thi-trung-huu-hoa-thi-trung-huu-nhac

Nghị luận: Cổ nhân từng nói “Thi trung hữu họa”, “Thi trung hữu nhạc”. Anh/chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Bằng sự hiểu biết của mình về bài thơ Tây Tiến (Quang Dũng) và Việt Bắc (Tố Hữu), hãy làm sáng tỏ

Cổ nhân từng nói “Thi trung hữu họa”, “Thi trung hữu nhạc”. Anh/chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Bằng sự hiểu biết của mình về bài thơ Tây Tiến (Quang Dũng) và Việt Bắc (Tố Hữu), hãy làm sáng tỏ.

1. Giải thích.

Thi: thơ. Thơ là một hình thức sáng tác văn học nghiêng về thể hiện cảm xúc thông qua tổ chức ngôn từ đặc biệt, giàu nhạc tính, giàu hình ảnh và gợi cảm.

Thi trung hữu họa: Trong thơ có họa (có tranh, có cảnh, có hình sắc,….).

Thi trung hữu nhạc: Trong thơ có nhạc (nhạc tính, nhạc điệu, âm hưởng…).

 Ý kiến trên của người xưa nói đến đặc trưng của thơ trữ tình là giàu hình ảnh và nhạc điệu. Ý kiến của cổ nhân hoàn toàn đúng đắn và xác đáng.

2. Lí giải ý kiến.

Thơ – nhạc – hoạ đều là các loại hình nghệ thuật, song có sự khác biệt, đặc biệt là về chất liệu xây dựng hình tượng nghệ thuật để phản ánh cuộc sống. Nếu hoạ dùng đường nét, màu sắc, nhạc dùng giai điệu, âm thanh thì thơ cũng như các tác phẩm văn chương lại sử dụng ngôn từ làm chất liệu. Ngôn từ có đặc điểm riêng: đó là chất liệu phi vật thể, vì vậy, tác động nhận thức không trực tiếp bằng các loại hình nghệ thuật khác song sức gợi mở của nó lại hết sức dồi dào, mạnh mẽ. Nó tác động vào liên tưởng của con người và khơi dậy những cảm nhận cụ thể về màu sắc, đường nét, hình khối, âm thanh, giai điệu.

– Nói “Thi trung hữu họa” bởi vì:

+ Văn học phản ánh hiện thực cuộc sống, thơ ca cũng không nằm ngoài quy luật đó. Thơ ca phản ánh cuộc sống qua hệ thống ngôn từ giàu hình ảnh. Không ở thể loại văn học nào ta bắt gặp nhiều hình ảnh, biểu tượng (hình ảnh có ngụ ý), hình tượng (hình ảnh có ngụ ý xuyên suốt tác phẩm) nổi bật như thơ ca.

+ Hình ảnh trong thơ là sự khách thể hóa những rung cảm nội tâm bởi thế giới tinh thần vốn vô hình nên nhất thiết phải dựa vào những điểm tựa tạo hình cụ thể để hữu hình hóa. Hình ảnh trong thơ nổi bật vì còn mang màu sắc của cảm xúc mãnh liệt và trí tưởng tượng phong phú.

– Nói “Thi trung hữu nhạc” bởi vì:

+ Thơ ca là sự biểu hiện trực tiếp cảm xúc, tình cảm của con người. Cảm xúc biểu lộ mạnh mẽ ở thanh điệu, nhịp điệu của lời nói (ngôn từ). Tính nhạc là đặc thù cơ bản của việc phô diễn tình cảm của thơ ca.

+ Âm thanh và nhịp điệu làm tăng hàm nghĩa cho từ ngữ, gợi ra những điều từ ngữ không thể nói hết. Nhạc điệu trong thơ thể hiện nhịp vận động của đời sống, của nhịp đập trái tim, bước đi của tình cảm con người.

3. Chứng minh qua hai bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng và Việt Bắc của Tó Hữu.

a. Hình sắc đậm chất hội họa trong hai bài thơ.

– Với trí tưởng tượng bay bổng, phong phú, kết hợp bút pháp miêu tả khái quát và cận cảnh, thủ pháp đối lập tương phản… Bài thơ Tây Tiến đã vẽ lên trước mắt người đọc:

+ Bức tranh chân thực về khung cảnh núi rừng miền Tây hiểm trở hùng vĩ nhưng vô cùng trữ tình thơ mộng.

+ Bức chân dung về người lính Tây Tiến hào hùng nhưng cũng rất đỗi hào hoa.

– Bằng lối nói giàu hình ảnh, các cách chuyển nghĩa truyền thống (so sánh, ẩn dụ, tượng trưng, ước lệ…) được sử dụng thích hợp… Bài thơ Việt Bắc đã tái hiện thành công:

+ Bức tranh thiên nhiên, núi rừng Việt Bắc.

+ Bức tranh về cuộc sống con người trong kháng chiến, bức tranh Việt Bắc ra quân hào hùng.

b. Nhạc tính trong hai bài thơ.

– Nhạc tính trong bài thơ Tây Tiến: Xuân Diệu nhận xét: Đọc bài thơ Tây Tiến như ngậm âm nhạc trong miệng. Tính nhạc trong Tây Tiến thể hiện ở:

+ Thể thơ thất ngôn mang âm hưởng trầm hùng phù hợp với việc biểu đạt nội dung.

+ Phối hợp nhịp nhàng giữa các thanh bằng trắc, sự hiệp vần: ơi, biện pháp điệp từ: nhớ, ngàn thước…

+ Sử dụng thành công hệ thống từ láy.

+ Nhạc điệu của bài thơ còn được tạo nên từ nỗi nhớ tha thiết, tình yêu sâu đậm của nhà thơ với mảnh đất Tây Bắc, với binh đoàn Tây Tiến, với quê hương, đất nước.

→  Đó là nhạc điệu tâm hồn của thi nhân.

– Tính nhạc trong Việt Bắc thể hiện ở:

+ Thể thơ lục bát: Nhịp nhàng, tha thiết, ngọt ngào, sâu lắng nhưng biến hóa sáng tạo không đơn điệu.

+ Sử dụng cặp đại từ: mình – ta.

+ Nghệ thuật đối: Được sử dụng với tần số cao, biểu đạt xúc động nỗi lòng sâu kín của kẻ đi – người ở đồng thời tạo ra sự cân xứng về cấu trúc vẻ đẹp nhịp nhàng của ngôn từ. Tất cả tạo nên nhạc điệu đầy quyến luyến, trầm bổng, ngân nga. Việt Bắc ru người trong nhạc.

+ Biện pháp điệp: điệp từ: nhớ, có nhớ; điệp cấu trúc: mình đi – mình về; câu hỏi tu từ… tạo nên nhịp ru cho bài thơ, diễn tả thành công nỗi lòng kẻ đi – người ở.

+ Cách gieo vần và sử dụng từ láy cũng góp phần tạo nên nhạc điệu cho bài thơ.

+ Việt Bắc có giọng điệu tâm tình, tự nhiên, đằm thắm, là tiếng nói của tình thương mến ngọt ngào, là khúc tình ca và bản hùng ca về kháng chiến và con người kháng chiến…

Thơ Tố Hữu phong phú nhạc điệu, một thứ nhạc giàu có tự bên trong của tâm hồn hoà với nhạc điệu lôi cuốn của đời sống.

4. Bình luận:

– Khẳng định câu nói của cổ nhân là hoàn toàn đúng với thơ ca và được minh chứng rõ qua hai bài thơ Tây Tiến và Việt Bắc.

– Hai bài thơ giàu chất nhạc, chất họa, thể hiện tài năng của hai nhà thơ trong việc sử dụng ngôn từ nghệ thuật.

– Bài học cho người nghệ sĩ và người tiếp nhận.

Bài văn tham khảo:

Vonte từng nói: “Thơ ca là nhạc của tâm hồn”.  Còn Valery “Thơ là sự giao động giữa âm thanh và ý nghĩa”, mỗi từ ngữ trong bài thơ chính là một nốt nhạc âm vang tạo nên bản giao hưởng của tâm hồn. Văn học, hội họa, âm nhạc, nhiếp ảnh là những bộ môn nghệ thuật có sự gắn bó chặt chẽ. Qua mỗi tác phẩm, chúng ta có thể tìm thấy được những cảm xúc tạo nên giá trị thẩm mỹ tích cực. Nhiều văn nghệ sỹ quen thuộc với nhận xét: Trong thơ có họa, trong họa có thơ, thơ là nhạc của tâm hồn… Đọc Tây Tiến của Quang Dũng và Việt Bắc của Tố Hữu, độc giả dễ dàng tìm thấy được mối giao cảm nghệ thuật đó. Điểm chung lớn nhất của hai thi phẩm là giàu hình ảnh và nhạc tính, hướng đến vẻ đẹp chân – thiện – mỹ, hướng con người đến những điều ý nghĩa, tốt đẹp trong cuộc sống. Đúng như cổ nhân từng nói: “Thi trung hữu họa”, “Thi trung hữu nhạc”.

“Thi” có nghĩa là thơ. Thơ là một hình thức sáng tác văn học nghiêng về thể hiện cảm xúc thông qua tổ chức ngôn từ đặc biệt, giàu nhạc tính, giàu hình ảnh và gợi cảm.

