Đọc hiểu văn bản Bài ca Côn Sơn (Côn Sơn ca – Nguyễn Trãi) (Ngữ văn 8, Chân trời sáng tạo)

doc-hieu-van-ban-bai-ca-con-son-con-son-ca-nguyen-trai-ngu-van-8-chan-troi-sang-tao

Đọc hiểu văn bản:

Bài ca Côn Sơn
(Côn Sơn ca – Nguyễn Trãi)
(Ngữ văn 8, Chân trời sáng tạo)

I. Tác giả, tác phẩm.

1. Tác giả: Nguyễn Trãi.

Nguyễn Trãi (1380 – 1442), hiệu là Ức Trai, con của Nguyễn Phi Khanh, là nhà quan sự lỗi lạc; nhà văn, nhà thơ xuất sắc; anh hùng giải phóng dân tộc; danh nhân văn hóa thế giới.

– Quê quán: quê gốc ở thôn Chi Ngại, xã Cộng Hòa, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương; sau dời đến làng Nhị Khê, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây (nay thuộc Hà Nội)

– Ông tham gia khởi nghĩa Lam Sơn với vai trò rất lớn bên cạnh Lê Lợi. Nguyễn Trãi trở thành một nhân vật lịch sử lỗi lạc, toàn tài hiếm có. Nhưng cuối cùng, ông bị giết oan khốc và thảm thương vào năm 1442 và mãi đến năm 1464, mới được vua Lê Thành Tông rửa oan

– Ông đế lại một sự nghiệp văn chương đồ sộ và phong phú, trong đó có: “Bình ngô đại cáo”, “Ức Trai thi tập”, “Quốc âm thi tập”, “Quân trung từ mệnh tập”

– Ông là người Việt Nam đầu tiên được UNESCO công nhận là Danh nhân van hóa thế giới (năm 1980)

2. Tác phẩm.

– Hoàn cảnh ra đời: “Bài ca Côn Sơn” (Côn Sơn ca) có nhiều khả năng được sáng tác trong thời gian ông bị chèn ép, đành phải cáo quan về sống ở Côn Sơn. Trong nguyên văn chữ Hán, bài thơ được viết theo thể thơ khác nhưng ở đây được dịch bằng thể thơ lục bát.

– Bố cục:

– Phần 1 (4 câu thơ đầu): Cảnh thiên nhiên Côn Sơn.

– Phần 2 (4 câu thơ cuối): Con người trong thiên nhiên Côn Sơn.

– Nội dung: Với hình ảnh nhân vật “ta” giữa cảnh tượng Côn Sơn nên thơ, hấp dẫn, đoạn thơ cho thấy sự giao hòa trọn vẹn giữa con người và thiên nhiên bắt nguồn từ nhân cách thanh cao, tâm hồn thi sĩ của chính Nguyễn Trãi

– Nghệ thuật: Đan xen các chi tiết, các câu thơ tả cảnh và tả người. Sử dụng các biện pháp tu từ: so sánh, điệp từ (ta, Côn Sơn, như). Giọng điệu nhẹ nhàng, êm ái

II. Đọc hiểu văn bản.

1. Cảnh vật Côn Sơn.

– Cảnh sắc thiên nhiên rộng lớn, hoang sơ của Côn Sơn được nhà thơ chọn ra những đặc điểm tiêu biểu nhất, đặc sắc nhất để diễn tả – đây là bút pháp quen thuộc trong các tác phẩm thơ trung đại:

+ Suối: tiếng suối như tiếng đàn cầm.

+ Đá rêu phơi êm ái như ngồi trên chiếu.

+ Thông mọc như nêm: thông mọc rậm và dày.

+ Trúc bóng râm: trúc rậm, râm mát, dày tạo nên bóng râm khi trời nắng.

→ Núi non hoang sơ kết hợp với thiên nhiên hoang sơ nhưng chứa đựng nhiều điều đẹp đẽ.

– Biện pháp nghệ thuật:

+ Cảnh vật được miêu tả bằng thủ pháp so sánh giàu sức gợi.+ Bức tranh có sự kết hợp giữa âm thanh và màu sắc.

+ Hình ảnh được lựa chọn miêu tả: thông, trúc – loài cây tượng trưng cho Côn Sơn, biểu trưng của sự thanh cao

→  Gợi vẻ đẹp ngàn xưa, thanh cao, khoáng đạt, yên tĩnh và nên thơ: Có âm thanh sống động hồn người, có sắc xanh bất tận bao la hùng vĩ của cây rừng Côn Sơn. Thiên nhiên như một người bạn tri âm, tri kỉ của nhà thơ.

2. Con người giữa cảnh vật thiên nhiên Côn Sơn

– Sử dụng điệp từ, đại từ nhân xưng “ta” nhằm nhấn mạnh sự có mặt của “ta” ở mọi cảnh đẹp của Côn Sơn.  “Ta” hiện diện giữa thiên nhiên, hưởng thụ thiên nhiên với những thú vui tao nhã. Nghe tiếng suối như tiếng đàn cầm, đá như chiếu để nằm thảnh thơi

– Sử dụng hàng loạt các động từ khẳng định tư thế làm chủ của con người trước thiên nhiên khoáng đạt: “Ta nghe, ta ngồi, ta nằm, ta ngâm thơ nhàn…”. Con người không những hưởng thụ cuộc sống mà còn có thú vui “ngâm thơ” thể hiện một tâm hồn thư thái, an nhàn, vô vi.

 Nhân vật trữ tình thả hồn mình, sống cuộc sống thanh cao, hòa mình vào giữa khung cảnh thiên nhiên Côn Sơn.

3. Mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên:

– Gắn bó, giao hoà nhưng con người không bị tan biến trước thiên nhiên khoáng đạt.

– Nhân vật trữ tình tha thiết muốn hoà vào cảnh vật một cách chân tình, trọn vẹn:

+ Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai.

+ Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm.

+ Tìm nơi bóng mát ta lên ta nằm.

+ Trong màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn.

Thể hiện cuộc sống thanh cao, sự hoà hợp giữa con người với thiên nhiên tươi đẹp, trong lành; đồng thời ca ngợi sức sống thanh cao, hòa hợp giữa con người với thiên nhiên.

III. Tổng kết.

1. Nội dung:

– Bài thơ thể hiện vẻ đẹp hấp dẫn, nên thơ của thiên nhiên Côn Sơn và tâm hồn, nhân cách thanh cao, sống hòa hợp với thiên nhiên của Nguyễn trãi. Sự giao hòa trọn vẹn giữa con người và thiên nhiên bắt nguồn từ nhân cách thanh cao, tâm hồn thi sĩ của chính Nguyễn Trãi
Trãi.

2. Nghệ thuật:

– Điệp từ, so sánh, giọng thơ nhẹ nhàng, êm đềm, bản dịch bằng thể thơ lục bát với ngôn ngữ trong sáng, sinh động,…

– Sự giao hòa trọn vẹn giữa con người và thiên nhiên bắt nguồn từ nhân cách thanh cao, tâm hồn thi sĩ của chính Nguyễn Trãi.


* Tài liệu tham khảo.

Cảm nhận bài thơ Bài ca Côn Sơn của Nguyễn Trãi.

Bài làm 1:

  • Mở bài:

Nguyễn Trãi là nhà quân sự lỗi lạc, nhà văn, nhà thơ xuất chúng, anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. Nguyễn Trãi là người đặt nền móng cho thơ ca tiếng Việt, vì những tác phẩm thơ ca bằng chữ Nôm của ông có vị trí khai mở cho nền thơ ca nước nhà. Thơ Nguyễn Trãi dùng nhiều hình ảnh đẹp mang tính dân tộc (bên cạnh những hình ảnh có tính ước lệ trong văn học Hán). Bài ca Côn Sơn (Côn Sơn ca) được sáng tác khi nhà thơ vè ở ẩn ở qurr nhà. Côn Sơn.

  • Thân bài:

– Thiên nhiên núi rừng ở Côn Sơn được nhà thơ chọn ra những đặc điểm tiêu biểu nhất, đặc sắc nhất để diễn tả – đây là bút pháp quen thuộc trong các tác phẩm thơ trung đại với tiếng “suối chảy rì rầm”, những tảng đá với rêu xanh phủ kín, rừng thông mọc dày, rừng trúc xanh mát:

Côn Sơn suối chảy rì rầm,
Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai.
Côn Sơn có đá rêu phơi,
Ta ngồi trên đá như ngồi đệm êm.
Trong ghềnh thông mọc như nêm,
Tìm nơi bóng mát ta lên ta nằm.
Trong rừng có bóng trúc râm,
Dưới màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn.

– Bằng vài nét phác họa, thi sĩ Nguyễn Trãi đã vẽ ra ngay trước mắt người đọc một bức tranh phong cảnh khoáng đạt, nên thơ và hữu tình. Tất cả xây dựng nên một chốn thiên nhiên rộng lớn, xanh mát, nguyên sơ, chưa có dấu chân người, tràn đầy hấp dẫn.

– Thi nhân lúc lắng nghe tiếng suối, lúc ngồi trên đá êm, lúc nằm dưới bóng thông xanh, lúc ngâm thơ giữa rừng trúc cho thấy tác giả đang sống trong những giây phút thảnh thơi, thanh nhàn. Thi sĩ như đang thả hồn, hòa mình với thiên nhiên, để thưởng ngoạn cảnh trí Côn Sơn – một cảnh đẹp nên thơ, khoáng đạt.

– Nhà thơ sử dụng nhiều hình ảnh so sánh để tô đạm vẻ đẹp thiên nhiên trong tâm tưởng của  mình. Cảnh Côn Sơn đẹp tựa như tranh, rất nên thơ, hữu tình và khoáng đạt như bao bọc lấy của con người trong sự êm đềm thanh tĩnh của nó. Dưới ngòi bút tinh tế của tác giả, bức tranh Côn Sơn nên thơ, nên hoạ, nên nhạc đã đề lại trong lòng người đọc dấu ấn khó phai mờ. Con người và thiên nhiên đã tạo nên một không gian rộng lớn bao trùm lên con người của tác giả.

– Đến với câu thơ cuối, ta bắt gặp nhân vật trữ tình “ta” ngâm thơ dưới màu xanh mát của trúc bóng râm, gợi cho ta nghĩ đến hình ảnh một tiên ông nhàn tản, không chút vấn vương thế sự. Đó một thi sĩ đa tình đang thả trọn tâm hồn với thiên nhiên.

– Cảnh vật được miêu tả bằng thủ pháp so sánh giàu sức gợi. Bức tranh có sự kết hợp giữa âm thanh và màu sắc. Hình ảnh được lựa chọn miêu tả: thông, trúc – loài cây tượng trưng cho Côn Sơn, biểu trưng của sự thanh cao, thể hiện cảnh sắc thiên nhiên lâu đời, nguyên thủy đưa tới cảm giác rất thanh cao, mát mẻ và trong lành

– Bức tranh thiên nhiên gợi vẻ đẹp ngàn xưa, thanh cao, khoáng đạt, yên tĩnh và nên thơ: Có âm thanh sống động hồn người, có sắc xanh bất tận bao la hùng vĩ của cây rừng Côn Sơn, qua đó ca ngợi vẻ đẹp Côn Sơn, gợi cảm giác của cõi yên tĩnh, tu dưỡng tâm hồn.

– Trong con mắt của tác giả, thiên nhiên hoang sơ cũng trở nên đầy hấp dẫn, lý thú, đẹp đẽ và nên thơ. Đứng giữa thiên nhiên ấy, mở lòng mình ra, tác giả cảm nhận như đang hưởng thụ cuộc sống tuyệt vời với nhạc điệu, chiếu mềm, bóng mát do thiên nhiên ban tặng. Tâm hồn thi sĩ trở nên thảnh thơi, ung dung, tự tại, phóng khoáng, sảng khoái, nhàn tản như chẳng hề lo nghĩ gì ngoài cái thứ hòa nhập cùng thiên nhiên.

→ Tất cả thể hiện tâm thế nhàn nhã, chủ động, làm chủ thiên nhiên của nhân vật trữ tình. Nhân vật trữ tình thả hồn mình, sống cuộc sống thanh cao, hòa mình vào giữa khung cảnh thiên nhiên Côn Sơn.

– Bài thơ được sáng tác trong hoàn cảnh Nguyễn Trãi về Côn Sơn ở ẩn, để tránh xa chốn quan trường đầy rẫy những xu nịnh, bất công. v.v… nhưng ông vẫn một lòng lo cho nước, cho dân. Chính vì thế mà chúng ta càng phải cảm phục vẻ đẹp tài hoa và tâm hồn thi sĩ của ông. Trong muôn vàn vướng bận, Nguyễn Trãi vần dành cho thiên nhiên một tình yêu thật tươi trong và tuyệt đẹp. Đó cũng chính là vẻ đẹp nhất trong tâm hồn cao quý của ông.

– Bài thơ sử dụng biện pháp điệp từ xen kẽ (Côn Sơn ta – Côn Sơn – ta) tạo cảm giác hòa quyện, đan xen, khó tách rời giữa con người và thiên nhiên.

– Điệp từ trong đoạn thơ: “Côn Sơn” điệp 2 lần; “ta” điệp 5 lần; “trong” điệp 3 lần; “có” điệp 2 lần có ý nghĩa rất đặc biệt, nó tiết tấu nhịp nhàng của bài thơ, không gian như được mở rộng bao la và cả những hình tượng thơ sâu sắc đã làm cho tâm hồn của tác giả có những cảm nhận mới mẻ từ đó giúp cho nhân vật hiểu sâu sắc và có định hướng trong sáng tác.

– Bài thơ có nhiều hình ảnh so sánh ví von: “tiếng suối” ví như “tiếng đàn cầm”, “đá rêu phơi” so sánh với “chiếu êm”. Cách ví đó thể hiện sự tinh tế, sự liên tưởng – tưởng tượng độc đáo, lãng mạn tài hoa của nhà thơ. Qua đó thể hiện tâm hồn giao hòa với thiên nhiên của Nguyễn Trãi.

  • Kết bài:

Bài thơ là cảm xúc về cái đẹp, cái nên thơ của quê hương, lòng yêu quê hương, cảm xúc về cuộc sống thanh thản trong sự hòa hợp với thiên nhiên, qua đó thể hiện sự giao hòa trọn vẹn giữa con người và thiên nhiên bắt nguồn từ nhân cách thanh cao, tâm hồn thi sĩ của chính Nguyễn Trãi.

Bài làm 2:

  • Mở bài:

Nguyễn Trãi là một nhà quân sự tài ba, một nhà văn, nhà thơ xuất chúng, anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. Xuất phát từ yêu cầu cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, Nguyễn Trãi dùng văn chương như một vũ khí đấu tranh sắc bén và hiệu quả. Tuy nhiên, ông vẫn dành những vần thơ tha thiết ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên, vẻ đẹp cuộc sống bình dị và quê hương, đất nước. Trong đó, có thể kể đến Bài ca Côn Sơn, một tác phẩm được Nguyễn Trãi sáng tác khi về ở ẩn nơi quê nhà.

  • Thân bài:

Sau bao biến động, Nguyễn Trãi đã chọn cách lui về quê nhà, sống cuộc đời giản dị, xa rời con đường lợi danh. Tại Côn Sơn, ông hòa mình vào thiên nhiên rộng lớn. “Côn Sơn ca” là bài ca giao cảm với thiên nhiên, cũng là bài ca tâm trạng thời thế, triết lý về cuộc đời.

Phần đầu nói về vẻ đẹp lâm tuyền của Côn Sơn bằng bốn cảnh: Suối, đá, thông và trúc. Trong nguyên tác chữ Hán, tác giả viết bằng thơ bốn chữ và thơ năm chữ, nhằm miêu tả vẻ đẹp Côn Sơn tầng tầng lớp lớp xuất hiện:

“Côn Sơn hữu tuyền,
Kỳ thanh linh linh nhiên
Ngô dĩ vi cầm huyền
Côn Sơn hữu thạch
Vũ tẩy đài phô bích
Ngô dĩ vi đạm tịch…”

Cảnh đẹp thứ nhất là suối Côn Sơn, tiếng nước chảy róc rách như tiếng đàn cầm. Cảnh đẹp thứ hai là đá, mưa sạch rêu biếc như chiếu êm. Cảnh đẹp thứ ba là rừng thông, tán lá như những chiếc lọng rủ bóng đáng yêu gắn bó với tâm hồn nhà thơ. Suối, đá, trúc, thông là nơi nương tựa, nâng đỡ tâm hồn, là đối tượng để thi nhân cùng với thiên nhiên giao hòa giao cảm, để “Ta cho là đàn cầm”, để “Ta cho là đệm chiếu”, để “Ta nghỉ ngơi” trong rừng thông, để “Ta ngâm nga” bên rừng trúc. Hình ảnh thơ là âm thanh, là màu sắc gắn liền với cảm giác, với tâm hồn nhà thơ bằng những liên tưởng vô cùng thiết tha, đằm thắm:

“Trong ghềnh thông mọc như nêm,
Tìm nơi bóng mát ta lên ta nằm.
Trong rừng có bóng trúc râm,
Dưới màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn”.

Gắn bó, chan hoà với suối, đá, thông, trúc Côn Sơn, chính là biểu lộ tấm lòng của Nguyễn Trãi đối với quê cũ yêu thương. Mấy chục năm trời loạn lạc, ly hương, không đêm nào ông không nằm mộng nhớ quê nhớ luống cúc vườn cũ:

“Tưởng nhớ vườn nhà ba rặng cúc,
Hồn về đêm vẫn gửi chiêm bao”

(“Ngày thu ngẫu nhiên làm”- Thơ dịch)

Quê cũ với tùng, với đá, với mai… biết bao thương nhớ bồi hồi:

“Thạch bạn tùng phong có thắng tưởng
Giản biên mai ảnh phụ thanh ngâm”.

(Tùng reo bậc đá ai nghe đây?
Mai chiếu bên khe thú vịnh đâu?)

Giọng thơ trầm hẳn xuống: Nguyễn Trãi đang vui thú say xưa lắng nghe tiếng suối róc rách, đang say mê ngắm nhìn rêu đá, thông rủ bóng, trúc xanh mát, rồi trầm ngâm tự nói với mình, tự nhắc nhở mình:

“Về đi sao chẳng sớm toan
Nửa đời vướng bụi trần hoàn làm chi?”

Câu thơ chữ Hán nghĩa là: Hỡi người sao không về đi, nửa đời người giam buộc mình mãi trong cát bụi làm chi? Bốn chữ “Bất quy khứ lai” lấy cảm hứng từ bài “Quy khứ lai từ” của Đào Tiềm một danh sĩ cao khiết đời Tấn bên Trung Quốc đã coi thường danh lợi không chịu khom lưng uốn gối vì mấy đấu gạo lương bổng, đã treo ấn từ quan, trở về vườn cũ, cày ruộng, ương cúc, thảnh thơi với tháng ngày. Nguyễn Trãi làm quan, tài năng không được thi thố, bị bọn quyền thần, nịnh thần chèn ép. Có lúc ông tự than: “Dưới công danh đeo khổ nhục” (“Ngôn chí” -2), hoặc: “Được thua phú quý dầu thiên mệnh – Chen chúc làm chi cho nhọc nhằn” (“Mạn thuật”-5). Người anh hùng thuở “Bình Ngô” đã từng “Viết thư thảo hịch tài giỏi hơn hết mọi thời” thế mà giờ đây tự trách mình “Nửa đời vướng bụi trần hoàn làm chi?”, điều đó cho thấy Nguyễn Trãi đang sống những ngày tháng đầy bi kịch. Đó là tâm trạng thời thế. Năm 1429, Lê Thái Tổ đã sát hại Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn Xảo, hai đại công thần; còn Nguyễn Trãi cũng đã bị hạ ngục. Sau đó tuy được tha nhưng chỉ là một cô thần “thanh chức”. Nguyễn Trãi đã nhiều năm sống trong tâm trạng muốn trở về Côn Sơn làm bạn với cỏ hoa chốn lâm tuyền:

“Ngoài năm mươi tuổi ngoài chưng thế,
Ắt đã trong bằng nước ở bầu”.

Nguyễn Trãi có lúc tự dặn mình: “Vườn quỳnh dù có chim hót – Cõi trần có trúc đứng ngăn”. Nhưng trước áp lực của bọn nịnh thần, ông phải lui về Côn Sơn. Mấy năm sau Lê Thái Tôn lại xuống chiếu vời Nguyễn Trãi ra làm quan. Trong biểu tạ ân, ông hả hê nói: “Cảm mà chảy nước mắt, mừng mà sợ trong lòng”; ông tự cho mình là con ngựa già “còn kham rong ruổi”. là cây thông qua năm rét mà “còn dạn tuyết sương”. Chẳng bao lâu sau đó, Nguyễn Trãi đã về hẳn Côn Sơn… Cuộc đời Nguyễn Trãi đã phản ánh tâm trạng đầy bi kịch giằng xé, đúng như ông đã viết trong “Côn Sơn ca”:

“Về đi sao chẳng sớm toan,
Nửa đời vướng bụi trần hoàn làm chi?”

Nguyễn Trãi nhân nghĩa quá, trung thực quá, thanh liêm quá…” (Phạm Văn Đồng), và đó là nguồn gốc sâu xa bi kịch vô cùng đau thương của người anh hùng thuở “bình Ngô”.

“Côn Sơn ca” còn hàm chứa triết lý về cuộc đời của Ức Trai. Trước hết ông nói về giàu sang phú quý, bần tiện, vinh và nhục ở đời. Đổng Trác đời Đông Hán, Nguyên Tải đời Đường chức trọng quyền cao, phú quý đến cực độ, cuối cùng chết trong ô nhục, để lại tiếng dơ muôn đời:

“Muôn chung chín vạc làm gì,
Cơm rau nước lã nên tùy phận thôi.
Đổng, Nguyên để tiếng trên đời,
Hồ tiêu ăm ắp, vàng mười chứa chan”.

Tác giả nhắc lại cách ứng xử và cái chết của Bá Di, Thúc Tề đời Ân, Chu, từ đó suy ngẫm về “hiền ngu” ở đời, chung quy chỉ là “đều làm cho thỏa được như ý mình”.

Kiếp người khác nào “cây cỏ”, đời người một trăm năm, mừng, buồn, lo, vui, cái nọ đi, cái kia đến, tốt tươi rồi khô héo, tuần hoàn nối tiếp nhau trong vòng một trăm năm hữu hạn. Sự chiêm nghiệm của nhà thơ thấm một nỗi buồn mênh mông, khi tóc đã bạc, chỉ còn biết làm bạn với mấy núi, trăng ngàn:

“Láng giềng một áng mây bạc,
Khách khứa hai ngàn núi xanh”.

Ý nghĩa cuộc đời là gì? Nguyễn Trãi mang màu sắc bi quan chưa hẳn đã sai? Đời người “Trăm năm còn có gì đâu? – Chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì” (“Cung oán ngâm khúc”). Với Nguyễn Trãi lúc này thì chết là hết. Sự phủ định đầy ngao ngán:

“Núi gò đài các đó đây
Chết rồi ai biết đâu ngày nhục vinh”.

Nguyễn Trãi viết Bài ca Côn Sơn trước bao lâu vụ án Lệ chi viên xảy ra? Tâm trạng thời thế, triết lý về cuộc đời mà Nguyễn Trãi nói đến trong phần hai bài ca là cả một nỗi buồn thấm sâu, toả rộng trong tâm hồn nhà thơ. Từ những chiêm nghiệm lịch sử phong kiến Việt Nam, nhất là ba triều đại Trần, Hồ, Lê, về cuộc đời ông ngoại (tướng công Trần Nguyên Đán), về cha mình (Nguyễn Phi Khanh), về những thăng trầm, vinh nhục, ngọt bùi cay đắng của đời mình, nên Ức Trai mới có suy ngẫm ấy. Về một phương diện khác, triết lý về cuộc đời của Nguyễn Trãi thể hiện sự cảm thông cho số kiếp của con người. Cái nhìn ấy, sự suy ngẫm ấy mang tính nhân bản sâu sắc. Bi kịch của Nguyễn Trãi là bi kịch của kẻ sĩ trong xã hội phong kiến, cũng là bi kịch lịch sử “Anh hùng di hận kỷ thiên niên”) (“Quan hải”).

Hai câu kết như một lời thiết tha nhắn gọi:

“Sao, Do bằng có tái sinh,
Hãy nghe khúc hát bên ghềnh Côn Sơn”.

Sao Phủ và Hứa Do hai cao sĩ đời vua Nghiêu trong lịch sử truyền kỳ Trung Quốc không màng công danh, chỉ thích sống cuộc đời ẩn sĩ, coi trọng thanh cao, chan hoà với núi cao rừng thẳm. Nguyễn Trãi một mặt cảm thông, kính trọng tấm gương sáng của hai Người Hiền xa xưa, mặt khác tự hào biểu lộ niềm tự hào về tâm thế của mình: Trở về Côn Sơn là để thoát vòng danh lợi, được chan hòa với suối rừng thiên nhiên, sống cuộc đời nhàn hạ, thanh cao. Đó là âm điệu trữ tình, là nội dung tư tưởng tình cảm của “Khúc hát bên ghềnh Côn Sơn” vậy.

  • Kết bài:

Nếu “Quân trung từ mệnh tập”, “Bình Ngô đại cáo”… là khúc ca thắng trận của người anh hùng thì thơ “Quốc âm thi tập”, “Ức Trai thi tập” là tấm lòng, là tâm thế của Ức Trai. “Bài ca Côn Sơn” là bài hát về suối, đá, thông, trúc, là tình yêu quê hương, là những suy ngẫm buồn lo về cuộc đời, về kiếp người hữu hạn trong dòng chảy vô hạn của thời gian. Cảnh sắc thiên nhiên Côn Sơn đã trở thành tâm hồn của Ức Trai. Triết lý về cuộc đời mà Nguyễn Trãi nói đến trong phần hai bài ca thật ra không có gì mới. “Thân cát bụi lại trở về cát bụi” (Kinh Thánh) “Sinh tồn hoa ốc xứ – Linh lạc qui sơn khưu” (Sống ở nhà lộng lẫy, chết lại về núi gò – Tào Thực, đời Hán). “Xử thế nhược đại mộng- Hồ vị lao kỳ sinh?” (Sống ở đời như giấc mộng lớn – Tội chi vất vả đời mình – Lý Bạch … có điều, qua Bài ca Côn Sơn, ta thấy hồn thơ của Ức Trai rất đẹp. Nguyễn Trãi tự hào cuộc đời mình thanh cao, thương cuộc đời mình đầy bi kịch thương đời người cát bụi. Chất triết lý Bài ca Côn Sơn giàu tính nhân văn để lại dấu ấn đậm đà trong lòng ta…

Xem thêm:

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.