»» Nội dung bài viết:
Đặc trưng của kịch bản văn học
1. Kịch bản văn học và nghệ thuật sân khấu
Kịch bản là một thể loại đặc biệt, ở đây có sự kết hợp giữa văn học và một loại hình nghệ thuật khác, nghệ thuật biểu diễn. Hêghen và Biêlinxki cho rằng kịch là một nghệ thuật tổng hợp nhưng là tổng hợp của hai phương thức tự sự và trữ tình. Ý kiến này nhấn mạnh tới phương thức biểu hiện bằng cốt truyện và phương thức tự biểu hiện của nhân vật. Không hề có nghĩa rằng những tác phẩm nào vừa là tự sự vừa là trữ tình, thì đều là kịch và mặt khác, trong kịch vừa có tự sự vừa có trữ tình, song đó không phải là nét đặc trưng của thể loại kịch.
Là một loại thể văn học đặc biệt, do đó khi kịch bản được viết ra, kịch bản mới được hoàn chỉnh một nửa, còn một nửa phụ thuộc vào nghệ thuật biểu diễn trên sân khấu. Gôgôn đã nhấn mạnh yếu tố biểu diễn của kịch: “Nếu không có sân khấu thì kịch chỉ có linh hồn chứ chưa có thể xác”. Pôgôđin, nhà viết kịch Xô viết cũng nói: “Sân khấu là thực chất của văn học kịch. Ở hình thái đầu tiên của mình, không có sân khấu, văn học kịch bản giống như người con gái đẹp đang ngủ”. Nhưng kịch bản văn học lại có tầm quan trọng đặc biệt. Không có kịch bản văn học thì sẽ không có sân khấu kịch.
Bằng những ưu thế riêng của nghệ thuật dàn dựng, nghệ thuật diễn xuất, âm thanh, điệu nhạc, màu sắc, ánh sáng, bài trí, trang phục, … họ đã tái hiện một cách trực tiếp và sinh động nội dung của kịch bản văn học trên sàn diễn. Dĩ nhiên là không phải bất cứ một kịch bản văn học nào cũng đều có điều kiện dàn dựng trên sân khấu: “Một loại thể văn học có đầy đủ những đặc trưng và tính chất riêng trong cấu trúc hình tượng, trong phương thức biểu hiện, trong ngôn ngữ nghệ thuật, người ta vẫn có thể thưởng thức tác phẩm bằng cách đọc kịch bản hoặc nghe kịch bản (qua rađiô)”.
Tuy nhiên, kịch bản văn học được viết ra chủ yếu là để diễn trên sân khấu trước một tập thể khán giả trong một thời gian nhất định nên nghệ thuật sân khấu quy định hết sức chặt chẽ quá trình sáng tác kịch bản văn học của nhà văn. Sự quy định đó có thể được thể hiện ở nhiều mặt. Trước hết là dung lượng phản ánh của kịch bản văn học. Nhà văn không thể xây dựng kịch bản với với một thời gian quá dài với nhiều nhân vật qua những không gian rộng lớn như trong tiểu thuyết. Ngoài ra, nhân vật con phải “sân khấu hóa” tất cả những gì được miêu tả. Những sự kiện, diễn biến của cốt truyện phải được xây dựng thế nào cho phù hợp với việc thể hiện một cách trực tiếp trên sân khấu thông qua hành động, ngôn ngữ của diễn viên. Như vậy, có thể nói, kịch bản là một tác phẩm văn học hoàn chỉnh nhưng đồng thời gắn bó chặt chẽ với nghệ thuật sân khấu. Chính nghệ thuật này quy định những đặc điểm của kịch bản văn học.
2. Đặc trưng của kịch bản văn học.
a. Xung đột kịch.
Xung đột là đặc điểm về đề tài và chủ đề của kịch bản văn. Tác phẩm kịch có nhiệm vụ chính là miêu tả những bức tranh sinh hoạt của đời sống xã hội. Nó có thể đề cập đến những mâu thuẫn trong trạng thái manh nha, âm ỷ, cũng như ở những giai đoạn đối lập, đấu tranh, xung đột. Nhưng kịch bản văn học chủ yếu là để diễn trên sân khấu, xét từ hai mặt trình diễn cũng như thưởng thức, phải chịu nhiều hạn chế về không gian và thời gian. Lê Tiến Dũng cho rằng: “Xung đột là biểu hiện cao nhất sự phát triển mâu thuẫn giữa các lực lượng, các tính cách trong một vở kịch. Chính nó tạo nên kịch tính cho một vở kịch. Ngay các yếu có kịch tính trong tác phẩm tự sự hay trữ tình cũng được bắt nguồn từ các xung đột”.
Xung đột của vở kịch Âm mưu và tình yêu của Sinle được xây dựng trên cơ sở mâu thuẫn giữa tình yêu trong trắng, thắm thiết của một đôi trai tài, gái sắc và những âm mưu xấu xa, đen tối của triều đình phong kiến cùng bọn quan lại chóp bu nhằm huỷ hoại nó. Xung đột đó đã tạo nên một loạt hành động đối nghịch giữa cha và con, giữa gia đình ông nhạc sư nghèo và quan tể tướng. Phécđinăng đe doạ quan tể tướng. Quan tể tướng làm kế li gián. Thế là Phécđinăng với người yêu nghi ngờ nhau. Phécđinăng tuyệt vọng bỏ thuốc độc để hai người cùng uống, đến khi sắp chết hai người mới nhận ra âm mưu nham hiểm! Thế là ngay từ đầu, xung đột xảy ra liên tục cho tới khi dẫn đến cái chết thảm khốc của cả hai người.
Mỗi thể loại tác phẩm đều có đặc trưng khác nhau. Với thơ, đó là yếu tố cảm xúc, là tâm trạng chủ quan. Với tiểu thuyết, đó là sự mô tả mang tính khách quan về đời sống xã hội và con người. Riêng với kịch, có thể khẳng định ngay rằng đó là yếu tố xung đột. Thực tế cho thấy tính xung đột có mặt ở hầu hết các thể loại. Trong sự vận động của hình tượng thơ, mâu thuẫn bộc lộ ở những trạng thái xúc cảm đối lập: vui và buồn, hạnh phúc và đau khổ, hy vọng và tuyệt vọng, say mê và chán nản, … Trong tác phẩm tự sự như tiểu thuyết, truyện ngắn, yếu tố xung đột bộc lộ rõ rệt hơn và sự vận động của cốt truyện lẫn sự phát triển của tính cách nhân vật. Với kịch, yếu tố xung đột, theo Hà Minh Đức, “chính là tính chất tập trung cao độ của những khối mâu thuẫn lớn, là sự chi phối trực tiếp đến cấu trúc tác phẩm và nhịp độ vân động dồn dập khác thường của cốt truyện”.
Xung đột là động lực chính thúc đẩy sự phát triển đã được xác lập nên các quan hệ mới giữa các nhân vật vốn được coi là kết thúc tất yếu của tác phẩm kịch. Thiếu xung đột, thì tác phẩm kịch đã mất đi đặc trưng cơ bản đầu tiên của thể loại, sẽ trở thành vô nghĩa, thậm chí “có thể là những vở kịch tồi”2 nói như Lunatrátxki. Xung đột kịch thường nằm ở thời thời điểm cao trào của sự mâu thuẫn. Từ những mẫu thuẫn đang tồn lại trong hiện thực, người viết kịch phải tiến hành quá trình chọn lọc, tổng hợp và sáng tạo để đưa ra những xung đột mang tính khái quát cao, đồng thời lại phải hiện thực hóa để nó trở nên chân thực và gần gũi.
Ở thời cổ đại, đó là sự xung đột giữa thế giới quan thần linh, tư tưởng định mệnh với khát vọng làm chủ thiên nhiên, làm chủ bản thân của con người. Trong xã hội nô lệ, đó là xung đột giữa những người nô lệ muốn đấu tranh giành lại tự do với bọn chủ nô. Trong xã hội phong kiến, đó là xung đột giữa một bên là uy quyền của vua chúa, quan lại với người dân bị áp bức và đòi được giải phóng. Trong thời kì hiện đại, các xung đột thường xoay quanh những vấn đề cách mạng và phản cách mạng, cái thiện, cái ác, cái mới, cái cũ, cái tốt, cái xấu, …
Xung đột kịch do tính chất sân khấu qui định đồng thời xung đột làm cho kịch có tính sân khấu. Sức hấp dẫn của một vở kịch là ở chỗ nhà văn phải phát hiện, nêu ra và giải quyết các xung đột lớn nhỏ trong vở kịch. Các yếu tố khác của kịch phải góp phần tô đậm xung đột và dẫn đến một kết cục sâu sắc, gần gũi với những vấn đề của cuộc sống.
b. Hành động kịch:
Nếu trong đời sống hàng ngày, hành động được coi là phương tiện bộc lộ rõ rệt đặc điểm cá tính của mỗi cá nhân thì trong văn học, kịch là thể loại mang lại “sự nhận thức thực tại thông qua yếu tố hành động”. Trong một kịch bản, dù bi, hài hay chính kịch, nếu xung đột được coi là điều kiện cần thiết làm nảy sinh tác phẩm thì hành động lại là yếu tố duy trì sự vận hành của tác phẩm. Nói đến kịch là nói đến nghệ thuật biểu diễn của diễn viên. Người diễn viên muốn biểu diễn tốt phải nói đến bản chất hành động của kịch. Do đó, hành động là một đặc trưng không thể thiếu của kịch. Hành động trong kịch có thể gây nên những cảm xúc đau buồn, thương xót bởi cái kết cục bi thảm như ở bị kịch, cũng có thể làm người ta phải bật cười vì xấu nhưng cố tình tỏ ra là đẹp, tỳ tiện làm ra vẻ vĩ đại, ngu ngốc làm ra vẻ thông thái như trong hài kịch.
Từ kịch trong ngôn ngữ châu Âu có nghĩa là động tác, là hành động. Từ tiếng Anh action thường được dich là hành động, tình tiết, sắp xếp. Thời cổ đại có Arixtốt đã định nghĩa kịch là sự mô phỏng hành động và cho đến nay nó vẫn là khái niệm cơ bản, kịch là nghệ thuật của hành động, tạo thành hành động kịch.
Trong Mĩ học, Hêghen đã tìm cách giải thích khái niệm hành động kịch. Theo ông, “kịch không kể chuyện quá khứ như tự sự, cũng không dừng lại ở bộc lộ cảm xúc nội tâm như trữ tình, mà là tâm trạng, cảm xúc, động cơ phải chuyển ngay sang hành động bên ngoài. Ở đây hành động là sự thể hiện của ý chí, động cơ, là sự can dự ra ngoài của chủ thể. Arixtốt nói kịch là “sự bắt chước một hành động quan trọng và hoàn chỉnh”1. Điều đó, theo Hêghen, có nghĩa là “trong kịch, tâm trạng cụ thể phải phát triển thành động cơ, thành sức thúc đẩy và thông qua ý chí mà trở thành hành động, đạt đến sự thực hiện niềm mong muốn của cõi lòng”.
Cốt truyện và hành động kịch phải thống nhất tập trung, đòi hỏi chi tiết, tình tiết, sự kiện không những phải cô đúc, gãy gọn mà còn phải liền đến nhau một cách chặt chẽ, lôgíc, tất yếu, tự nhiên. Létxing nói: “Nhà viết kịch chân chính cố suy suy tính tính cách của các nhân vật sao cho các sự việc thúc đẩy nhân vật hoạt động, được diễn ra từ sự việc này dẫn tới sự việc kia một cách tất yếu”. Xung đột kịch được triển khai thông qua các hành động. Hành động là cơ sở của tác phẩm kịch. Hành động là những hoạt động bao gồm cả ngôn ngữ, cử chỉ, thái độ, quan hệ, … của con người trong cuộc sống xung quanh. Trong kịch, hành động được thể hiện qua suy nghĩ của nhân vật, qua hành vi, động tác, ngôn ngữ của họ. Theo Lê Tiến Dũng, “hành động kịch là sự “diễn đạt”, “biểu diễn” kịch tính đó ra bên ngoài, tạo nên tính sân khấu của một vở kịch. Thực tiễn đã cho thấy rằng, những vở kịch tập trung thuyết lý nhiều, ít hành động thường rất khó diễn đã đành, mà cũng ít hấp dẫn, bởi vì đã xa rời một trong những nguyên tắc quan trọng nhất của sân khấu là biểu diễn”2.
Trong mỗi vở kịch, mỗi diễn viên sẽ có một hệ thống hành động chính gọi là hành động xuyên nhằm thể hiện tư tưởng trọng tâm của nhân vật. Trong Roméo và Juliette của Shakespeare, tất cả những động tác, cử chỉ, lời nói của hai nhân vật luôn gắn liền với ý thức bảo vệ và hy sinh cho tình yêu. Qua hàng loạt các hành động của các tính cách, các xung đột của kịch được bộc lộ.
c. Nhân vật kịch:
Về nhân vật, nhân vật của kịch thường là nhân vật có tính cách mạnh mẽ, nổi bật. Bởi lẽ, kịch viết ra là để diễn trên sân khấu, do đó nội dung bị hạn chế về thời gian và không gian, vì vậy số lượng nhân vật không thể quá đông đúc, không được khắc hoạ với nhiều khía cạnh tỉ mỉ và không có tính cách quá ư phức tạp. Tính cách trong kịch, do đó phải thật nổi bật. Timôfêép giải thích: “Hình tượng kịch phản ánh những mâu thuẫn của cuộc sống đã chín mùi gay gắt nhất và đã được xác định, chính vì vậy nó được xây dựng trên cơ sở nhấn mạnh trong tính cách con người, sự cảm xúc phiến diện do các mâu thuẫn trên quy định”3. Có mạnh mẽ và đặc biệt mới để lại những ấn tượng sâu sắc. Hămlét đầy lí trí, Ôtenlô cả tin và ghen tuông, Đétxđêmôna trong trắng, thơ ngây, Mácbét tàn bạo, Rômêô và Giuliét say đắm và mãnh liệt trong tình yêu, Thị Mầu khao khát tình yêu, Xúy Vân yêu mãnh liệt, …
Sự xuất hiện của nhân vật trong tác phẩm kịch gần giống với sự xuất hiện của nhân vật trong truyện ngắn. Nghĩa là nhân vật hiện hình trong tác phẩm vào đúng thời điểm “bước ngoặt số phận”. Riêng kịch, sau khi xuất hiện, nhân vật kịch “nhập” ngay vào tuyến xung đột và bị cuốn nhanh vào “guồng hành động” của tác phẩm. Mọi tình huống trong tác phẩm kịch đều góp phần đắc lực cho nhân vật hành động. Một vở kịch được diễn trên sân khấu, chỉ có nhân vật đi lại, nói năng, hoạt động. Trong kịch bản văn học, ngoài nhân vật, còn có những lời chỉ dẫn về cảnh vật, con người thường được in nghiêng được tác giả viết nhằm gợi ý cho sự dàn dựng của nhà đạo diễn chứ không phải cho người xem. Vì vây, có thể nói trên sân khấu chỉ có nhân vật hành động. Tất cả mọi sự việc điều được bộc lộ thông qua nhân vật.
Nhân vật trong kịch thường chứa đựng những cuộc đấu tranh nội tâm. Dĩ nhiên, nhân vật trong các thể loại văn học khác cũng vây, nhưng trong kịch phổ biến hơn. Bởi vì đặc trưng của sự chiếm lĩnh nghệ thuật đối với hiện thực của kịch là hướng về những xung đột. Nhân vật kịch cũng luôn tự khẳng định bản chất, tính cách của mình bằng hành động: một Ácpagông keo kiệt lạ thường (Lão hà tiện – Môlie), một Rôđirigơ hành động vì dòng tộc để có lỗi với tình yêu của Simen (Lơxít – Cornây), …
Do đặc trưng của thể loại, nhân vật kich không được khắc họa tỉ mỉ từ nhiều góc độ như các nhân vật trong tiểu thuyết. Về một phương diện khác, sự xuất hiện của nhân vật trong truyện ngắn. Nghĩa là nhân vật hiện hình trong tác phẩm đúng vào thời điểm “bước ngoặt số phận”. Tuy nhiên, điểm khác biệt của riêng kịch là sau khi xuất hiện nhân vật, nhân vật “nhập” ngay vào tuyến xung đột và bị cuốn nhanh vào “guồng hành động” của tác phẩm. Chính từ đặc điểm này, nhiều tác giả kịch đã dùng biện pháp lưỡng hóa nhân vật nhằm biểu hiện cuộc đấu tranh nội tâm của chính nhân vật đó.
d.. Ngôn ngữ kịch:
Ở kịch bản văn học là tất cả mọi vấn đề xoay quanh hình tượng đều nằm trong ngôn ngữ nhân. Ngôn ngữ nhân vật là hình thái tồn tại duy nhất của ngôn ngữ kịch. Đây là một đặc điểm rất đáng lưu ý của thể loại này. So với hệ thộng ngôn ngữ tự sự, ngôn ngữ trữ tình, đây là điểm khác biệt rõ ràng. Tác giả kịch bản hoàn toàn không có chỗ đứng trong tác phẩm với tư cách là nhân vật trung tâm, là người thuyết minh, giải thích, mách bảo, biện hộ, … cho nhân vật như trong tiểu thuyết. M. Gorki cho rằng: “Các nhân vật kịch hình thành là do những lời lẽ của họ và tuyệt đối chỉ do những lời lẽ ấy mà thôi! Nghĩa là tác giả xây dựng nhân vật bằng ngôn ngữ hội thoại chứ không phải miêu tả”.
Trong kịch bản văn học, không có ngôn ngữ của người kể chuyện. Tác giả kịch bản chỉ có thể dùng những lời chú thích trực tiếp nhằm nêu rõ thời gian, địa điểm, bối cảnh của câu chuyện, hoặc để nói rõ những hành động không lời của nhân vật.
Một phương tiện rất quan trọng để bộc lộ hành động kịch là ngôn ngữ. Trong kịch không có nhân vật người kể chuyện nên không có ngôn ngữ người kể chuyện. Vở kịch được diễn trên sân khấu chỉ có ngôn ngữ nhân vật. Có thể nói đến 3 dạng ngôn ngữ nhân vật trong kịch như đối thoại, độc thoại và bàng thoại.
– Đối thoại: là ngôn ngữ đối thoại của sự đối lập qua lại giữa các nhân vật. Sự đối đáp này có thể diễn ra với nhiều cung bậc, sắc thái khác nhau: nhẹ nhàng, tha thiết và căm uất, phẫn nộ, êm ái, ngột ngào và gay gắt, … Xen kẽ giữa hệ thống ngôn ngữ đối thoại đầy chất kịch là những mẩu độc thoại của nhân vật. Văn bản kịch là một thứ văn bản nghệ thuật được xây dựng theo tinh thần của ngôn ngữ đối thoại. Tính đa thanh của ngôn ngữ kịch có được tác giả biết biết khai thác những ưu thế của ngôn ngữ đối thoại. Tuy không được dành một chỗ đứng trong tác phẩm, không được xuất hiện trên sân khấu nhưng tác giả kịch bản lại cùng một lúc có quyền nói được nhiều tiếng nói, nhiều giọng điệu khác nhau. Đối thoại là nói với nhau, là lời đối đáp qua lại giữa các nhân vật. Đây là dạng ngôn ngữ chủ yếu trong kịch. Các lời đối thoại trong kịch phải sắc sảo, sinh động và có tác dụng tương hộ với nhau nhằm thể hiện kịch tính.
– Độc thoại: là nói với chính mình. Ngôn ngữ độc thoại có một vai trò hết sức quan trọng. Để nhân vật tự nói lên những uẩn khúc chìm khuất bên trong, các tác giả kịch bản nhằm tới mục đích khai thác chiều sâu tâm lý cho nhân vật. Những trường hợp nội tâm phức tạp, dằn vặt, thì độc thoại chính lại là cuộc đối thoại giữa con tim và khối óc
của bản thân. Theo Phương Lựu, “độc thoại có lẽ là biện pháp quan trọng nhất, nhưng không phải là duy nhất để mô tả nội tâm của nhân vật. Người ta còn dùng những phút im lặng, những lời ngầm, sự quan sát của những nhân vật khác, thậm chí cả sự phục hiện hoặc tái hiện những tình huống và tâm trạng trong quá khứ của nhân vật bằng những lớp kịch xen kẽ”1. Độc thoại là lời nhân vật tự nói với mình, qua đó, bộc lộ những dằn vật nội tâm và những ý nghĩa thầm kín. Đây là biện pháp quan trọng nhất nhằm biểu hiện nội tâm nhân vật nhưng không phải là biện pháp duy nhất. Để biểu hiện nội tâm, bên cạnh độc thoại, người ta có thể thay thế bằng những phút yên lặng, những tiếng vọng, tiếng đế,…
– Bàng thoại: là lời nói riêng với khán giả. Có khi đang đối đáp với một nhân vật khác, bỗng nhiên nhân vật tiến lên hướng về phía khán giả nói vài câu để giải thích một cảnh ngộ, một tâm trạng, một điều bí mật hoặc giải thích một hành động. Bàng thoại là nói với khán giả.
Ngôn ngữ trong kịch phải có tính hành động, tính khẩu ngữ, tính hàm súc, tính tổng hợp và phải phù hợp với tính cách nhân vật. Ngôn ngữ nhân vật kịch đòi hỏi người viết phải có một vốn hiểu biết phong phú và sâu rộng về quần chúng, nắm được cách nói đa dạng của quần chúng, điều này quan trọng đối với mọi nhà văn nói chung nhưng đặc biệt là đối với người viết kịch.