Nói “Thi trung hữu họa” có nghĩa là trong thơ có hoạ (có tranh, có cảnh). Leonardo De Vinci từng nói: “Thơ là một bức họa để cảm nhận thay vì để ngắm”.  Thơ rất coi trọng vai trò của hình sắc trong quá trình biểu đạt ý niệm.

Nói “Thi trung hữu nhạc” có nghĩa là trong thơ có nhạc tính, nhịp điệu, âm hưởng. Thơ xưa cũng rất xem trọng sức mạnh của nhạc tính trong quá trình tác động đến tâm hồn người đọc. Vonte từng nói: “Thơ ca là nhạc của tâm hồn”. Còn Valery “Thơ là sự giao động giữa âm thanh và ý nghĩa”, mỗi từ ngữ trong bài thơ chính là một nốt nhạc âm vang tạo nên bản giao hưởng của tâm hồn.

Như vậy, có thể thấy người xưa bàn đến đặc trưng của thơ trữ tình là giàu hình ảnh và nhạc điệu. Đây là một ý kiến hoàn toàn đúng đắn và xác đáng.

Từ xưa, thơ ca, âm nhạc và hội hoạ đều là các loại hình nghệ thuật, song có sự khác biệt, đặc biệt là về chất liệu xây dựng hình tượng nghệ thuật để phản ánh cuộc sống. Nếu hội hoạ dùng đường nét, màu sắc, âm nhạc dùng giai điệu, âm thanh thì thơ cũng như các tác phẩm văn chương lại sử dụng ngôn từ làm chất liệu. Ngôn từ có đặc điểm riêng: đó là chất liệu phi vật thể, vì vậy, tác động nhận thức không trực tiếp bằng các loại hình nghệ thuật khác song sức gợi mở của nó lại hết sức dồi dào, mạnh mẽ. Nó tác động vào liên tưởng của con người và khơi dậy những cảm nhận cụ thể về màu sắc, đường nét, hình khối, âm thanh, giai điệu.

Nói “Thi trung hữu họa” bởi vì vănhọc phản ánh hiện thực cuộc sống, thơ ca cũng không nằm ngoài quy luật đó. Thơ ca phản ánh cuộc sống qua hệ thống ngôn từ giàu hình ảnh. Không ở thể loại văn học nào ta bắt gặp nhiều hình ảnh, biểu tượng (hình ảnh có ngụ ý), hình tượng (hình ảnh có ngụ ý xuyên suốt tác phẩm) nổi bật như thơ ca. Hình ảnh trong thơ là sự khách thể hóa những rung cảm nội tâm bởi thế giới tinh thần vốn vô hình nên nhất thiết phải dựa vào những điểm tựa tạo hình cụ thể để hữu hình hóa. Hình ảnh trong thơ nổi bật vì còn mang màu sắc của cảm xúc mãnh liệt và trí tưởng tượng phong phú.

Nói “Thi trung hữu nhạc” bởi vì thơ ca là sự biểu hiện trực tiếp cảm xúc, tình cảm của con người. Cảm xúc biểu lộ mạnh mẽ ở thanh điệu, nhịp điệu của lời nói (ngôn từ). Tính nhạc là đặc thù cơ bản của việc phô diễn tình cảm của thơ ca. Âm thanh và nhịp điệu làm tăng hàm nghĩa cho từ ngữ, gợi ra những điều từ ngữ không thể nói hết. Nhạc điệu trong thơ thể hiện nhịp vận động của đời sống, của nhịp đập trái tim, bước đi của tình cảm con người.

Thơ là họa, là vẽ, là khắc chạm, bởi vậy đi vào thế giới thơ ca cũng là đặt chân vào thế giới tràn đầy đường nét, rực rỡ sắc màu, đẹp và sinh động như chính cuộc đời thực tại. Nhưng làm nên thơ văn không chỉ có họa mà còn là nhạc. Âm nhạc với những thanh âm, giai điệu, tiết tấu… luôn có khả năng cuốn hút, gợi dậy những cảm xúc trong lòng người. Đọc thơ ta luôn cảm nhận được sự réo rắt gợi lên từ câu chữ, âm vần. Thế giới âm thanh cũng là sự biểu đạt rõ nét thế giới tâm hồn và nhịp cảm xúc của chính người nghệ sĩ, Thơ ca là nhạc của tâm hồn. Hội họa và âm nhạc đã góp phần tạo nên linh hồn của tác phẩm thơ ca làm thỏa mãn con mắt và tâm hồn của người thưởng thức.

Tây Tiến của Quang Dũng và Việt Bắc của Tố Hữu là những minh chứng tiêu biểu cho sức mạnh của hội họa và âm nhạc trong thi ca.

Trong bài thơ Tây Tiến, với trí tưởng tượng bay bổng, phong phú, kết hợp bút pháp miêu tả khái quát và cận cảnh, thủ pháp đối lập tương phản…, bài thơ đã vẽ lên trước mắt người đọc bức tranh chân thực về khung cảnh núi rừng miền Tây hiểm trở, hùng vĩ trữ tình thơ mộng. Bức tranh thiên nhiên miền Tây được gợi lên từ ba nét vẽ: một nét tả thung sâu, một nét tả núi cao, một nét tả thác chiều. Ba nét vẽ tạo thành ba mảng, mảng nào cũng dữ dằn, gân guốc, vừa hùng vĩ, hiểm trở, vừa duyên dáng thơ mộng, trữ tình. Ở đây có cái nhìn lên cao vời vợi, cái nhìn xuống sâu thăm thẳm, cái nhìn ngang rộng đến mênh mang, có cái bảng lảng của chiều sương Châu Mộc, cái dữ dội của nước lũ cuộn trôi, cái duyên dáng của dáng thuyền độc mộc, cái mộng mơ của những sắc hoa rừng…

Dưới ngòi bút của Quang Dũng, bức chân dung về người lính Tây Tiến hào hùng nhưng cũng rất đỗi hào hoa. Về ngoại hình, người lính mang dấu ấn của hiện thực khốc liệt, gian khổ của chiến tranh dữ dằn và cân quắc, họ ốm mà không yếu, tiều tụy trong hình hài. Thế nhưng, ẩn sau bên trong là sức mạnh lí tưởng, sức mạnh của ý chí và một tâm hồn mơ mộng đắm say, khát vọng sống cao đẹp, sự hi sinh cao cả, bi tráng… Nhà thơ đặc tả ngoại hình người lính nhằm làm nổi bậc những phẩm chất bên trong khiến cho hình tượng người lính trong bài thơ vừa giản dị, gần gũi, vừa lẫm liệt, lớn lao.

Ở bài thơ Việt Bắc, bằng lối nói giàu hình ảnh, các cách chuyển nghĩa truyền thống (so sánh, ẩn dụ, tượng trưng, ước lệ…) được sử dụng thích hợp…, bài thơ Việt Bắc đã tái hiện thành công bức tranh thiên nhiên, núi rừng Việt Bắc: thiên nhiên Việt Bắc hiện lên với vẻ đẹp vừa hiện thực, vừa thơ mộng, thi vị, gợi rõ những nét riêng biệt, độc đáo. Đó là vẻ đẹp của ánh nắng ban chiều, ánh trăng buổi tối, những bản làng mờ trong sương sớm, những bếp lửa hồng trong đêm khuya, những núi rừng sông suối mang những cái tên thân thuộc. Vẻ đẹp của thiên nhiên Việt Bắc được thể hiện tập trung trong đoạn bức tranh tứ bình – nỗi nhớ Việt Bắc gắn liền với bốn mùa xuân, hạ, thu, đông. Mỗi bức tranh có vẻ đẹp riêng hòa kết bên nhau tạo ra vẻ đẹp chung. Đó là sự hài hòa giữa âm thanh và màu sắc: tiếng ve của mùa hè, tiếng hát của đêm thu, màu xanh của rừng già, sắc đỏ của hoa chuối rừng, sắc trắng tinh khôi của rừng mơ, sắc vàng lộng lẫy của rừng phách…

Bức tranh về cuộc sống con người trong kháng chiến và bức tranh Việt Bắc ra quân hào hùng đã được khắc họa hết sức chân thực vàchi tiết. Con người Việt Bắc bình dị, khéo léo, cần mẫn luôn gắn bó với lao động, giàu tình nặng nghĩa, chia ngọt sẻ bùi, thủy chung với cách mạng và kháng chiến. Đồng thời bài thơ cũng dẫn người đọc vào khung cảnh Việt Bắc chiến đấu với những hoạt động tấp nập, những hình ảnh hào hùng, những âm thanh sổi nổi, dồn dập, náo nức. Bức tranh Việt Bắc ra trận là bức tranh về cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện gợi tả khí thế vô cùng mạnh mẽ của cả một dân tộc đứng lên chiến đấu vì tổ quốc độc lập tự do. Đó là hình ảnh đoàn quân ra trận trong khí thế hào hùng làm rung chuyển cả đất trời – những cuộc hành quân long trời chuyển đất (rầm rập đất rung), là vẻ đẹp của người chiến sĩ với ánh sao lấp lánh giữa trời đêm vừa hiện thực vừa lãng mạn, nâng tầm vóc của người chiến sĩ lên ngang tầm vũ trụ, là hình ảnh từng đoàn dân công với bước chân nát đá vừa làm sống dậy sức mạnh to lớn của dân tộc vừa thần thoại hóa sức mạnh của con người…

Bên cạnh sức mạnh biểu đạt bằng hình ảnh, màu sắc, hai bài thơ còn rất giàu tính nhạc, tạo nên ẩm hưởng trầm hùng.

