chuyen-nguoi-con-gai-nam-xuong-nguyen-du

Tài liệu luyện thi văn bản Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ

Phân tích chi tiết văn bản Chuyện người con gái Nam Xương (trích Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ).

  • Mở bài:

Nguyễn Dữ là người học rộng, tài cao nhưng chỉ làm quan một năm rồi cáo về, sống ẩn dật ở vùng núi Thanh Hoá. Đó là cách phản kháng của nhiều tri thức tâm huyết đương thời. Chuyện người con gái Nam là truyện thứ 16 trong số 20 truyện nằm trong tác phẩm nổi tiếng nhất của Nguyễn Dữ “ kỳ mạn Truyện có nguồn gốc từ một truyện cổ dân gian trong kho tàng cổ tích Việt Nam “Vợ chàng Trương”. Qua câu chuyện về cuộc đời và cái chết thương tâm của Vũ Nương, thiên truyện Chuyện người con gái Nam Xương thể hiện niềm thương cảm đối vói số phận oan nghiệt, đồng thời ca ngợi vẻ đẹp truyền thống của những phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến.

  • Thân bài:

Vẻ đẹp hình thức và phẩm hạnh của nhân vật Vũ Nương.

Vũ Thị Thiết (Vũ Nương) là người phụ nữ nhan sắc, đức hạnh. Chồng nàng là Trương Sinh phải đi lính sau khi cưới ít lâu. Nàng ở nhà, một mình vừa nuôi con nhỏ vừa chăm sóc mẹ chồng đau ốm rồi làm ma chu đáo khi bà mất. Trương Sinh trở về, nghe lòi con, nghi vợ thất tiết nên đánh đuổi đi. Vũ Nương uất ức gieo mình xuống sông Hoàng Giang tự vẫn, được thần Rùa Linh Phi và các tiên nữ cứu. Sau đó Trương Sinh mới biết vợ bị oan. ít lâu sau, Vũ Nương gặp Phan Lang, người cùng làng chết đuối được Linh Phi cứu. Khi Phan Lang trở về, Vũ Nương nhờ gửi chiếc hoa vàng nhắn chàng Trương lập đàn giải oan cho nàng. Trương Sinh nghe theo, Vũ Nương ẩn hiện giữa dòng, nói vọng vào bờ lời tạ từ rồi biến mất.

Vũ Nương là người phụ nữ đẹp người, đẹp nết.

Ngay từ đầu, nàng đã được giới thiệu là “tính đã thuỷ mị, nết na, lai thêm tư dung tốt đẹp”. Chàng Trương cũng bởi mến cái dung hạnh ấy, nên mới xin vói mẹ trăm lạng vàng cưới về. Một người phụ nữ như thế tất sẽ được hạnh phúc, ấm êm bên gia đình cuộc mình.

Vũ Nương là người vợ hiền lành, tận tụy, thủy chung.

Nàng là người hiểu chuyện, trong cuộc sống vợ chồng bình thường, nàng luôn giữ gìn khuôn phép nên dù chồng nàng đa nghi, đối với vợ phòng ngừa quá sức nhưng gia đình chưa từng phải bất hòa.

Hạnh phúc chưa được bao lâu, biên giới binh đao nổi lên. Chiến tranh đã khiến vợ chồng phải ly biệt. Khi tiễn chồng đi, Vũ Nương rót chén rượu đầy, dặn dò chồng những lời tình nghĩa đằm thắm. Nàng “chẳng dám mong” vinh hiển mà chỉ cầu cho chồng “khi về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ. Vũ Nương cũng thông cảm cho những nỗi gian lao, vất vả mà chồng sẽ phải chịu đựng. Và xúc động nhất là những lời tâm tình về nỗi nhớ nhung, trông chờ khắc khoải của nàng khi xa chồng. Những lời văn từng nhịp, từng nhịp ngẫu như nhịp đập trái tim nàng – trái tim của người vợ trẻ khát khao yêu thương đang thổn thức lo âu cho chồng. Những lời đó thấm vào lòng người, khiến ai ai cũng xúc động ứa hai hàng lệ.

Rồi đến khi xa chồng, nàng càng chứng tỏ và bộc lộ nhiều phẩm chất đáng quý. Trước hết, nàng là người vợ hết mực chung thuỷ với chồng. Nỗi buồn nhớ chồng vò võ, kéo dài qua năm tháng. Mỗi khi thấy “bướm lượn đầy vườn” – cảnh vui mùa xuân hay “mây che kín núi” – cảnh buồn mùa đông, nàng lại chặn “nỗi buồn góc bể chân trời nhớ người đi xa”.

Vũ Nương là một người mẹ tận tụy.

Không chỉ là người vợ mẫu mực, nàng còn là người mẹ hiền, hết lòng nuôi dạy, chăm sóc, bù đắp cho đứa con trai nhỏ sự thiếu vắng tình cha.

Những ngày không có Trương Sinh ở nhà, Vũ Nương đảm đang hết mọi công việc, vừa thuốc thang cho mẹ già, vừa nuôi nấng con nhỏ. Thương con thiếu vắng tình cha, những hôm con khóc, nàng chỉ lên chiếc bóng của mình ở trên tường nói rằng đó là cha để con bót phần cô quạnh.

Vũ Nương là một con dâu hiếu thảo.

Vũ Nương còn bộc lộ đức tính hiếu thảo của người con dâu, tận tình chăm sóc me chồng già yếu, ốm đau. Nàng lo chạy chữa thuốc thang cho mẹ qua khỏi, thành tâm lễ bái thần phật, bởi yếu tố tâm linh đối với người xưa là rất quan trọng. Nàng lúc nào cũng dịu dàng, “lấy lời ngọt ngào khôn khéo, khuyên lơn” Thế nhưng, sức người không chống nổi mệnh trời. Người mẹ vì quá mong nhớ con, sức khoẻ ngày càng suy kiệt. Trước khi về cõi vĩnh hằng, bà gửi những lời hết sức thiết tha. Lời trăng trối cuối cùng của bà mẹ chồng bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với công lao của Vũ Nương đối với gia đình: “Xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ”. Thông thường, nhất là trong xã hội cũ, mối quan hệ mẹ chồng – con dâu là mối quan hệ căng thẳng, phức tạp. Nhưng trước người con dâu hết mực hiền thảo như Vũ Nương thì bà mẹ Trương Sinh không thể không yêu mến. Khi bà mất, “Vũ Nương đã thương xót, phàm ma chay tế lễ đều lo liệu như đối với cha mẹ đẻ mình”.

Có thể nói, cuộc đời Vũ Nương tuy ngắn ngủi nhưng nàng đã làm tròn bổn phận của người phụ nữ: một người vợ thủy chung, một người mẹ thương con, một người dâu hiếu thảo. Ở bất kỳ một cương vị nào, nàng cũng làm rất hoàn hảo.

Bi kịch cuộc đời Vũ Nương.

Vũ Nương bị chồng nghi oan.

Cứ tưởng một người sống tận tâm như thế sẽ được báo đáp. Nào ngờ, khi Trương Sinh từ biên ải trở về, mọi công sức của Vũ Nương đã bị phủ nhận sạch sành sanh. Trương sinh từ trước đến giờ vốn tính đa nghi, với vợ lại phòng ngừa quá mức. Thời gian xa cách khoét sâu khoảng cách vợ chồng. Bởi thế, chỉ cần nghe lời nói vu vơ của bé Đản, không cần suy xét, Trương Sinh đã cho rằng Vũ Nương ở nhà không giữ trọn trinh tiết, sỉ mắng, đánh đập thậm tệ rồi quyết đuổi nàng đi.

Khi bị chồng nghi oan, nàng đã tìm mọi cách để xoá bỏ ngờ vực trọng lòng Trương Sinh. Ở lời nói đầu tiên, nàng nói đến thân phận mình, tình nghĩa vợ chồng và khẳng đinh tấm lòng chung thuỷ trong trắng của mình. Cầu xin chổng đừng nghi oan, nghĩa là nàng đã cố gắng hàn gắn, cứu vãn hạnh phúc gia đình đang có nguy cơ tan vỡ. Ở lời nói thứ hai trong tâm trạng “bất đắc Vũ Nương bày tỏ nỗi thất vọng khi không hiểu vì sao bị đối xử tàn nhẫn, bất công, không có quyền tự bảo vệ mình, thậm chí không có quyền được bảo vệ bằng những lời biện bạch, thanh minh của hàng xóm láng giềng. Người phụ nữ của gia đình đã mất đi hạnh phúc gia đình, “thú vui nghi gia nghi thất”. Tình cảm đơn chiếc thuỷ chung nàng dành cho chồng đã bị phủ nhận không thương tiếc. Giờ đây “bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió, khóc tuyết bông hoa rụng cuống, kêu xuân cái én, nước thẳm buồn xa”, cả nỗi nhớ chờ chồng mà hoá đá trước đây cũng không còn. Vậy thì cuộc đời còn gì ý nghĩa nữa đối vói người vợ trẻ khao khát yêu thương ấy?

Cái chết thương tâm của Vũ Nương.

Chẳng còn gì cả, chỉ có nỗi thất vọng tốt cùng, đau đớn ê chề bởi cuộc hôn nhân đã không còn cách nào hàn gắn nổi, mà nàng thì phải chịu oan khuất tày trời. Bị dồn đến bước đường cùng, sau mọi cố gắng không thành, Vũ Nương chỉ còn biết mượn dòng nước Hoàng Giang để rửa nỗi oan nhục. Nàng đã tắm gội chay sạch mong dòng nước mát làm dịu đi tức giận trong lòng, khiến nàng suy nghĩ tỉnh táo hơn để không hành động bồng bột. Nhưng nàng vẫn không thay đổi quyết định ban đầu, bởi chẳng còn con đường nào khác cho người phụ nữ bất hạnh này. Lời than của nàng trước trời cao sông thẳm là lời nguyện xin thần sông chứng giám cho nỗi oan khuất cũng như đức hạnh của nàng. Hành động trầm mình là hành động quyết liệt cuối cùng, chất chứa nỗi tuyệt vọng đắng cay nhưng cũng đi theo sự chỉ đạo của lý trí.

Cuộc sống của Vũ Nương dưới thủy cung.

Người tốt hàm oan khiến cho đất trời động lòng thương cảm. Vũ Nương đã được các tiên nữ cứu, nàng sống dưới thủy cung và được đối xử tình nghĩa. Nàng hết sức cảm kích ơn cứu mạng của Linh Phi và các tiên nữ cung nước. Nhưng nàng vẫn không nguôi nỗi nhớ cuộc sống trần thế – cuộc sống nghiệt ngã đã đẩy nàng đến cái chết. Vũ Nương vẫn là người vợ yêu chồng, người mẹ thương con, vẫn nặng lòng nhung nhớ quê hương, mồ cha mẹ. đồng thời vẫn khao khát được trả lại danh dự. Bởi vậy mà nàng đã hiện về khi Trương Sinh lập đàn giải oan. Thế nhưng “cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ”, Vũ Nương không quay trở về trần gian nữa.

Lí giải nguyên nhân cái chết Vũ Nương.

Vũ Nương là một người phụ nữ xinh đẹp, nết na, hiền thục lai đảm đang, tháo vát, thờ kính mẹ chồng rất mực hiếu thảo, mộ lòng thủy chung với chồng, hết lòng vun đắp cho hạnh phúc gia đình. Nàng là người phụ nữ hoàn hảo, lý tưởng của mọi gia đình, là khuôn vàng thước ngọc của mọi người phụ nữ. Người như nàng xứng đáng được hưởng hạnh phúc trọn vẹn. Vậy mà, cuối cùng, nàng lai phải chết một cách oan uổng, đau đớn.

Có nhiều duyên cớ khiến cho một người phụ nữ đức hạnh như Vũ Nương không thể sống mà phải chết một cách oan uổng.

Trước hết là do lời nổi ngây thơ của bé Đản. Đêm đêm, ngồi buồn dưới ngọn đèn khuya, Vũ Nương thường “trỏ bóng mình mà bảo là cha Đản”. Vậy nên Đản mới ngộ nhận đó là cha mình, khi người cha thật trở về thì không chịu nhận và còn vô tình đưa ra những thông tin khiến mẹ bị oan.

Lời nói ngây thơ của đứa trẻ làm đau lòng chàng khi mẹ vừa mất: “Ô hay! Thế ra ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói, chứ không như cha tôi trước kia, chỉ nín thinh”. Trương Sinh gạn hỏi đứa bé lại đưa thêm những thông tin gay cấn, đáng nghi: “Có một người đàn ông đêm nào cũng đến” (hành động lén lút che mắt thiên hạ), “mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi” (hai người rất quấn quýt nhau), “chẳng bao giờ bế Đản cả” (người này không muốn sự có mặt của đứa bé). Những lời nổi thật thà của con đã làm thổi bùng lên ngon lửa ghen tuông trong lòng Trương Sinh.

Thế nhưng, nguyên nhân chính là do Trương Sinh là một người chồng đa nghi, hay ghen tuông mù quáng, tính tình hồ đồ. Ngay từ đầu, Trương Sinh đã được giới thiệu “là người đa nghi, đối với vợ phòng ngừa quá mức”. Đó chính là mầm mống của bi kịch sau này khi có biến cố xảy ra. Biến cố đó là việc Trương Sinh phải đi lính xa nhà, khi về mẹ đã mất. Mang tâm trạng buồn khổ, chàng bế đứa con lên ba đi thăm mộ mẹ. Đứa nhỏ lại quấy khóc không chịu nhận cha.

Cách cư xử hồ đồ, thái độ phũ phàng, thô bao của Trương Sinh đã khiến cho sự việc lún sâu vào bế tắc. Là kẻ không có học, lại bị ghen tuông làm cho mờ mắt, Trương Sinh không đủ bình tĩnh, sáng suốt để phân tích những điều phi lý trong lời nói con trẻ. Con người độc đoán ấy đã vội vàng kết luận, “đinh ninh là vợ hư“. Chàng bỏ ngoài tai tất cả những lời biện bạch, thanh minh, thậm chí là van xin của vợ. Khi Vũ Nương hỏi ai nói thì lại giấu không kể lời con. Ngay cả những lời bênh vực của họ hàng, làng xóm cũng không thể cởi bỏ oan khuất cho Vũ Nương. Trương Sinh đã bỏ qua tất cả những cơ hội để cứu vãn tấn thảm kịch, chỉ biết la lên cho hả giận. Trương Sinh lúc ấy khống còn nghĩ đến tình nghĩa vơ chồng, cũng chẳng quan tâm đến công lao to lớn của Vũ Nương đối với gia đình, nhất là gia đình nhà chồng. Từ đây, có thể thấy Trương Sinh là sản phẩm của chế đố nam quyền bất công, thiếu lòng tin và thiếu tình thương, ngay cả với người thân yêu nhất.

Mặt khắc, do cuộc hôn nhân giữa Vũ Nương và Trương Sinh vốn không bình đẳng, Vũ Nương chỉ là “ nhà kẻ khó”, còn Trương Sinh là “con nhà hào phú”. Thái độ tàn tệ, rẻ rúng của Trương Sinh đối với Vũ Nương đã phần nào thể hiện quyền thế của người giàu đối với người nghèo trong một xã hội mà đồng tiền đã bắt đầu làm đen bạc thói đòi.

Một nguyên nhân khác, đó là do lễ giáo phong kiến hà khắc, bất công, người phụ nữ không có quyền được nói, không có quyền được bảo vệ mình. Trong lễ giáo ấy, chữ trinh là chữ quan trọng hàng đầu. Người phụ nữ khi đã bị mang tiếng thất tiết với chồng thì sẽ bị cả xã hội hắt hủi, chỉ còn một con đường chết để tư giải thoát.

Cuộc chiến tranh phong kiến phi nghĩa gây nên cảnh sinh ly và cũng góp phần dẫn đến cảnh tử biệt. Nếu không có chiến tranh, Trương Sinh không phải đi lính thì Vũ Nương đã không phải chịu nỗi oan tày trời dẫn đến cái chết thương tâm như vậy.

Ở bản thân Vũ Nương, nàng quá đề cao lòng tự trọng, trước oan tình đã nóng vội, thiếu bản lĩnh đấu tranh, sớm chọn lấy cái chết để thoát khỏi những đau khổ. Nàng vốn trong sạch và điều đó được mọi người minh chứng. Lời lẽ cay nghiệt và thái độ hồ đồ của Trương Sinh là vô cớ. Nếu Vũ Nương biết kìm cự, trấn an mình, tìm kiếm nguyên nhân khiến Trương Sinh nghi ngờ thì nàng đã không phải chết oan uổng đến như vậy.

Bi kịch của Vũ Nương là một lời tố cáo xã hỏi phong kiến xem trong quyền uy của kẻ giàu có và của người đàn ông trong gia đình, đồng thời bày tỏ niềm cảm thương của tác giả đối với số phận oan nghiệt của người phu nữ. Người phụ nữ đức hanh ở đây không những không được bênh vực, chở che mà lại còn bị đối xử một cách bất công, vô lý; chỉ vì lời nói thơ ngây của đứa trẻ và vì sự hồ đồ, vũ phu của anh chồng hay ghen tuông mà đến nỗi phải kết liễu cuộc đòi mình.

Nghệ thuật xây dựng truyện.

“Chuyên người con gái Nam Xương” xây dựng tình huống truyện độc đáo, đặc biệt là chi tiết “chiếc bóng trên tường”. Đây là sự khái quát hóa tấm lòng, sự ngộ nhận và sự hiểu lầm của từng nhân vật. Hình ảnh này hoàn thiện thêm vẻ đẹp, nhân cách của Vũ Nương, đồng thời cũng thể hiện rõ nét hơn số phận bi kịch của Vũ Nương nói riêng và người phụ nữ Việt Nam nói chung.

Nghệ thuật dựng truyện, dẫn dắt tình huống truyện hợp lý. Chi tiết “chiếc bóng” là đầu mối câu chuyện lại chỉ xuất hiện một lần duy nhất ở cuối truyện, tạo sư bất ngờ, bàng hoàng cho người đọc và tăng tính bi kịch cho câu chuyện. Tác giả có nhiều sự sáng tạo so với cốt truyện cổ tích chàng Trương bằng cách sắp xếp thêm bớt chi tiết một cách độc đáo.

Nhân vật được xây dựng qua lời nói và hành động. Các lời trần thuật và đối thoại của nhân vật sử dung nhiều hình ảnh ước lệ nhưng vẫn khắc hoạ đậm nét và chân thật nội tâm nhân vật. Sử dụng yếu tố truyền kì (kì ảo) làm nổi bật giá trị nhân đạo của tác phẩm. Yếu tố kỳ ảo, hoang đường làm câu chuyện vừa thực vừa mơ, vừa có hậu vừa không có hậu, làm hoàn chỉnh vẻ đẹp của Vũ Nương. Kết hợp các phương thức tự sư xen lẫn biểu cảm (trữ tình) làm nên một áng văn xuôi tự sự còn sống mãi với thời gian.

Các chi tiết kỳ ảo trong “Chuyện người con gái nam Xương” góp phần hoàn thiện tính cách nhân vật, thúc đẩy tình huống truyện phát triển. Các yếu tố này được đưa vào xen kẻ với những yếu tố thực về địa danh, về thời điểm lịch sử, những chi tiết thực về trang phục của các mỹ nhân, về tình cảnh nhà Vũ Nương không người chăm sóc sau khi nàng mất… Cách thức này làm cho thế giới kỳ ảo lung linh, mơ hồ trở nên gắn với cuộc đời thực, làm tăng độ tin cậy, khiến người đọc không cảm thấy ngỡ ngàng.

Cách kết thúc li kỳ làm nên đặc trưng của thể loại truyện truyền kỳ; hoàn chỉnh thêm nét đẹp vốn cổ của Vũ Nương: nặng tình, nặng nghĩa, quan tâm đến chồng con, phần mộ tổ tiên, khao khát được phục hồi danh dự; tạo nên một kết thúc phần nào có hâu cho câu chuyện. Tình tiết li kỳ còn thể hiện sự bất lực của con người trước cuộc sống, cần có sức mạnh siêu nhiên để tương trợ. Kẻ thiện lương được cứu vớt, minh oan thể hiện về ước mơ, về lẽ công bằng ở cõi đời của nhân dân ta.

Chi tiết kỳ ảo đồng thời cũng không làm mất đi tính bi kịch của câu chuyện. Vũ Nương trở về mà vẫn xa cách ở giữa dòng bởi nàng và chồng con vẫn âm dương chia lìa đôi ngả, hạnh phúc đã vĩnh viễn rời xa. Tác giả đưa người đọc vào giấc chiêm bao rồi lại kéo chúng ta sực tỉnh giấc mơ – giấc mơ về những người phụ nữ đức hạnh vẹn toàn. Sương khói giải oan tan đi, chỉ còn một sự thực cay đắng: nỗi oan của người phụ nữ không một đàn tràng nào giải nổi. Sự ân hận muộn màng của người chồng, đàn cầu siêu của tôn giáo đều không cứu vãn được người phụ nữ. Đây là giấc mơ mà cũng là lời cảnh tỉnh của tác giả. Nó để lại dư vị ngậm ngùi trong lòng người đọc và là bài học thấm thìa về giữ gìn hạnh phúc gia đình.

  • Kết bài:

Chuyện người con gái nam Xương phản ánh hiện thực xã hội phong kiến bất công vói chế độ nam quyền, chà đạp số phận người phụ nữ (Đại diện là nhân vật Trương Sinh); phản ánh số phận con người chủ yếu qua số phận phụ nữ: chịu nhiều oan khuất và bế tắc và tố cáo bộ mặt xã hội phong kiến bất nhận, tàn bạo với những cuộc chiến tranh phi nghĩa làm cho cuộc sống của người dân càng rơi vào bế tắc. Qua đó, tác phẩm ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam.

Suy nghĩ về bi kịch cuộc đời của nhân vật Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang