọng vượt qua mọi khó khăn, gian khổ để đánh giặc như dân mình. Từ thấu hiểu, thương yêu đến hành động, vị lãnh tụ ấy đã biến yếu thành mạnh, lấy ít địch nhiều, sáng tạo ra những cách đánh xuất kì, mai phục dần dần tiến đến những thắng lợi vẻ vang. Nhưng đọc Bình Ngô đại cáo chắc chắn ai cũng biết, quân ta thắng đâu chỉ bởi có những thuận lợi trên, mà còn bởi nhân dân bốn cõi một nhà, tướng sĩ một lòng phụ tử và luôn nêu cao tinh thần:

Đem đại nghĩa để thắng hung tàn
Lấy chí nhân để thay cường bạo

Đại nghĩa, chí nhân – chẳng phải là kim chỉ nam, là ánh sáng soi rọi cho dân tộc ta lập những chiến công oai hùng sau đấy. Và muôn đời sau tư tưởng này vẫn mãi mãi trở thành ngọn đuốc cho tinh thần đấu tranh chính nghĩa của Đại Việt trước mọi kẻ thù.

Hay cả khí thế sục sôi, quyết liệt của những ngày tháng kháng chiến oai hùng. Có lẽ chất hùng văn của bản đại cáo được thể hiện rõ nhất ở đoạn tái hiện lại trang sử hào hùng của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống quân Minh. Liên tiếp những trận đánh, liên tiếp những đợt phản công của ta cũng là liên tiếp những lần thất bại của kẻ thù. Xuất phát từ xứ Nghệ, xứ Thanh rồi đến Đông Đô, Thăng Long, khung cảnh chiến trường đầy khốc liệt sấm vang chớp giật, trúc trẻ tro bay, máu chảy thành sông, thây chất đầy nội, sắc phong vân phải đổi, ánh nhật nguyệt phải mờ. Ta cứ thế mà thừa thắng xông lên bẻ gãy từng họng kìm, chặn đứng mọi ngả đường chi viện. Địch hiện lên hoàn toàn đối lập với lúc xưa. Trước đó thằng há miệng, đứa nhe rang, máu mỡ bấy no nê chưa chán vậy mà giờ nghe hơi mà mất vía, nín thở cầu thoát thân, bêu đầu, bỏ mạng, bó tay để đợi bại vong, trí cùng lực kiệt, thất thế, cụt đầu, bại trận tử vong, cùng kế tự vẫn, lê gối dâng tờ tạ tội, trói tay để tự xin hàng… Nguyễn Trãi đã tái hiện lại dường như không bỏ sót, chân tướng kẻ thù hiện lên thật nhục nhã, thảm hại. Tuy nhiên điều tâm phục, khẩu phục trong chiến thắng của ta chính là ở con đường hiếu sinh mở ra cho giặc. Một lần nữa tư tưởng nhân nghĩa sáng ngời lại phát huy. Biết dừng đúng lúc, không dồn kẻ thù đến bước đường cùng, đó là đại nghĩa, chí nhân. Chiến thắng ấy mới trở thành bất tử, huyền thoại trong lịch sử nước nhà. Âm vang của một thuở oai hùng cũng vì thế mà vang vọng đến ngàn năm.

Cuối cùng cảm xúc vút lên thành lời ca đầy trang trọng, hào sảng, hạnh phúc, vui sướng vì đất nước hoàn toàn độc lập, tự do. Giấc mơ về hòa bình nay đã trở thành hiện thực. Hẳn là người viết phải xúc động biết chừng nào!

Xã tắc từ nay vững bền,
Giang sơn từ đây đổi mới.
Kiền khôn bĩ rồi lại thái,
Nhật nguyệt hối rồi lại minh,
Muôn thuở nền thái bình vững chắc,
Ngàn thu vết nhục nhã sạch làu.

Quy luật của tồn vong, suy thịnh là như thế, nhưng vẫn phải xuất phát từ sự đồng sức, đồng lòng của nhân dân tướng sĩ, từ tài năng trác việt của những bậc anh hùng, từ nền tảng trọng nhân nghĩa, chuộng hòa bình. Điểm tựa ấy có từ hàng trăm năm trước và vẫn trở nên vững chắc cho hàng trăm năm về sau mà bài cáo như một lời nhắc nhở.

Đúng là Bình Ngô đại cáo, khúc khải hoàn ca, anh hùng ca sáng chói cả một thời đã hội tụ biết bao nhiêu cảm xúc vậy như thể tiếng chuông ngân vang, đồng vọng từ quá khứ dội về, hướng chúng ta ở thời đại nào cũng thấy tự hào, kiêu hãnh. Nguyễn Trãi đã biến một văn kiện lịch sử mang tính khô khan, cứng nhắc, đầy chất sắc lệnh, trở thành một áng hùng văn say mê, trong sáng và có giá trị đến nghìn đời.

Nhưng ý nghĩa “thiên cổ hùng văn” của tác phẩm còn thể hiện ở nghệ thuật viết văn chính luận tài tình, kiệt xuất của Nguyễn Trãi. Điều đáng nhớ của Đại cáo bình Ngô là đã đưa nghệ thuật viết văn chính luận trung đại đạt đến một trình độ mẫu mực, bậc thầy. Bản đại cáo hướng tới đối tượng là nhân dân bá tánh Đại Việt để tuyên bố về nền độc lập sau chiến thắng giặc Minh. Tuy nhiên, chiến tranh không còn nhưng tính luận chiến của nó vẫn sáng tỏ. Nhà văn vẫn hướng một mực tới kẻ thù, tới thế lực cực cường mà bao đời nay luôn nhòm ngó. Nền độc lập là quyền bất khả xâm phạm, không chỉ quân Lam Sơn đã bảo vệ thành công mà từ đời trước đến cả đời sau vẫn vậy. Nên bài cáo như một lần nữa chiến đấu trực diện với kẻ thù trên mặt trận ngoại giao. Chúng ta có đầy đủ các yếu tố tương xứng để xác lập chủ quyền, đã kiên cường đứng lên chiến đấu để bảo vệ. Chiến thắng của ta là có thật, thất bại của kẻ thù không còn gì bàn cãi. Bản đại cáo vang lên như một lời phán xử cuối cùng tại tòa án nhân nghĩa. Lời phán xử ấy đanh thép, hùng hồn khắc sâu vào tâm khảm người dân đất Việt mãi ngàn năm.

Bên cạnh đó, bản đại cáo có một kết cấu vô cùng chặt chẽ. Xuất phát từ cơ sở lí luận nêu chân lý chính nghĩa muôn đời đến vạch trần tội ác trời không dung đất không tha của kẻ thù để nói lên thực tiễn cần phải đấu tranh để bảo vệ chân lý ấy. Nguyễn Trãi đã đặt nền móng vững chắc rồi dần dần xây những bức tường thành vững trãi về quá trình bảo vệ độc lập của nhân dân ta. Lối văn biền ngẫu được Nguyễn Trãi sử dụng rất tài tình. Sự đối xứng trong từng câu văn kết hợp với bút pháp tương phản, ước lệ đậm chất sử thi đã dựng nên một bức tranh tráng lệ, oai hùng một thuở. Lập luận trong bài cáo đầy sắc bén khi lấy tư tưởng nhân nghĩa làm gốc. Mọi nội dung triển khai đều dựa trên tư tưởng này. Vì vậy mới vạch trần được bộ mặt xảo trá, thâm độc của kẻ thù, mới thấy cuộc kháng chiến đầy gian khổ mà hào hùng của dân tộc là chính nghĩa. Cứ từ nhân nghĩa thì việc đất nước được hòa bình là điều tất yếu mà thôi. Ngôn ngữ của bài cáo cũng là một trong những yếu tố làm nên giá trị, vì giàu chất tạo hình, tạo nên đa dạng sắc thái giọng điệu mang tới nhiều cảm xúc. Tuy nhiên một trong những yếu tố nữa để bản đại cáo mãi trường tồn là phần văn bản dịch rất thành công, đã chuyển tải một cách nguyên vẹn cảm xúc từ văn bản gốc để các thế hệ sau cảm nhận được dễ dàng.

  • Kết bài:

Bình Ngô đại cáo đã tố cáo tội ác của kẻ thù xâm lược, ca ngợi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, tác phẩm được coi là bản tuyên ngôn độc lập, tuyên bố về nên độc lập của dân tộc là áng thiên cổ hùng văn còn mãi giá trị nghìn đời sau của đất nước ta. Về nghệ thuật, đó là sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố chính luận, thể hiện ở kết cấu lý luận chặt chẽ, lập luận sắc bén, lời văn đanh thép, hùng hồn, và chất văn chương nghệ thuật thể hiện ở lời văn rất giàu cảm xúc, câu văn giàu hình tượng.

Bài văn tham khảo 3:

  • Mở bài:

Nguyễn Trãi không chỉ là một nhà quân sự tài ba của dân tộc mà ông còn là nhà thơ, nhà văn chính luận kiệt xuất của nền văn học trung đại Việt Nam với nhiều tác phẩm xuất sắc được viết bằng cả chữ Nôm và chữ Hán. Đặc biệt, nhắc tới những áng văn chính luận của Nguyễn Trãi chúng ta không thể nào không nhắc tới “Bình Ngô đại cáo” – một tác phẩm được Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Lợi viết sau cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược. Tác phẩm đã để lại trong lòng người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc và được xem là “bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc.

  • Thân bài:

“Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi được viết theo thể cáo – một thể loại văn học cổ có nguồn gốc từ Trung Quốc với bố cục, kết cấu chặt chẽ. Mở đầu bài cáo, tác giả Nguyễn Trãi đã nêu lên luận đề chính nghĩa làm nền tảng tư tưởng cho toàn bộ bài cáo của mình.

Từng nghe: việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo

Chỉ với hai câu mở đầu bài cáo của mình, tác giả đã nêu lên tư tưởng xuyên suốt bài cáo đó chính là nhân nghĩa – một phạm trù tư tưởng có nguồn gốc từ Nho giáo, dùng để thể hiện cách ứng xử và những mối quan hệ tốt đẹp giữa con người với con người. Và với Nguyễn Trãi, tư tưởng nhân nghĩa đó bắt nguồn từ tư tưởng “yên dân”, “trừ bạo’. Có thể nói, đây chính là cơ sở nền tảng xuyên suốt bài cáo, xuất phát từ quan điểm lấy dân làm gốc, từ lòng yêu thương nhân dân và vì nhân dân mà diệt bạo, mà đánh đuổi các thế lực xâm lược. Đồng thời, cũng trong phần mở đầu của bài cáo, tác giả Nguyễn Trãi còn nêu lên những chân lí độc lập khách quan, làm sơ sở lí luận vững chắc để khẳng định độc lập dân tộc cũng như nêu lên tư tưởng của bài cáo.

Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Dù mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có.

Chỉ với một đoạn văn ngắn nhưng dường như tác giả Nguyễn Trãi đã tái hiện lại một cách chân thực và rõ nét những truyền thống vẻ vang từ ngàn đời nay của dân tộc. Trước hơn hết, nước ta có một nền văn hiến, phong tục Bắc Nam từ ngàn đời nay. Đồng thời, nước ta còn là nước có bờ cõi, lãnh thổ riêng, được mọi người thừa nhận. Đặc biệt hơn cả, thông qua việc so sánh các triều đại phong kiến của nước ta với các triều đại phong kiến phương Bắc, tác giả đã đặt các triều đại của ta, dân tộc ta ngang hàng với các triều đại phong kiến phương Bắc, điều đó không chỉ là cơ sở cho nền độc lập mà còn thể hiện lòng tự hào, tự tôn dân tộc của tác giả Nguyễn Trãi. Không dừng lại ở đó, để nêu lên chân lí khách quan cho nền độc lập của nước ta, tác giả còn tái hiện lại những trang sử vẻ vang, hào hùng với những chiếc thắng vang dội khắp non sông của quân và dân ta trong suốt chặng đường lịch sử trước đó.

Lưu Công tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét
Chứng cớ còn ghi.

Thêm vào đó, từ cơ sở luận đề chính nghĩa đã nêu, trong phần tiếp theo của bài cáo, tác giả Nguyễn Trãi đã đi sâu vạch rõ những tội trạng man rợ, gian ác của kẻ thủ. Trước hết, tác giả đã vạch rõ âm mưu xâm lược của giặc Minh đối với nước ta.

Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa
Bọn gian tà bán nước cầu vinh.

Như vậy, chỉ với bốn câu văn song tác giả đã vạch rõ cho người đọc âm mưu xâm lược của giặc Minh. Quân Minh đã lợi dụng tình hình rối ren ở trong nước ta dưới thời nhà Hồ, với luận điệu xảo trá “phù Trần diệt Hồ”, bọn chúng đã tiến vào và thực hiện âm mưu xâm lược nước ta. Hơn thế nữa, không chỉ vạch rõ âm mưu xâm lược của giặc Minh, tác giả Nguyễn Trãi còn tố cáo, vạch rõ những hành động, những tội ác dã man của bọn giặc trên hầu khắp tất cả các lĩnh vực bằng những hình ảnh, những từ ngữ độc đáo. Tội ác đầu tiên của giặc Minh đã được tác giả Nguyễn Trãi kể ra đó chính là tàn sát, giết hại những người dân vô tội.

Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ

Với nghệ thuật đảo ngữ cùng với việc sử dụng những hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng, tác giả đã vạch rõ hành động giết người mạn rợn, tàn ác của giặc. Ngay đến cả những “dân đen’, “con đỏ” – những người vô tội, chúng cũng không nương tay. Tất cả những điều đó đã cho thấy hành vi giết người không ghê tay của bọn giặc. Thêm vào đó, chúng còn tàn sát những người dân vô tội bằng cách đẩy những người dân đen kia vào những nơi rừng thiêng, nước độc với đầy rẫy những hiểm nguy, những nơi mà khi đã bước vào đấy sẽ không biết có ngày trở lại hay không.

Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồng
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng thiêng nước độc.

Đồng thời, tội ác của bọn giặc còn được thể hiện ở những chính sách thuế khóa nặng nề và hết sức vô lí cùng với những chính sách hủy hoại môi trường sống, cảnh quan tự nhiên, tiêu diệt sự sống của vạn vật trên đất nước ta.

Nặng thuế khóa sạch không đầm núi
….
Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới giăng
Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt
Tàn hại cả giống côn trùng, cây cỏ.

Như vậy, với hàng loạt các hình ảnh chân thực, giàu tính biểu tượng, đoạn hai của bài cáo như một bản cáo trạng đanh thép mà ở đó, tác giả Nguyễn Trãi đã vạch rõ những tội ác, những hành động man rợn, ghê người của bọn giặc minh xâm lược. Và để rồi, tất cả những tội ác ấy được tác giả khái quát lại trong câu thơ giàu tính khái quát và biểu tượng. Đồng thời, qua những lời thơ ấy cũng giúp chúng ta thấy được thái độ căm phẫn đến tột cùng của tác giả.

Độc ác thay trúc Nam Sơn không ghi hết tội
Độc ác thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi
Lẽ nào trời đất dung tha
Ai bảo thần dân chịu được?

Không chỉ dừng lại ở vạch rõ những tội ác của kẻ thù, “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi còn tái hiện lại một cách chân thực và sâu sắc quá trình kháng chiến và giành chiến thắng của quân và dân ta. Mở đầu cho đoạn văn chính là hình ảnh vị chủ tướng, người anh hùng Lê Lợi:

Ta đây:

Núi Lam Sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình

Đại từ “ta” đặt ở đầu đoạn văn như một lời khẳng định, thể hiện rõ lai lịch, nguồn gốc, lai lịch, xuất thân của người anh hùng Lê Lợi. Xuất thân từ nhân dân, nên chắc có lẽ hơn ai hết Lê Lợi hiểu được những nhọc nhằn và cả sự căm phẫn, lòng căm thù giặc sâu sắc của nhân dân ta – “căm thù giặc thề không cùng chung sống”. Nhưng người anh hùng ấy không chỉ có lòng căm thù giặc sâu sắc mà còn mang trong mình bao nỗi niềm suy tư, trăn trở, đến nỗi “đau lòng nhức óc”, “nếm mật nằm gai”, “quên ăn vì giận” để suy tính con đường đánh đuổi quân xâm lược và cuối cùng người anh hùng ấy đã dấy binh khởi nghĩa, mang theo trong mình tất cả niềm tin và một con đường đấu tranh kiên định, góp phần đi đến thắng lợi cuối cùng của quân và dân ta. Song, không dừng lại ở việc tái hiện chân dung vị chủ tướng Lê Lợi, đoạn ba của bài cáo còn tái hiện lại những khó khăn, gian khổ và cả những chiến thắng vang dội của quân và dân ta. Trước hết, trong buổi đầu khởi nghĩa, nghĩa quân của ta gặp phải muôn vàn những khó khăn, thử thách cả về nhân lực và vật lực. Đó là những ngày quân giặc còn rất mạnh, nhân tài của ta còn nhiều hạn chế, “nhân tài như lá mùa thu”, “việc bôn tẩu lại thiếu kẻ đỡ đần”,… Thế nhưng, với tất cả ý chí, lòng quyết tâm và với một đường lối đấu tranh đúng đắn, kiên định “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn”, “lấy chí nhân để thay cường bạo”, nghĩa quân của ta đã vượt qua muôn vàn những khó khăn thử thách ấy để đạt được nhiều thắng lợi vang dội. Tác giả đã kết thúc đoạn ba của bài cáo với một giọng văn đầy từ hào khi tái hiện lại những thắng lợi vẻ vang, liên tiếp của nghĩa quân trong cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược. Mở đầu của những chiến công ấy là chiến thắng Bồ Đằng, Trà Lân, rồi đến cả vùng Trần Trí, Sơn Thọ, Lí An,… và hàng loạt, hàng loạt những chiến thắng cứ thế liên tiếp nhau diễn ra.

Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế
Ngày hai mươi, trận Mã An, Liễu Thăng cụt đầu
Ngày hai lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong
Ngày hăm tám, thượng thư Lí Khanh cùng kế tự vẫn.

Như vậy, trong phần ba của bài cáo, tác giả Nguyễn Trãi đã tái hiện lại một cách chân thực và sâu sắc hình tướng vị chủ tướng Lê Lợi cùng những khó khăn mà nghĩa quân của ta gặp phải trong buổi đầu kháng chiến và đặc biệt hơn cả là những chiến thắng vang dội của quân và dân ta trong cuộc chiến đầy khó khăn ấy. Đặc biệt,sau khi chiến thắng, nghĩa quân của ta còn cấp ngựa, thuyền và lương thực cho bọn giặc để chúng con đường lui. Những hành động này của quân ta thêm một lần nữa chứng minh cho tư tưởng, luận đề chính nghĩa mà nghĩa quân của ta trọn đời theo đuổi. Và để rồi, trên cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn đã được nêu lên, phần cuối của bài cáo chính là lời tuyên bố độc lập, hòa bình cho dân tộc.

Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới

Xa gần bá cáo
Ai nấy đều hay

Với giọng văn hùng hồn, đanh thép, lời tuyên ngôn của Nguyễn Trãi được tuyên bố rộng rãi tới tất cả mọi người. Lời tuyên ngôn ấy không chỉ là lời khẳng định về nền độc lập, hòa bình, thống nhất của dân tộc mà qua đó còn thể hiện thái độ ngợi ca và niềm tin vào một ngày mai tươi sáng, tốt đẹp hơn của đất nước, của dân tộc khi bước vào một thời kì mới.

  • Kết bài:

Tóm lại, “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi không chỉ là một văn kiện lịch sử mà nó còn là một áng văn chính luận sâu sắc với sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa yếu tố chính luận và yếu tố trữ tình. Trải qua chiều dài phát triển của lịch sử dân tộc nhưng giá trị, ý nghĩa to lớn của bài cáo vẫn còn vẹn nguyên cho đến ngày hôm nay.

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.