Nhận xét về bài thơ Tây Tiến, Xuân Diệu nói: Đọc bài thơ Tây Tiến như ngậm âm nhạc trong miệng. Tính nhạc trong Tây Tiến thể hiện ở thể thơ thất ngôn mang âm hưởng trầm hùng phù hợp với việc biểu đạt nội dung. Cách phối hợp nhịp nhàng giữa các thanh bằng trắc, sự hiệp vần: “ơi”, biện pháp điệp từ: “nhớ”, “ngàn thước”… Nhà thơ đã sử dụng thành công hệ thống từ láy.

Nhạc điệu của bài thơ còn được tạo nên từ nỗi nhớ tha thiết, tình yêu sâu đậm của nhà thơ với mảnh đất Tây Bắc, với binh đoàn Tây Tiến, với quê hương, đất nước. Đó là nhạc điệu tâm hồn của thi nhân.

Tính nhạc trong Việt Bắc thể hiện ở thể thơ lục bát nhịp nhàng, tha thiết, ngọt ngào, sâu lắng như ru vỗ con người vào nhịp nhớ đều đặn của những kỉ niệm. Đặc biệt, nhà thơ đã sử dụng thành công cặp đại từ: “mình- ta” mang đậm màu sắc ca dao, kết hợp với nghệ thuật đối tạo ra sự cân xứng về cấu trúc vẻ đẹp nhịp nhàng của ngôn từ. Tất cả tạo nên nhạc điệu đầy quyến luyến, trầm bổng, ngân nga. Việt Bắc ru người trong nhạc.

Biện pháp điệp: điệp từ: “nhớ”, “có nhớ”; điệp cấu trúc: “mình đi-mình về”; câu hỏi tu từ… tạo nên nhịp ru cho bài thơ, diễn tả thành công nỗi lòng kẻ đi – người ở. Cách gieo vần và sử dụng từ láy cũng góp phần tạo nên nhạc điệu cho bài thơ.

Việt Bắc có giọng điệu tâm tình, tự nhiên, đằm thắm, là tiếng nói của tình thương mến ngọt ngào, là khúc tình ca và bản hùng ca về kháng chiến và con người kháng chiến… Thơ Tố Hữu phong phú nhạc điệu, một thứ nhạc giàu có tự bên trong của tâm hồn hoà với nhạc điệu lôi cuốn của đời sống.

Như vậy, có thể nói câu nói của cổ nhân là hoàn toàn đúng với thơ ca và được minh chứng rõ qua hai bài thơ Tây Tiến và đoạn trích Việt Bắc. Câu nói trên khẳng định và làm nổi bật đặc trưng của thơ ca và mối quan hệ giữa thơ ca, hội họa và âm nhạc. Thơ là nhạc, là họa chạm khắc theo một cách riêng, thơ còn là thơ nữa. Việc tiếp cận thế giới tràn đầy âm thanh, khuông nhạc trong mỗi tác phẩm văn chương cũng là một cách tiếp cận, nắm bắt những cảm xúc mà nhà thơ, nhà văn mang lại. Mặt khác muốn tác động trực quan đến người đọc, nhà thơ giống như người nghệ sĩ tài ba phải đem những đường nét và gam màu tinh tế vẽ nên những tuyệt tác bằng ngôn từ. Hai bài thơ giàu chất nhạc, chất họa, thể hiện tài năng, sự độc đáo trong phong cách của hai nhà thơ trong việc sử dụng ngôn từ nghệ thuật.

Tài liệu đọc thêm:

Trong “Tây Tiến”, nhà thơ Quang Dũng viết:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi !
[…]
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”.
(Trích Tây Tiến – Quang Dũng, Ngữ văn 12, tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2019, Tr. 88)
Anh/ chị hãy phân tích đoạn trích trên; từ đó nhận xét về chất nhạc, chất họa được thể hiện
trong đoạn trích.

BÀI LÀM

  • Mở bài:

Nỗi nhớ có lẽ là một trạng thái cảm xúc kì lạ mà chỉ con người mới có. Bởi chỉ con người mới lưu giữ được kí ức về những gì mình đã trải qua. Những miền đất ta từng sống, những con người ta từng gặp, những biến cố mà ta từng chứng kiến sẽ mãi mãi còn lại trong sâu thẳm tâm hồn. Để rồi một lúc nào đó, giữa phút lắng lòng, kỉ niệm bỗng nhiên ùa về như thác đổ, khiến ta thổn thức, khiến ta bồi hồi xao xuyến. Một buổi chiều mưa ở Phù Lưu Chanh, có một con người cũng rơi vào nỗi hoài niệm thiết tha như thế. Và trong một khoảnh khắc, sự gặp gỡ giữa kí ức, sự rung cảm tâm hồn cùng với tài năng bừng sáng đã giúp “sinh hạ” cho nền thơ ca Việt Nam một tác phẩm tuyệt mĩ. Tác phẩm ấy chính là “Tây Tiến”, và con người hoài niệm ấy chính là nhà thơ Quang Dũng. Dòng thác kí ức đã cuốn nhà thơ trở về với “cái thuở ban đầu lưu luyến”, để rồi hình ảnh về thiên nhiên của một miền Tây Bắc rộng lớn cùng với những người lính Tây Tiến trên những chặng hành quân đã được hữu hình hóa thành một bức tranh bi tráng, mang đậm chất nhạc, chất họa, mà tiêu biểu nhất là ở mười bốn câu thơ đầu của bài thơ:

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi !
(…)
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”

  • Thân bài:

Quang Dũng là một người nghệ sĩ đa tài: viết văn, làm thơ, vẽ tranh, soạn nhạc; nhưng ông trước hết là một nhà thơ mang hồn thơ lãng mạn, hào hoa. Là nhà thơ của “xứ Đoài mây trắng”, thơ Quang Dũng giàu chất nhạc, chất họa. Tây Tiến có thể được xem là thi phẩm đặc sắc nhất trong sự nghiệp sáng tác của Quang Dũng. Quang Dũng là chiến sĩ trong đơn vị Tây Tiến từ ngày đầu thành lập. Cuối năm 1948, chuyển sang đơn vị khác, nhớ đơn vị cũ, ông đã viết bài thơ này. Bài thơ được viết tại làng Phù Lưu Chanh, lúc đầu có tên là “Nhớ Tây Tiến”, sau đổi thành “Tây Tiến”, in trong tập “Mây đầu ô”. Bao trùm bài thơ “Tây Tiến” là nỗi nhớ của tác giả về thiên nhiên, con người miền Tây, về những người lính Tây Tiến anh hùng.

Hai câu thơ đầu là tiếng gọi của nỗi nhớ:

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”

Ở đây, Tây Tiến đã trở thành đối tượng để nhà thơ gửi gắm nỗi niềm tâm sự. Bằng cách gọi “Tây Tiến ơi” đầy thiết tha, trìu mến, Quang Dũng đã cho thấy, “Tây Tiến” đối với ông không còn đơn thuần là một đơn vị, mà đã trở thành một người bạn tâm giao. Đồng thời, gọi “Tây Tiến ơi” cũng là gọi tên, điểm mặt từng con người thân thiết đã từng chiến đấu trong cái binh đoàn đặc biệt và đáng nhớ ấy.

Trong nỗi nhớ của nhà thơ xuất hiện hai hình ảnh: “Sông Mã” và “rừng núi”. Không phải ngẫu nhiên mà hình tượng con Sông Mã lại xuất hiện ngay ở đầu bài thơ. Con Sông Mã trải dài theo địa bàn hoạt động, là chứng nhân cho những thăng trầm của binh đoàn Tây Tiến. Cũng bởi vì con Sông Mã cũng có một tính cách đặc biệt: Nó như một con ngựa chiến dũng mãnh cứ băng băng qua những vùng núi non cheo leo hiểm trở, phi nước đại để về với biển khơi. Tính cách ấy thật giống với cái chí lớn, cái mộng anh hùng sôi sục muốn “giết giặc lập công”của người lính Tây Tiến, muốn đạp bằng mọi gian khổ, để quét sạch quân thù ra khỏi bờ cõi nước nhà. Cho nên, nhớ về Tây Tiến, như một lẽ tự nhiên, hình tượng con sông Mã đã ngay lập tức án ngữ cái nhìn về quá khứ của tác giả.

Địa bàn hoạt động của binh đoàn Tây Tiến, như tên gọi của nó, là tiến về phía Tây, một vùng Tây Bắc rộng lớn, hoang vu, hiểm trở với địa hình toàn là rừng núi. Cho nên, bên cạnh con sông Mã in dấu ấn sâu đậm trong ký ức, Quang Dũng hẳn không thể không nhớ đến cái đặc trưng địa hình khó quên ấy: “Nhớ về rừng núi”. Địa hình ấy, khi hành quân, đã khiến người lính Tây Tiến phải hứng chịu bao nhiêu là khó khăn, nguy hiểm. Tuy vậy, giờ đây, khi đã xa rồi, nó lại khiến thi nhân thương nhớ khôn nguôi. Quả đúng như Chế Lan Viên từng viết:

“Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nao qua lòng lại chẳng yêu thương
Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất bỗng hóa tâm hồn”

Tất cả những đối tượng ấy, từ binh đoàn Tây Tiến, con sông Mã cho đến núi rừng Tây Bắc, đã được tái hiện qua một dòng chảy cảm xúc mãnh liệt. Ấy là sự thảng thốt của lòng hoài niệm qua cụm tình thái từ “Sông Mã xa rồi”. Ấy là tiếng gọi đột ngột bật lên với hô ngữ “Tây Tiến ơi”, một tiếng gọi như thầm thì nhưng lại có sức vang vọng mãnh liệt, như dội vào vách đá, nhân lên thành trăm ngàn lần khiến cho cả núi rừng xao xuyến và cõi tâm hồn cũng rưng rưng. Ấy là cách lặp lại hai lần chữ “nhớ” cộng với cụm động từ giàu sức gợi: “Nhớ chơi vơi”. Nhớ chơi vơi, một trạng thái nhớ thật kì lạ. Phải chăng khi rời xa binh đoàn Tây Tiến, tâm trạng nhà thơ trở nên hụt hẫng, mất điểm tựa, không biết bám víu vào đâu, nên mới trở thành chơi vơi. Hay nỗi nhớ chơi vơi là một nỗi nhớ mênh mông, cứ bay lượn trên khắp núi rừng Tây Bắc, không biết cụ thể là nhớ cái gì, mà ngẫm ra cái gì cũng thương cũng nhớ. Nó làm ta liên tưởng đến câu ca dao:

“Ra về nhớ bạn chơi vơi
Nhớ chiếu bạn trải, nhớ nơi bạn nằm”

Dù hiểu theo cách nào, thì nỗi nhớ ấy cũng cho thấy, kỉ niệm về một thời Tây Tiến đã trở thành một phần máu thịt của nhà thơ, mãi mãi không thể xóa nhòa.

Sau hai dòng thơ đầu tiên khơi nguồn cho nỗi nhớ ùa về, ở những câu thơ tiếp theo, Quang Dũng đã đi vào tái hiện cụ thể từng đối tượng lần lượt xuất hiện trong kí ức của mình. Đối tượng đầu tiên chính là bức tranh thiên nhiên miền Tây Bắc.
Hình ảnh đầu tiên xuất hiện trong dòng hoài niệm của nhà thơ chính là “sương”:

“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”

Hình ảnh “sương lấp” gợi tả những màn sương rừng dày đặc, bao trùm cảnh vật, che khuất tầm nhìn. Động từ “lấp” lại khiến ta hình dung về những khối sương nặng nề từ trên cao sà xuống như vùi lấp cả đoàn quân mỏi mệt. Cùng với thứ “sương muối” ấy là cái lạnh cắt da cắt thịt, cái lạnh như ngàn mũi kim xuyên thấu tâm can.

Nếu hình ảnh “sương lấp” nói về sự khắc nghiệt, thì hình ảnh “đêm hơi” cùng với sáu thanh bằng trong câu thơ “Mường Lát hoa về trong đêm hơi” lại gợi tả cái thi vị bồng bềnh của sương. Sương của núi rừng, sương phả ra từ hơi thở của người chiến sĩ, đi trong đêm sương ấy, người lính như bước đi trong chốn mơ hồ huyền hoặc. Và như vậy, hình ảnh hoa về ở đây, phải hiểu là những ngọn đuốc soi đường cho người lính, nhìn từ xa, trong đêm sương, những đốm lửa ấy trở thành một dòng sông hoa đăng đang bồng bềnh chầm chậm trôi đi. Đây quả là một câu thơ thể hiện cái nhìn đầy chất lãng mạn của Quang Dũng.

Sương mù dày đặc bởi địa hình cao. Quả vậy, địa hình Tây Bắc trập trùng đèo núi. Đèo núi hùng vĩ và hiểm trở ấy được kí ức của Quang Dũng khắc họa thật đặc sắc qua bốn câu thơ:

“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”.

Mạch thơ cứ vút lên, đứt gãy, đổ xuống (câu 1) rồi đột ngột dừng lại (câu 2), rồi lại vút lên, đứt gãy, đổ xuống (câu 3), rồi lại trải ra (ở câu 4) quả thật đem đến cho người đọc cái ấn tượng mạnh mẽ về sự trùng trùng điệp điệp, uốn lượn không ngừng của những dãy núi Tây Bắc, nó gợi ta nhớ đến những câu thơ trong “Chinh Phụ Ngâm”:

“Hình khe thế núi gần xa
Đứt thôi lại nối, thấp đà lại cao”

Dốc lên thì không những quanh co, “khúc khuỷu” mà còn dựng đứng, cheo leo, hun hút (“ngàn thước lên cao”). Dốc cao đến nỗi mà có những đỉnh núi như vượt lên trên tất cả, như xuyên thủng cả màn mây, hiện ra “heo hút”, sừng sững cô độc. Cụm từ “cồn mây” vừa tả thực những đỉnh núi cao quanh năm mây phủ, “núi ấp ôm mây mây ấp núi” (Hồ Chí Minh); lại vừa gợi lên được cái thơ mộng, mờ ảo liêu trai của cảnh trí, làm mềm hóa những nét gân guốc, đứt gãy của địa hình. Đứng trên những “cồn mây” ấy, hẳn người lính cảm thấy mình đang từ chốn bồng lai mà nhìn xuống cõi dương gian, thấy mình gần trời hơn bao giờ hết. Cụm từ “súng ngửi trời” cũng là một hình ảnh vừa hiện thực lại vừa đậm chất lãng mạn: hiện thực bởi vì, khi đứng trên đỉnh núi chót vót ấy, mũi súng quả thật dường như chạm đến trời. Lãng mạn bởi vì nó thể hiện nét vui đùa tếu táo của người lính ngay trong chặng hành trình gian khổ. Nó gợi ta nhớ đến một hình ảnh cũng lãng mạn không kém trong bài thơ “Đồng Chí”:

“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo”

Người lính trong “Tây Tiến” cũng như người lính trong “Đồng chí”, luôn biết vượt lên hoàn cảnh để nhìn ra chất thơ của cuộc đời. Đó cũng chính là tinh thần lãng mạn, lạc quan cách mạng.

Có dốc lên thì có dốc xuống, có núi cao thì có vực sâu. “Dốc lên khúc khuỷu” nên dốc xuống mới “thăm thẳm”, “ngàn thước vút lên” thì cũng ngàn thước đổ xuống. Từ láy “thăm thẳm” vừa gợi tả độ dựng đứng của dốc núi, vừa gợi tả độ sâu thăm thẳm của vực núi. Quản thật, sự đứt gãy đột ngột của địa hình Tây Bắc không ngừng thử thách bước chân người lính. Nó làm ta nhớ đến mấy câu thơ của Khương Hữu Dụng:

“Rồi dốc, rồi truông, leo rồi leo
Rồi khe, rồi lạch, vòng cong queo
Lên, bám vào mây, xuống, bíu gió
Trượt chân, suối cuốn một làn rêu!”

Thế nhưng bên cạnh cái hiểm trở đến rợn người ấy, thiên nhiên Tây Bắc đôi khi cũng đem đến cho ta một góc nhìn thật nên thơ. Vì cao nên có thể nhìn xa. Vì đứng trên đỉnh núi nên mới có thể thấy được cả một vùng mưa rừng trắng xóa, với những mái nhà ẩn hiện:

“Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”

Nếu ba câu thơ trên có nhịp ngắt 4/3, điệu thơ gấp gáp, thì câu thơ thứ tư lại có nhịp ngắt dàn trải 2/2/1/1/1. Nhịp ngắt dàn trải này làm cho điệu thơ chậm hẳn đi, cùng với âm hưởng của bảy thanh bằng, làm cho câu thơ giống như một tiếng thở dài nhẹ nhõm sau hành trình vất vả. Người lính dừng chân, đưa ánh mắt của mình mà quét ra một vùng rộng lớn, thấy tâm hồn mình cũng như rộng mở, cất cánh bay lượn mênh mang. Hình ảnh những mái nhà ẩn hiện báo hiệu sự xuất hiện của một bản làng, nó hẳn cũng làm cho người chiến sĩ, sau bao ngày như lạc giữa thiên nhiên hoang vắng, cảm thấy ấm lòng.

Tuy vậy, thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ chưa dừng lại ở đó. Hết sương buốt giá, dốc cheo leo, thì lại đến rừng âm u:

“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”

“Thác gầm thét” và “cọp trêu người” là hai hình ảnh nhân hóa làm tăng thêm sự dữ dội, hoang sơ đầy bí hiểm của đường rừng Tây Bắc. Những con thác lớn ở địa hình có độ dốc cao, vào mùa lũ, nước chảy mạnh tạo nên những âm thanh ghê rợn. Thác nước ấy, trong hình dung của Quang Dũng, như một vị hung thần nổi giận, “oai linh” của nó khiến ai ai cũng khiếp đảm. Thêm vào đó còn là bóng dáng thoắt ẩn thoắt hiện của loài cọp dữ: “cọp trêu người”. Hữu Loan trong “Đèo cả” cũng viết:

“ngày thâu
vượn hú
đêm canh gặp hùm lang thang”.

Sự nguy hiểm ấy thường xuyên rình rập, ám ảnh đoàn quân Tây Tiến. Điều đó được thể hiện qua các trạng từ chỉ thời gian: “chiều chiều”, “đêm đêm”, ấy là sự lặp đi lặp lại, giờ này qua giờ khác, ngày này qua ngày khác. Nó càng làm tăng thêm sự gian khổ, hiểm nguy trong mỗi bước quân hành.

Trên bối cảnh thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ và mĩ lệ ấy là cuộc hành quân của binh đoàn Tây Tiến. Đối với những chàng trai trẻ Hà thành, vừa rời ghế nhà trường, rời xa những con đường bình yên của chốn phồn hoa đô hội để dấn thân vào nơi “rừng thiêng nước độc”, thì cuộc trường chinh Tây Tiến này quả là một hành trình vô cùng gian khổ. Những “sương lấp”, những dốc cao, vực sâu, những thác réo, cọp rình đã dường như vắt kiệt sức của những người lính trẻ. Đã thế, họ lại bị sốt rét, cơn bệnh quái ác mà số lượng người lính chết vì nó còn nhiều hơn là chết vì bom đạn, thường xuyên dày vò. Cho nên thật dễ hiểu khi ta bắt gặp hình ảnh:

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời”.

Từ láy “dãi dầu” là gợi ta nhớ đến các thành ngữ “dãi nắng dầm mưa”, dãi dầu sương gió, mà mưa ở đây là mưa rừng xối xả, nắng ở đây là nắng lửa đốt thiêu, sương ở đây là sương muối, sương lấp, và gió ở đây là gió núi ào ạt. Thêm nữa, sự dãi dầu này đâu chỉ một ngày, mà triền miên hết ngày này sang tháng nọ. Cho nên có những người lính đã gục ngã. Họ “không bước nữa”, họ “gục lên súng mũ”, họ “bỏ quên đời”. Đấy có thể là cái chết. Nhưng cũng có thể hiểu đó là sự quỵ ngã vì mệt mỏi. Họ nằm xuống và dường như ngay lập tức chìm vào giấc ngủ say, quên hết trời đất. Dù hiểu cách nào đi chăng nữa, thì ta cũng cảm nhận được nỗi vất vả gian lao mà người lính Tây Tiến đã phải trải qua.

Tuy nhiên, trên những chặng đường hành quân ấy, người lính vẫn có những phút giây thật ấm áp, yên bình:

“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”

Đó là những lúc dừng chân sau một chặng đường dài mệt mỏi, người lính lại quây quần bên nhau, cùng nhóm lên bếp lửa để nấu bữa cơm chung. Hình ảnh “cơm lên khói” vừa gợi tả hình ảnh nồi cơm bốc khói, vừa gợi tả hình ảnh khói bếp bay lên giữa một vùng thiên nhiên vắng lặng hoang vu. Cụm thán từ “Nhớ ôi” bộc lộ nỗi nhớ nhung da diết, bật lên thành tiếng gọi. Làm sao quên được những khoảnh khắc nghỉ ngơi vui vẻ mà ấm áp ấy, khi mà cả binh đoàn quây quần sum tụ bên nhau như một gia đình. Những bữa cơm ấy, hẳn sẽ làm cho người lính vơi bớt nỗi nhớ quê hương, có thêm sức mạnh tinh thần để tiếp tục chiến đấu. Sau này, Phạm Tiến Duật cũng có những câu thơ thật giản dị mà cũng thật cảm động về những bữa cơm gia đình đồng đội ấy:

“Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh trên đường xe chạy
Lại đi lại đi trời xanh thêm”.

Lính Tây Tiến, đa phần là những chàng trai Hà Nội, lại đa phần là học sinh sinh viên, nên dù khoác áo lính, họ vẫn giữ được cho mình nét hào hoa lãng mạn của dân xứ Tràng An, như ca dao xưa đã nói:

“Chẳng thơm cũng thể hoa nhài
Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An”

Trong cuộc hành quân này, ta đã thấy không ít lần cái chất lãng mạn ấy được bộc lộ qua cách nhìn thiên nhiên. Giờ đây, cái nhìn lãng mạn ấy càng được thăng hoa hơn khi bắt gặp đối tượng là những cô gái miền sơn cước:

“Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”

Một câu thơ thật nhẹ nhàng và thật độc đáo. Nhẹ nhàng vì cả câu thơ toàn thanh bằng, như một lời thì thầm, như một lời âu yếm. Độc đáo bởi sự kết hợp của ngôn từ. Chữ “mùa” vốn thường gắn liền với thời gian, nay lại đi kèm với đối tượng là con người, là “em”. “Mùa em” là mùa gì? Một cách kết hợp kì lạ làm cho ý thơ trở nên đa nghĩa. Đó có thể là mùa lúa chín, những người dân bản làng Mai Châu dâng tặng người chiến sĩ những nắm xôi nếp đầu mùa. Nhưng đó cũng có thể là mùa của tình yêu, khi mà tâm hồn đa cảm hào hoa của những chàng lính trẻ bắt gặp ánh mắt trong trẻo, nụ cười xinh xắn, vẻ đẹp hoang sơ thuần khiết của những cô gái bản làng. Khoảnh khắc ấy làm trái tim họ rung động. Và thế rồi, hương thơm của những nắm xôi nếp kia, không biết tự bao giờ, đã hòa quyện cùng hương vị của tình yêu, làm nên cái ấn tượng mãi mãi không thể phai mờ. Hiểu theo cách thứ hai này, ta mới thấy hết sự lãng mạn, đa cảm, hào hoa của người lính Tây Tiến. Chẳng phải Chế Lan Viên cũng đã từng đồng hóa mùi hương của nắm xôi với hương vị của mối tình đầu đó sao, khi ông viết:

“Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch
Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng
Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch
Bữa xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương”.

Thành công về mặt nghệ thuật là ở việc kết hợp nhuần nhuyễn giữa bút pháp hiện thực và cảm hứng lãng mạn; ở việc sáng tạo và sử dụng những hình ảnh thơ độc đáo, giàu sức gợi; sử dụng nhuần nhuyễn các biện pháp tu từ như điệp, đối, nhân hóa; giọng điệu thơ lúc trầm hùng khi bay bổng… Tất cả đã góp phần làm nên giá trị đặc sắc cho đoạn thơ trên.

Thơ Quang Dũng vốn được coi là giàu chất nhạc, chất họa, tức là thơ ông vừa giàu nhạc điệu, vừa giàu tính tạo hình. Điều này được thể hiện rõ nét qua đoạn thơ mà chúng ta vừa đi vào cảm nhận ở trên. Nhạc điệu bài thơ được tạo nên bởi các biện pháp đối, điệp vần, điệp thanh, khiến bài thơ có âm hưởng lúc du dương thanh thoát, bay bổng; lúc lại mạnh mẽ, hùng tráng. Ngôn ngữ thơ Quang Dũng cũng rất giàu hình ảnh. Chỉ qua mười bốn câu đầu, tác giả đã khắc họa nên một bức tranh thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, mĩ lệ với núi cao, vực sâu, thác dữ, rừng dày. Chất nhạc và chất họa kết hợp nhuần nhuyễn với nhau đã làm cho bài thơ vừa có âm hưởng sử thi bi tráng, lại vừa giàu chất lãng mạn.

  • Kết bài:

Chỉ qua mười bốn câu thơ đầu, với bút pháp thi trung hữu họa, thi trung hữu nhạc, Quang Dũng đã dựng lên trước mắt chúng ta một bức tranh thiên nhiên Tây Bắc vừa hùng vĩ, hiểm trở, cũng vừa mĩ lệ và thơ mộng; đồng thời tái hiện những chặng đường hành quân gian khổ nhưng cũng đậm chất lãng mạn của binh đoàn Tây Tiến. Họ là những con người hào hoa của đất kinh kì, nhưng khi Tổ quốc cần, đã sẵn sàng lên đường chiến đấu, “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Đoạn thơ đã khơi dậy biết bao kỉ niệm về một thời hào hùng của dân tộc, về một vùng đất mà những người lính trong thời kì kháng chiến chống Pháp mãi mãi không thể nào quên. Ta lại nhớ đến những câu thơ dạt dào cảm xúc của Chế Lan Viên trong bài “Tiếng hát con tàu”:

“Trên Tây Bắc! Ôi mười năm Tây
Bắc Xứ thiêng liêng rừng núi đã anh hùng
Nơi máu rỏ tâm hồn ta thấm đất
Nay rạt rào đã chín trái đầu xuân”.

Tài liệu đọc thêm:

Phan tích chất hội họa đậm nét trong bài thơ Việt Bắc

Có thể nói bài thơ Việt Bắc là đỉnh thơ cao nhất mà Tố Hữu đã bước lên. Với bài thơ này, hồn thơ cũng như nghề thơ của Tố Hữu chín rộ. Những lời thơ tha thiết, ấm cúng đã ngợi ca được vẻ đẹp của thiên nhiên và con người Việt Bắc trong những năm tháng đấu tranh. Là những lời tiễn đưa nhau của một đôi lứa tượng trưng cho miền ngược và miền xuôi, lời hỏi, lời đáp, lời đồng vọng, lời dặn dò, lời hẹn hò đã cất lên nhờ sáng tạo ra cảnh “Ngược xuôi đôi mặt một lời song song” đã khiến cho tác giả bộc lộ được hết ân tình của mình. Nhưng ngoài những cái hài hòa cái ấm úng kia trong bài thơ không chỉ có những đoạn tuyệt đẹp, làm lộng lẫy cuộc chia tay. Đó không còn là một cây bút trong tay Tố Hữu nữa, mà nhiều ngọn bút đã nở cùng một lúc, bút tả tình, tả cảnh, tả người. Với sự kết hợp tài tình của những cây bút đó Tố Hữu đã tái hiện được bức tranh Việt Bắc trong thời gian mười năm năm tác giả sinh sống, cùng đấu tranh với con người và thiên nhiên nơi đó.

Với một khoảng không gian và thời gian nhất định, nhà thơ đã bao quát được cuộc sống từ thuở kháng Nhật, thuở còn Việt Minh, trong thời tiết sương sớm, nắng chiều, trong các mùa cỏ hoa thay đổi, tổng hợp bao nhiêu cảnh cơ quan, quân đội, dân công, công trường, đường sá. Tác giả đã tái hiện những cuộc họp trong hang núi “Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang/ Nắng trưa rực rỡ sao vàng/ Trung ương, Chính phủ luận bàn chuyện công”. Với những kí ức, niềm mong nhớ tác giả đã tái hiện lại bức tranh những con người đang bàn luận công việc cho chiến lược chiến đấu, với ngọn cờ đỏ thắm, sao vàng bay phất phới trong nắng trưa, trước cửa hang núi cùng với những con người đầy nhiệt huyết cho cuộc cuộc bảo vệ đất nước. Những câu thơ đã ca ngợi cái đẹp, cái hay, cái vĩ đại của những con người vì lợi ích của nhân dân.

Tuy nhiên, ở bài thơ Việt Bắc thực sự bộc lộ được cảm xúc một cách thấu đáo và tinh vi ở việc tác giả bao nhiêu năm trời cặn kẽ trông nhìn đồng bào miền núi, mến thương tình hành động của họ, đã bao nhiều mùa ngắm nhìn phong cảnh, thuộc các mùa của núi rừng: “Nhớ người mẹ nắng cháy lưng/ Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô”. Hình ảnh người mẹ miền núi với những ngày lao động cực nhọc, trong thời tiết khắc nghiệt. Giữa cái nắng trưa như cháy lưng đổ lửa, mẹ đã địu con đi bẻ ngô vì núi giấu độ đội. Khắc họa hình ảnh người mẹ trong lao động, đã ca ngợi đươc vẻ đẹp cao cả trong lao động, giàu lòng hy sinh, khốn khổ. Ở đây ta thấy bút pháp tạo hình trong bài thơ như dần hiện rõ.

Và bút pháp đó được tung hoành, phác họa liên hoàn các bức tranh thiên nhiên vừa tươi đẹp vừa đầy sức sống của các mùa trong núi rừng. Bức tranh thiên nhiên hiện lên với những màu sắc, đường nét tinh tế, ý nhị. Ở đây tác giả đã sử dụng các thủ pháp, nguyên tắc trong việc miêu tả thế giới với các yếu tố màu sắc, đường nét, hình khối, các chiều trong không gian. Trong bài thơ Việt Bắc thiên nhiên được thể hiện chủ yếu qua bức tranh tứ bình (xuân, hạ, thu, đông) với những màu sắc, đường nét uyển chuyển, độc đáo tạo nên một bức tranh lung linh, sinh động. Cùng với việc kết hợp đa dạng những thi liệu văn hóa nhân gian như mái đình, cây đa mang âm hưởng vừa cổ điển vừa hiện đại tạo nên sự trang trọng lẫn sự lãng mạn cho bức tranh. Mở đầu bức tranh đó là cảnh và người Việt Bắc;

Mình về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người

Sự hòa nguyện giữa cảnh và người ở nơi đây luôn được xuyên thấm, xuyên hành gắn kết với nhau. Và không gian trong bức tranh ấy không chỉ có hoa và người mà một không gian rộng lớn, làm nền để điểm tô sự nổi bật của con người đó là gam màu xanh bao la của núi rừng, của chiến khu Việt Bắc;

Rừng xanh hoa chuối đở tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng

Trên cái nền xanh bạt ngàn của rừng, nổi bật lên hình ảnh những bông hoa chuối đỏ tươi. Tố Hữu đã vân dụng nghệ thuật điểm xuyết trong thơ cổ “Cỏ non xanh rợn chân trời- cành lê trắng điểm một vài bông hoa- Nguyễn Du” tỏ ra rất hữu hiệu. Giữa bạt ngàn xanh của núi rừng Việt Bắc, điểm lên đó là những bông chuối đỏ tươi, đây là điểm sáng làm bừng lên vẻ đẹp của bức tranh mùa đông, nó gợi lên sự ấm áp, có sức lan toả. Từ xa trông tới, bông hoa như những bó đuốc thắp sáng rực tạo nên một bức tranh với đường nét, màu sắc vừa đối lập, vừa hài hòa, vừa cổ điển vừa hiện đại. Cái màu “đỏ tươi”- gam màu nóng của bông chuối nổi lên giữa màu xanh bát ngát của núi rừng, làm cho thiên nhiên Việt Bắc trở nên tươi sáng, ấm áp và như tiềm ẩn một sức sống, xua đi cái hoang sơ lạnh giá hiu hắt vốn có của núi rừng. Kèm theo đó là ánh nắng nhẹ nhạt của mùa đông chiếu vào lưỡi “dao cài thắt lưng” cũng làm bừng lên cái ánh sáng tươi đẹp của mùa đông. Cũng là cách điểm xuyết những hình ảnh nổi rõ hơn cảnh nhưng cách điểm xuyết ở đây ấy rất độc đáo, càng chọn điểm nhỏ nhất thì sức gợi càng lớn hơn. Vì thế, câu thơ có sự nhấp nháy nắng ánh của hình ảnh và cảnh vật vốn tĩnh lặng, thậm chí tịch mịch, bỗng có sức sống, sự chuyển động. Gam màu cơ bản của bức tranh là màu xanh của núi rừng, điểm lên nền xanh bạc ngàn đó là những bông chuối như những đám lửa đang bập bùng cháy giữa rừng già.

Điều đáng chú ý trong bức tranh là sự xuất hiện của con người, con người ở đây chỉ là nét chấm tả trên nền xanh đó nhưng đồng thời cũng chiếm lĩnh được cả chiều cao và chiều sâu của bức tranh. Hình ảnh chiếc dao gài lấp lánh biến con người thành một thứ ánh sáng dao động. Thiên nhiên ở đây không che lấp con người mà tôn lên vẻ đẹp của con người. Hình ảnh biểu hiện rõ mồn một ở bức tranh đó là con người đang đứng ở lưng chừng đèo, con người vững vàng, tự tin làm chủ núi rừng, thể hiện vẻ đẹp lừng lẫy của con người Việt Bắc.

Thơ ca là một nghệ thuật của thời gian. Với những nghệ sĩ tài hoa đó, việc tạo dựng nên những lớp thời gian chồng lấp và không gian không bất động, bất biến mà vẫn hiên ngang sức sống nhờ sự tái sinh của những lớp ngôn từ “Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi/ Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng” là một câu thơ như thế. Quả thật thơ đã được nói bằng hình ảnh, cái cảm xúc vô hình ấy cần có cái hữu hình để tồn tại. Chính những hình ảnh đó đã tái tạo nên một thế giới như nó đã tồn tại trong hiện thực. Nghệ thuật tạo hình trước hết là để tái hiện hình tượng.

Một bức tranh sinh động nó không chỉ tạo lập nên một không gian đặc sắc mà sự thay đổi luân phiên của thời gian cũng là một dụng ý nghệ thuật của tác giả. Sự chuyển tiếp từ một bức tranh mùa đông sang mùa xuân, phải chăng cái ánh sáng trên “dao cài thứt lưng” vẫn chưa đủ để nói lên sức sống mãnh liệt của hoa và người Việt Bắc mà đến bức tranh mùa xuân nó như được bung nở, làm bừng sáng cả núi rừng với một gam màu mới;

Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi gian

Ở đây, bức tranh mùa xuân hiện lên là một màu trắng của hoa mơ, gam màu trắng đã làm nền cho bức tranh, tạo ra một không gian vừa rộng lớn, vừa có sự rộn ràng, náo nức của thiên nhiên. Hai từ “trắng rừng” đã thể hiện cảm xúc choáng ngợp trước rừng mơ. Cùng với cái sắc xuân của đất trời trong cái sắc xuân ấy hình ảnh con người cũng không kém phần quyến rủ “chuốt từng sợi gian” một động tác làm việc rất cần mẫn, khoan thai. Nếu ở bức tranh thơ thứ nhất, nghệ thuật miêu tả của tác giả ở điểm xuyết, tìm hình ảnh gợi, sắc màu sáng như hoa đỏ, nắng ánh để diễn tả sự chuyển động của cảnh vật thì ở đây, nhà thơ lại hướng cái nhìn vào sự bao quát điệp trùng để tìm cái rạo rực của thiên nhiên. Trên cái nền không gian rộng lớn và náo nức ấy, nhà thơ hướng mắt nhìn về một hoạt động có vẻ tỉ mỉ. Con người Việt Bắc trong hoài niệm của Tố Hữu là như thế. Nhưng đó là hình ảnh thực.

Trong chuỗi hoài niệm của tác giả, hình ảnh kia chỉ là một điểm gợi nhớ. Có thể nói rằng một trong hoạt động sáng tác thơ ca là một lĩnh vực đòi hỏi rất nhiều đến trí tưởng tượng, liên tưởng của người nghệ sĩ thì Tố Hữu của chúng ta đã có được điều đó, hình ảnh của thế giới bên ngoài mà nhà thơ nhìn thấy đã hòa cùng với thế giới tâm hồn, với tình cảm yêu thương để đến lúc nhớ về kỉ niệm, kí ức được tái hiện, sống dậy, khơi nguồn cảm xúc, tạo nên một trật tự mới trong tâm hồn, cũng tạo nên một nghệ thuật kết hợp mới mẻ trong nghệ thuật sáng tạo. Văn học không có khả năng tạo ấn tượng mạnh mẽ với những động tác trực tiếp lên thị giác như hội họa, nhưng nó có khả năng mô tả, thể hiện, chiếm lĩnh các hiện tượng đời sống sâu sắc qua kênh liên tưởng. Chính bằng kênh liên tưởng ta cảm nhận được vẻ đẹp của các bức tranh thiên nhiên thông qua ngôn từ. Ở câu thơ trên, tác giả đã dùng màu sắc và đường nét như một lớp ngôn ngữ đẹp lạ lùng, những nét chấm phá đã tạo sức sống động cho bức tranh, bên cạnh gam màu nền tĩnh lặng của thiên nhiên là những hình ảnh chuyển động của con người.

Thiên nhiên trong Việt Bắc hội tụ đủ bốn mùa, sự tái hiện lại khung cảnh bốn mùa đó cho thấy sự liên tưởng rất quang trọng trong sáng tác, nó là nổi nhớ, niềm mong, là nơi từng lưu sống nặng lời thề trong lòng tác giả nên khi đi tái hiện lại cảnh núi rừng Việt Bắc, tác giả không thể bỏ sót một hình ảnh nào mà dùng bút lực của mình để ca ngợi, tôn vinh sự hài hoà đó. Bên cạnh những ngày đồng giá lạnh, những ngày xuân ấm áp thì hình ảnh ngày hè rực rỡ cũng được nhắc đến;

Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình

Câu thơ bắt đầu là tiếng “ve kêu” cùng với “rừng phách đổ vàng”. Ở đây có sự hòa điệu của tiếng ve và của rừng phách đổ, ta có cảm giác như rừng núi đang tấu lên khúc nhạc rừng, như giàn hợp xướng, khung cảnh mơ màng của mùa đông được xua tan đi thay vào đó là sự sôi động, rực rỡ hẳn lên. Rừng phách thay lá trong tiếng ve râm rang việc kết hợp hài hòa giữ tả màu và tiếng đã đưa lại một hiệu quả nghệ thuật bất ngờ, dường như có một sự phản ứng dây chuyền ve vừa dứt tiếng lập tức rừng phách đổ vàng, đây quả thực là ngày hội của cảnh vật, một âm thanh cũng trở nên có màu sắc. Nghệ thuật liên tưởng trong thơ mang tính bất ngờ, sáng tạo, đa dạng và nhạy bén. Mối liên hệ nhiều khi tưởng xa xôi, mơ hồ, không có cơ sở, nhưng thực chất lại chân thật, hợp lí. Cái đột ngột bất ngờ của liên tưởng trong Tố Hữu được tạo nên nhờ những linh cảm nhạy bén của trí tuệ cũng như tình cảm của tác giả về nơi mà mình từng sống, từng đi qua trong cuộc đời mình. Cũng nhờ có sự liên tưởng đa dạng đã tạo nên những màu sắc khác nhau của các cung bậc cảm xúc.

Có thể nói nghệ thuật tạo hình trong bức tranh này đặc sắc nhất đó là sự chuyển đổi một cách linh hoạt của gam màu nền, cùng với sự định vị thời gian qua tiếng ve lớp màu vàng của rừng phách đồng loạt đổ xuống tạo sự nên thơ và vô cùng thơ mộng của bức tranh mùa hè. Đúng là trong thi có họa, tạo hình lấy đường nét làm chính để diễn tả cái thần khí, cái sinh lực tồn tại của vạn vật.

Trên cái nền âm thanh và màu sắc đó hiện lên hình ảnh “cô em gái hái măng một mình”, một khung cảnh mùa hè đầy sắc vàng đặc trưng của Việt Bắc đã làm nền cho cô gái thêm rực rỡ, nồng say, hình ảnh cô em gái hái măng một mình không lẻ loi mà góp phần tạo nên bức tranh thơ hoàn chỉnh. Như đã nói, hoa và người Việt Bắc trong thơ Tố Hữu hoà quyện, cùng tôn vinh lẫn nhau.

Bức tranh cuối cùng trong bộ tứ bình là hình ảnh mùa thu về đêm, cũng như những nhà thơ khác khi nói về mùa thu thi nhân không quên nhắc đến ánh trăng, Tiếng thu của Lưu Trọng Lư “Em không nghe rừng thu/ Lá thu kêu xào xạc/Con nai vàng ngơ ngác/ Đạp trên lá vàng khô ?” đây quả là một bức tranh thu tuyệt sắc đến lược mình Tố Hữu đã tả mùa thu Việt Bắc:

Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung

Câu thơ có kiểu mở đầu bằng sự định vị cả không gian lẫn thời gian “rừng thu”. Đến đây, ta chú ý các kiểu định vị ở những câu thơ trên: Rừng xanh (không gian), Ngày xuân (thời gian), Ve kêu (âm thanh chỉ thời gian). Ứng với mỗi câu thơ và cách định vị trên là một mùa của thiên nhiên (mùa đông, mùa xuân, mùa hạ). Câu thơ này cũng là bức tranh về một mùa của thiên nhiên (mùa thu), không gian được bao trùm bởi gam màu đen, đó là một đêm thu lấp lánh ánh trăng. Có lẽ đó là bức tranh cuối của bộ tứ bình và là tiếng hát cuối của một trường đoạn hoài niệm nên hình ảnh tất thảy đều trở nên tượng trưng, âm hưởng cũng bao quát hơn “ân tình thủy chung”.

Rừng thu Việt Bắc trong thơ Tố Hữu mênh mông nhưng không lạnh lẽo. “Trăng rọi hoà bình” vừa mang ý nghĩa ánh trăng của cuộc đời ân tình ấy, lại vừa mang ý nghĩa cuộc sống có sự soi rọi ấm áp của niềm tin, tự do. Và trong cuộc sống ấm áp ấy, có biết bao nhiêu nghĩa tình sâu nặng. Ai đó đã từng nói rằng: bốn mùa xuân-hạ-thu-đông là món quà vô giá mà tạo hóa ban tặng cho con người. Bốn mùa với bốn sắc thái khác nhau mang đến sự đổi thay cho thiên nhiên cây lá. Bộ tranh tứ bình của Tố Hữu cũng vậy, nó cũng cho người đọc cảm nhận được từng sắc thái độc đáo, riêng biệt của tự nhiên.

Bên cạnh bức tranh thiên nhiên được gợi tả đầy tinh tế, sinh động thì hình ảnh người lính trong những đêm hành quân trùng trùng điệp điệp trong những khu rừng hoang vắng, lạnh lẽo cũng là một bức chân dung khắc họa sâu sắc, hùng vĩ về con người. Nếu những câu thơ lục bát trên đang đi trên những âm điệu êm ái ngọt ngào của hoài niệm về Việt Bắc với bốn mùa tươi đẹp thì tới những câu thơ sau bỗng trở nên dồn dập, sôi nổi, náo nức. Khép lại bức tranh thiên nhiên thì tác giả lại mở ra một bức tranh mới đó là bức tranh về những người lính Việt Bắc ra quân với khí thế đất trời chuyển rung:

Những đường Việt Bắc của ta
Ðêm đêm rầm rập như là đất rung

Với việc sử dụng những từ láy “đêm đêm, rầm rập” gợi mở không gian và gợi âm thanh, tác giả đã vẽ lên một đoàn quân ra quân với khí thế dũng mãnh. Những bước đi như đất trời đang rung chuyển sụp lỡ dưới chân các chiến sĩ. Cuộc hành quân đó rất thần tốc:

Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan

Hiện lên trên bức tranh với màn sương đêm, hình ảnh đoàn quân đi thật đẹp và dài đến vô tận. Hình ảnh “Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan” là một hình ảnh đẹp và thơ mộng, gợi ta nhớ tới câu thơ “Đầu súng trăng treo” trong bài Đồng chí của Chính Hữu. Câu thơ như một bức chân dung khắc họa hình ảnh người lính trong từ thế chờ giặc, sẳn sàng chiến đấu. Hình ảnh “súng” và “sao”, “trăng” là những hình ảnh biểu tượng gắn liền với cuộc đời người lính. Suốt đêm vầng trăng hay những ngôi sao từ bầu trời cao, xuống thấp dần và có lúc nó như treo lơ lửng trên đầu mũi súng, một hình ảnh thơ độc đáo, có sức gợi nhiều liên tưởng phong phú sâu xa. Bên cạnh những anh bộ đội cụ Hồ, hình ảnh những đoàn dân công ra trận tải lương, tải đạn phục vụ tiền tuyến:

Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.

Hình ảnh nhưng đoàn dân công nườm nượp đi trong ánh đuốc là một hiện thực. Trong chiến tranh, nhân dân lấy đêm làm ngày. Bởi thế nên giữa đêm Việt Bắc ra quân những người dân công cũng đỏ đuốc đi từng đoàn. Họ là những người lính hăn hái lên đường. Giữa cái cảnh hào hùng ấy đoàn quân đi như lở đất, nát đá cùng với muôn tàn lửa bay. Với hai câu thơ như làm sinh động và thơ mộng hơn cho bức tranh hành quân. Ta có cảm giác như một bức tranh về đêm với đèn hoa đăng rực rỡ, những bó đuốc rơi xuống mặt đất đã thực sự làm cho con đường ra trận thêm lung linh, ấm áp trong đêm lạnh. Ở đây, bút pháp tạo hình của Tố Hữu đã kết hợp độc đáo và hài hòa về màu sắc. Giữa cái lạnh của đêm khuya, cái bóng tối hiểm nguy hòa vào những ngọn đuốc tỏa sáng làm cho bức tranh ra trận trở nên ấp áp và giàu lòng tin yêu.

Và bức tranh cuối cùng trong bài thơ Việt Bắc, như một danh họa. Trong mấy nét, Tố Hữu đã lột tả được phong thái cao quý lớn lao của Hồ Chủ tịch, khi Người đi qua rừng núi cũng như học theo tác phong của Người, con ngựa của Người cưỡi như cũng nhịp bước chân cho hợp với cái bình tĩnh ung dung của Người.

Mình về với Bác đường xuôi
Thưa giùm Việt Bắc không nguôi nhớ Người
Nhớ Ông Cụ mắt sáng ngời
Áo nâu túi vải, đẹp tươi lạ thường!
Nhớ Người những sáng tinh sương
Ung dung yên ngựa trên đường suối reo
Nhớ chân Người bước lên lên đèo
Người đi, rừng núi trông theo bóng Người…

Đoạn thơ trên đã thể hiện nỗi nhớ, lòng kính yêu, tình lưu luyến của đồng bào các dân tộc đối với Bác Hồ khi Người từ chiến khu Việt Bắc trở lại thủ đô Hà Nội sau hơn ba ngàn ngày khói lửa. Hai chữ “thưa giùm” là cách nói đậm đà của dân gian. Vì xa cách nên phải “thưa giùm”, gửi lời yêu thương, kính nhớ “không nguôi nhớ Người”.Nhớ không nguôi là nhớ da diết, nhớ day dứt triền miên. Kể từ ngày Người ở hải ngoại trở về Pắc Bó, Cao Bằng đến ngày Thủ đô hoàn toàn giải phóng (1941-1954), Bác đã sống và hoạt động giữa núi rừng Việt Bắc“Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”. Bác về lại Thủ đô, nên đồng bào Việt Bắc mới có nỗi nhớ ấy:

Mình về với Bác đường xuôi
Thưa giùm Việt Bắc không nguôi nhớ Người.

Chữ “nhớ” là cảm xúc chủ đạo, thấm sâu trong lòng người, tỏa rộng trong không gian, thời gian, và đã in đậm trên từng vần thơ của Tố Hữu. Người đã về xuôi nhưng “ta” vẫn nhớ không nguôi. Nhớ cặp mắt “sáng ngời” của Bác, nhớ chiếc “áo nâu” dân dã, nhớ chiếc “túi vải” mà Người vẫn mặc, vẫn mang theo bên mình khi đi công tác, khi đi chiến dịch:

Nhớ Ông Cụ mắt sáng ngời!
Áo nâu túi vải đẹp tươi lạ thường.

Các hoán dụ nghệ thuật (mắt, áo nâu, túi vải) tượng trưng cho sự thông minh, tài trí, đời sống giản dị của Bác Hồ kính yêu. Các chữ: “sáng ngời”, “đẹp tươi lạ thường!” đã gợi lên cái thần thái và cốt cách lão thực của Ông Cụ, một con người xuất chúng đã kết tinh những tinh hoa văn hóa cổ kim đông tây. Bức truyền thần Hồ Chí Minh như được vẽ bằng màu sắc và ánh sáng tuyệt đẹp. Tố Hữu đã nhiều lần nói về chiếc áo nâu của lãnh tụ. Một đời sống giản dị đáng yêu vô cùng:

Bác Hồ đó, chiếc áo nâu giản dị
Màu quê hương bền bỉ đậm đà.

(Sáng tháng Năm)

Mong manh áo vải hồn muôn trượng
Hơn tượng đồng phơi những lối mòn.

(Bác ơi)

Và đôi mắt Bác Hồ, đôi mắt ấm áp tình thương, đôi mắt lạc quan yêu đời, đôi mắt của niềm tin dào dạt:

Bác Hồ đó, là lòng ta yên tĩnh
Ôi người Cha, đôi mắt mẹ hiền sao!
(…) Không gì vui bằng mắt Bác Hồ cười
Quên tuổi già, tuơi mãi tuổi đôi mươi.

(Sáng tháng Năm)

Và ở những câu thơ:

Nhớ Người những sáng tinh sương
Ung dung yên ngựa trên đường suối reo
Nhớ chân Người bước lên đèo
Người đi rừng núi trông theo bóng Người…

Những câu thơ trên thể hiện một nét đẹp, một phẩm chất cao quý của lãnh tụ, đó là phong thái ung dung tự tại của một chiến sĩ cách mạng vĩ đại mang cốt cách nhà hiền triết phương Đông. Bức chân dung Ông Cụ được vẽ bằng những nét vẽ động và sự phối sắc thần tình. Lãnh tụ xuất hiện trên yên ngựa, “trên đường suối reo” với phong thái ung dung, với tư thế đĩnh đạc “bước lên đèo”. Cái nền của bức tranh rất đẹp. Có màu trắng nhạt của “tinh sương”. Có màu lóng lánh trong xanh của “suối reo”. Có màu đất đỏ của con “đèo”. Và có màu xanh của rừng núi Việt Bắc. Điệp ngữ “nhớ” là tâm trạng nghệ thuật đồng hiện trong một không gian nghệ thuật đầy màu sắc và âm thanh (suối reo). Núi rừng được nhân hóa nói lên thật cảm động tình lưu luyến của đồng bào Việt Bắc đối với Bác Hồ kính yêu: “Người đi rừng núi trông theo bóng Người”.

Đoạn thơ trên đây là bức tranh lụa truyền thần tuyệt tác về lãnh tụ Hồ Chí Minh. Tài trí thông minh, giản dị, ung dung tự tại là cái thần của bức chân dung Ông Cụ. Điệp ngữ “nhớ” được kết hợp với các từ ngữ biểu cảm khác như: “không nguôi nhớ Người”, “trông theo bóng Người” đã diễn tả một cách chân thật cảm động mối quan hệ thân thiết tốt đẹp giữa lãnh tụ với nhân dân, giữa Bác Hồ với đồng bào Việt Bắc. Ngòi bút Tố Hữu rất giàu có khi nói về lãnh tụ: Bác, Người, Ông Cụ, một cách nói vừa thành kính trang trọng, vừa dân dã bình dị.

Tình cảm là suối nguồn vô tận của thi ca. Tình cảm tạo nên hồn thơ, hương vị thơ. Tố Hữu đã viết nên những vần thơ dung dị, đậm đà ca ngợi những phẩm chất cao quý của lãnh tụ thiên tài của dân tộc với tất cả niềm kính yêu và lòng tự hào sâu sắc. Hình ảnh Bác Hồ càng trở nên thân thiết yêu thương đối với mỗi con người Việt Nam. Đoạn thơ biểu hiện cao độ vẻ đẹp nghệ thuật và tính dân tộc trong thơ Tố Hữu.

Qua sự phân tích bút pháp hội họa trong những câu thơ của Tố Hữu ta cũng có thể nhận thấy mối quan hệ vô cùng gần gũi giữa văn học và hội họa, chúng luôn được đan xen, dung hòa vào nhau, nhờ có nghệ thuật tạo hình mà thơ có thể tái hiện một cách độc đáo, sinh động về hiện thực. Nhà thơ không chỉ tả ý, chí, tình mà còn cố gắng vẽ nên hình ảnh bằng ngôn từ để tạo thêm sức hấp dẫn, sức gợi cho thơ. Hoạ sĩ cũng không chỉ nhằm tái hiện lại hình ảnh sự vật sao cho “giống như thật” với sự vật bên ngoài, mà còn chú ý đến cái thần, gởi gắm tâm tình của mình qua đường nét và màu sắc của bức tranh. Cho nên trong thơ luôn có hai phần: tình và cảnh, mà người ta thường dùng cảnh để ngụ tình. Bởi vậy kết cấu của một bài thơ lục bát thường là phần trước tả cảnh, phần sau tả tình, trong đó phần tả cảnh rất giàu hình ảnh, màu sắc, đường nét khiến người đọc như thấy trước mắt hiện lên một bức tranh sống động.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang