Phân tích tác phẩm Tây Tiến của Quang Dũng

phan-tich-tac-pham-tay-tien-cua-quang-dung

Phân tích tác phẩm Tây Tiến của Quang Dũng.

I. Mở bài:

– Quang Dũng là một trong những gương mặt tiêu biểu của nền thơ ca hiện đại Việt Nam. Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài: làm thơ, viết văn, vẽ tranh, soạn nhạc. Ông là nhà thơ trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Pháp, hồn thơ Quang Dũng phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa, tha thiết với quê hương, đất nước mình. Thơ ông có cái tôi hào hoa, thanh lịch, giàu chất lãng mạn, nhạy cảm với vẻ đẹp tinh tế của thiên nhiên và con người.

– Tây Tiến là bài thơ tiêu biểu cho đời thơ của Quang Dũng, trong đó thể hiện tập trung những nét đặc sắc nhất trong phong cách nghệ thuật của nhà thơ và cũng là một trong những bài thơ hay nhất trong số những bài viết về đề tài người lính thời kỳ kháng chiến chống Pháp.

 

– Quang Dũng là một trong những gương mặt thơ tiêu biểu của nền thơ ca hiện đại Việt Nam thời chống Pháp (1946- 1954). Thơ Quang Dũng hấp dẫn người đọc bởi là sự hội tụ của hai nguồn thi cảm: tình yêu đất nước, quê hương và khát vọng lên đường. Tiếng nói trữ tình ấy lại được biểu hiện bằng hệ thống nghệ thuật hài hòa hai yếu tố cổ điển và hiện đại, giàu chất họa, chất nhạc, chan chứa nguồn chân cảm.

II. Thân bài:

1. Khúc dạo đầu của nỗi nhớ (2 câu thơ đầu):

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi

– Nhịp điệu câu thơ trải dài và bật lên thành tiếng gọi tha thiết: Tây Tiến ơi. Trong dòng tâm tưởng ấy, hình ảnh đầu tiên trở về trong tâm trí của nhà thơ là Sông Mã, là con sông từ thượng Lào chảy vào đất Việt. Dòng sông ấy đã gắn bó với đoàn quân Tây Tiến, chứng kiến những vui, buồn trong cuộc đời người lính chiến binh. Sông Mã cũng là hình ảnh xuất hiện cuối cùng của khúc hoài niệm, Sông Mã là dòng sông tâm trạng chở những nỗi niềm đầy vơi trong lòng thi nhân.

– Nhớ về Tây Bắc là nhớ về binh đoàn Tây Tiến: là một đơn vị thành lập đầu năm 1947, Quang Dũng có mặt tại đơn vị ngay từ những ngày đầu mới thành lập nên nhà thơ có sự gắn bó sâu sắc với đồng đội của mình là nhớ về rừng núi: là hình ảnh khái quát về địa bàn hoạt động của người lính Tây Tiến. Đó là nơi rừng núi hoang vu, rậm rạp, địa hình hiểm trở,…

– Nỗi nhớ của tác giả được thể hiện sâu sắc qua giọng điệu và cách phối thanh và phép điệp từ, điệp âm:

+ 2 chữ “xa rồi” là 2 thanh bằng, âm hưởng vang xa rộng như diễn tả trạng thái hụt hẫng, tiếc nuối về quá khứ thân thương mà hào hùng thuở nào.

+ Điệp từ “nhớ”: diễn tả nỗi nhớ cháy bỏng, không nguôi cứ tuôn chảy dào dạt trong lòng thi nhân, nhớ đến thổn thức, bồi hồi. Hai từ nhớ được đặt trong cùng một câu thơ nhưng lại tách ra làm hai vế khiến cho nỗi nhớ như được tô đậm thêm cảm xúc.

+ Nỗi nhớ của nhà thơ được diễn tả qua hình ảnh thơ thật đặc sắc: nhớ chơi vơi. Hai từ chơi vơi là hai từ giàu sức gợi, từng được dùng để diễn tả tâm trạng của con người. Nỗi nhớ thật khó định hình, định lượng, khó diễn tả, nỗi nhớ ấy như gợi ra được cả sự xa xôi về thời gian, không gian cứ bồng bềnh lan tỏa không sao đong đếm được, một trạng thái mơ hồ mà rất ấn tượng, ám ảnh hồn người.

+ Quang Dũng sử dụng hai chữ chơi vơi kết hợp với sự láy lại ba lần của âm ơi (ơi, chơi vơi), đây là ba âm mở có kết cấu thanh bằng mang âm hưởng vang vọng lan tỏa khiến cho nỗi nhớ như được ngân lên, nhớ đến thiết tha, thường trực trong tâm hồn nhà thơ, cả không gian dường như cũng ngập tràn trong nỗi nhớ của tác giả.

2. Nỗi nhớ về thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội, thơ mộng trên chặng đường hành quân gian khổ của người lính Tây Tiến (6 câu thơ tiếp).

* Nhớ về những đêm hành quân trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt:

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi

– Trong nỗi nhớ của Quang Dũng có nhiều địa danh xuất hiện như: Sài Khao, Mường Lát. Đây là những địa danh, tên những vùng đất mà người lính Tây Tiến đi qua, từng gắn bó. Mặt khác, những địa danh này còn mang ý nghĩa khái quát, nó tượng trưng cho một không gian rất riêng của Tây Bắc xa xôi, lạ lẫm, hoang dã, bí ẩn.

– Những địa danh ấy vốn xa xôi lạ lẫm với những chàng lình Hà Thành vậy mà giờ đây nó trở thành những dấu chân kỉ niệm, nó đã tái hiện lại một thời kì lịch sử hào hùng của dân tộc với biết bao khó khăn, gian khổ:

Những tên làng, tên núi, tên sông
Những cái tên đọc lên nghe muốn khóc.

– Hiện thực núi rừng miền Tây hiện ra trong mờ ảo khói sương,sương dày như muốn che lấp cả đoàn quân mỏi. Hai chữ sương lấp cùng chữ mỏi đưa người đọc trở về với cuộc sống hiện thực khốc liệt của người lính. Sương núi lạnh giá cắt da, cắt thịt như muốn nhấn chìm đoàn quân. Thế nhưng, trong chính hiện thực khắc nghiệt ấy, chàng lính Tây Tiến vẫn khám phá được những vẻ đẹp thiên nhiên tinh tế và lãng mạn. Tác giả viết hoa về chứ không phải là hoa nở, đêm hơi chứ không phải là đêm sương. Nếu viết đêm sương, ý thơ nghiêng về chất hiện thực còn đêm hơi gợi người đọc liên tưởng đến hình ảnh sương núi bồng bềnh trong đêm tạo nên sự huyền ảo, mơ hồ. Đặc biệt hơn nữa là hình ảnh hoa về đã đem đến cho người đọc nhiều suy ngẫm, có thể hiểu trong sự cảm nhận lãng mạn của người lính thì sương khói ở Mường Lát lúc tụ vào, lúc tan ra trông như những bông hoa khói vậy.

– Cũng có thể, những người lính Tây Tiến trên đường hành quân trở về Mường Lát họ mang theo những đóa hoa rừng ngát hương thơm, hoa đang cùng bung nở trên chặng đường hành quân của người lính Tây Tiến, là người bạn đồng hành của,người lính. Một trong những ý nghĩa mà ta không thể phủ nhận được là do hành quân trong đêm, đường lại nhiều đèo, lắm dốc, khúc khuỷu, gập ghềnh đầy hiểm nguy nên những người lính Tây Tiến đã phải đốt đuốc trong đêm. Những ngọn đuốc soi sáng bước đường hành quân gian khổ ấy, đẹp lung linh như bông hoa giữa khói sương mờ ảo?

– Dù hiểu theo cách nào, người đọc vẫn cảm nhận được những khó khăn, gian khổ mà người lính Tây Tiến đã phải trải qua để ta hiểu về hiện thực khốc liệt của chiến tranh để thêm cảm phục, thêm yêu vẻ đẹp tâm hồn của những người lính trẻ mộng mơ. Câu thơ đẹp như một bức danh họa xuất phát từ cách nhìn, cách cảm của một tâm hồn hào hoa lãng mạn. Những hình ảnh ấy khiến cho đoạn thơ bớt đi sự dữ dằn của hiện thực, người đọc có cảm giác như được xoa dịu, vơi đi những nhọc nhằn,
vất vả mà người lính Tây Tiến phải chịu đựng.* Nhớ về những chặng đường hành quân gian khổ qua những địa hình hiểm
trở dữ dội và thơ mông

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi

– Hình sông thế núi hiểm trở và hùng vĩ được phác họa qua những từ láy giàu tính tạo hình:khúc kkuỷu, thăm thẳm, heo hút, chúng lại được đặt liên tiếp nhau để đặc tả sự gian nan trùng điệp. Nếu như Dốc khúc khuỷu vì đường đi là núi đèo hiểm trở, gập ghềnh, vừa lên cao đã vội đổ dốc, cứ thế gấp khúc nối tiếp nhau gợi độ cao ngất trời thì Dốc thăm thẳm: không chỉ đo chiều cao mà còn là ấn tượng về độ sâu, cảm giác như hút tầm mắt người, không biết đầu là giới hạn cuối cùng. Điệp từ dốc được nhắc đến liên tiếp hai lần trong một câu thơ, tách ra ở hai vế gợi ra một địa hình hiểm trở chỉ có dốc là dốc cao và sâu. Người đọc có cảm giác người lính vừa vượt qua con dốc này lại thấy hiện ra những con dốc khác ngay trước mặt mình.

– Thiên nhiên Tât bắc kì vĩ và khoáng đạt qua những điểm nhìn nghệ thuật, là Heo hút cồn mây: heo hút gợi ra sự vắng vẻ, hiu quạnh, nghệ thuật đảo ngữ càng nhấn mạnh điều đó. Cồn mây là mây tụ lại, xếp tầng, hình ảnh thơ gợi ra vị trí của người lính Tây Tiến đứng trong mây, trên đỉnh núi cao vời vợi. Thiên nhiên Tây Bắc là vẻ đẹp kì vĩ, tráng lệ: Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống. Tác giả sử dụng nghệ thuật đối lập cùng cách ngắt nhịp 4/3, kết hợp với điệp từ ngàn thước với hai động từ chỉ hướng lên, xuống khiến cho câu thơ như bị bẻ gãy làm đôi để miêu tả hai chiều không gian Tây Bắc vừa có độ cao chót vót, vừa có độ sâu thăm thẳm. Dốc đột ngột vút lên thẳng đứng rồi lại đột ngột gãy gập đổ xuống một cách bất ngờ, nguy hiểm. Đọc những câu thơ này của Quang Dũng ta liên tưởng đến hai câu thơ của Lí Bạch tả cảnh thác Hương Lô:

Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước
Tưởng dải ngân hà tuột khỏi mây

– Và cuối cùng là những nét vẽ dịu mát trong câu thơ chỉ là những thanh B: Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi. Không gian được cảm nhận qua điểm nhìn của người lính Tây Tiến khi người lính hành quân lên đến đỉnh núi phóng tầm mắt ra xa, dưới kia là những ngôi nhà bồng bềnh trong biển mưa. Người đọc không còn thấy dấu vết của sự mệt mỏi bởi phải vượt rừng, leo núi nữa, bây giờ là tâm trạng bâng khuâng, thư thái của con người khi vượt lên đến đỉnh dốc, vượt qua biết bao gian lao, vất vả.

Có thể nói, bằng nét vẽ tài hoa Quang Dũng đã mở ra không gian ba chiều khiến hình ảnh thơ được chạm nổi thành một bức phù điêu hùng vĩ về núi rừng Tây Bắc.

– Chất hào hùng, hào hoa của vẻ đẹp tâm hồn người lính Tây Tiến được thể hiện qua nghệ thuật nhân hóa: súng ngửi trời, qua nghệ thuật khắc họa hình tượng.

+ Hình ảnh thơ: súng ngửi trời. Trước hết, đây là một hình ảnh xuất phát từ cảm xúc trước hiện thực, những người lính Tây Tiến hành quân trong mây mà tưởng như nòng súng chạm tới đỉnh trời. Thế nhưng, tác giả không nói súng chạm trời mà là súng ngửi trời. Tác giả sử dụng nghệ thuật nhân hóa khiến cho những vật vô tri, vô giác cũng trở nên có linh hồn sống động hơn. Người lính đang tếu táo, đùa vui trêu ghẹo cả tạo hóa. Câu thơ khiến người đọc liên tưởng đến hình ảnh thơ, tâm hồn thơ trẻ trung, sôi nổi, lạc quan của người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật.

+ Nghệ thuật khắc họa: Quang Dũng không nói đến người lính mà ta vẫn thấy người lính. Chữ ngửi vẽ ra hình ảnh người lính đang ở tư thế chót vót trên đỉnh núi, đi giữa ngàn mây, nòng súng đang chạm vào vòm trời. Điều đó cho thấy sự hùng vĩ của thiên nhiên Tây Bắc và vẻ đẹp của người lính Tây Tiến. Vẻ đẹp của con người trong tư thế sánh ngang trời đất, làm chủ hoàn cảnh. Vẻ đẹp của người lính Tây Tiến được tỏa sáng giữa đất trời Tây Bắc mang vẻ đẹp sử thi của văn học giai đoạn 1945 – 1975. Đó là vẻ đẹp tiêu biểu của người lính trong văn học chống Pháp:

– Chất nhạc chất họa trong nghệ thuật ngôn từ:

+ Thanh trắc được sử dụng với mật độ dày đặc (liên tiếp ở ba câu thơ: Dốc lên khúc khuỷu…ngàn thước xuống) đã vẽ nên những đường nét gân guốc, rắn rỏi về địa hình vùng cao Tây Bắc hiểm trở, đó cũng là chặng đường hành quân vô cùng gian nan mà người lính Tây Tiến phải trải qua.

+ Thanh bằng được sử dụng nguyên văn trong một câu thơ: Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi đã tạo cho câu thơ những nét vẽ dịu mát, là tâm trạng bâng khuâng, thư thái của con người khi vượt lên đến đỉnh dốc, vượt qua biết bao gian lao, vất vả.

→  Bốn câu thơ có sự kết hợp hài hòa giữa các thanh điệu, quả đúng Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài, ông có tài không chỉ về thơ ca mà còn cả âm nhạc và hội họa nữa. Những câu thơ này thật xứng đáng là lời thơ Thi trung hữu họa, thi trung hữu nhạc. Phải chăng vì thế mà Xuân Diệu cho rằng: Đọc thơ của Quang Dũng như ngậm nhạc ở trong miệng. Trong những câu thơ này, Quang Dũng còn sử dụng nghệ thuật của thơ Đường vẽ mây nảy trăng khi nhà thơ tả cảnh núi rừng Tây Bắc hùng vĩ, hiểm trở, dữ dội để làm nổi bật lên hình ảnh người lính Tây Tiến trên bước ờng hành quân và chiến đấu đầy gian khổ, vất vả, hi sinh nhưng vẫn lạc quan hồn nhiên yêu đời, lãng mạn.

3. Nỗi nhớ về người lính Tây Tiến trên chặng đường hành quân gian khổ mang vẻ đẹp hào hùng, lãng mạn, đậm chất bi tráng.

Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục trên súng mũ bỏ quên đời!

+ Hiện thực bi tráng được diễn tả qua những từ ngữ: Dãi dầu, gục. Đó là những vất vả, gian lao mà người lính Tây Tiến phải trải qua trên chặng đường hành quân gian khổ và quá trình chiến đấu với quân thù. Đặc biệt là chữ gục là cách nói giảm, nói mtránh diễn tả sự hi sinh của người lính vì Tổ quốc. Quang Dũng vẫn tiếp tục sử dụng cách nói giảm, nói tránh khi viết về vẻ đẹp bi tráng của người lính Tây Tiến qua các cụm từ: không bước nữa, bỏ quên đời. Chiến đấu và hi sinh đó là hiện thực khốc liệt của chiến tranh. Nhà thơ Quang Dũng đã không ngần ngại nói đến nỗi mất mát mặc dù câu thơ không có từ nào nói đến cái chết. Hiệu quả của nghệ thuật nói giảm nói tránh vừa gợi được tình thương, vừa gợi đựơc sự bình thản chứ không bi lụy.

+ Vẻ đẹp tinh thần của những chàng lính Hà thành được truyền tải rõ nét qua chữ “bỏ quên đời”. Cuộc đời con người thật đáng quý biết bao mà họ nói bỏ quên như bỏ quên mà không hề băn khoăn, hối tiếc.Với cách nói này câu thơ gợi vẻ đẹp hùng tráng gợi ra chất phong trần, ngang tàng của người lính mang vẻ đẹp của những tráng sĩ thủa xưa: Coi cái chết nhẹ tựa hồng mao. Người tráng sĩ thủa xưa mang lí tưởng anh hùng, quyết ra đi lập nên sự nghiệp lớn. Chí lớn chưa thành thì không bao giờ nói trở lại. Như ý thơ của Nguyền Đình Thi ngày ấy:

Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng, lá rơi đầy

– Thiên nhiên hoang dã, dữ dội được miêu tả trong tiếng gầm thét của thác, bóng dáng của cọp trêu người.

Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người

+ Cảnh tượng chiến trường đâu chỉ có đèo cao, cồn mây, dốc thẳm, đâu chỉ có mưa ngàn, suối lũ mà còn có biết bao thử thách của núi rừng tự ngàn đời mang cái vẻ hoang sơ và bí mật, hùng vĩ và oai nghiêm: thác ngầm thét hai thanh T với âm vức cao là những tiết tấu hoang sơ, man dại đầy bí hiểm của rừng thiêng Tây Bắc.

+ Địa danh Mường Hịch: Nhà thơ Vũ Quần Phương cho rằng địa danh Mường Hịch đọc có cảm giác như tiếng chân cọp đi trong đêm khuya. Hai chữ Hịch, cọp với hai dấu nặng trĩu xuống nghe rờn rợn. Câu thơ nói đủ sự khốc liệt của chiến trường người lính. Hai dấu chấm nặng như xoáy vào lòng đất gợi cảm giác ghê sợ, hãi hùng.

+ Sử dụng từ láy và điệp từ: Chiều chiều, đêm đêm gợi cho người đọc ấn tượng mạnh mẽ về thời gian diễn ra triền miên nơi rừng thiêng thác sâu, cọp dữ, nơi ấy luôn là mối đe dọa khủng khiếp đối với người lính Tây Tiến. Sự nguy hiểm ấymthường diễn ra vào lúc chiều tối, đêm sâu và thường xuyên, liên tục không phải là một chiều, một đêm mà chiều nào cũng thế, đêm nào cũng thế.

+ Thế Lữ đã từng nói về oai linh rừng thẳm trong bài Nhớ rừng nhưng cái mới của Quang Dũng là, bằng cái tài thẩm âm tinh tế ông đã ghi lại những chủ âm đặc thù của rừng già Tây Bắc là tiếng thác, tiếng hổ báo gầm gào khiến người đọc cảm nhận được cái oai linh rờn rợn của núi rừng lúc chiều buông, khi đêm về.

– Nhớ những cung đường hành quân cùng với kỉ niệm tình quân dân thắm thiết:

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi

+ Một lần nữa nỗi nhớ lại bật lên thành lời, tác giả đã thốt lên Nhớ ôi. Hai từ này mang giọng điệu cảm thán bộc lộ nỗi nhớ nhung trào dâng mãnh liệt. Câu thơ có ba thanh trắc ngắt quãng đều đặn tạo nên âm điệu câu thơ vút lên đẩy nỗi nhớ nhung lên cung bậc cao nhất.

+ Tác giả nhớ về: Mai Châu, bữa xôi sốt dẻo ấm áp tình quân dân. Có thể hiểu người lính Tây Tiến dừng chân ở Mai Châu giữa mùa lúa chín đón nhận bát xôi hương nếp đầu mùa. Anh gặp em đúng mùa thu hoạch. Bát cơm nếp đong đầy tình quân dân, đặc biệt có bàn tay thơm thảo của em làm nên hương vị nồng ấm ấy làm vấn vương lòng người chiến sĩ Tây Tiến. Hương nếp thơm hay đó chính là sự thơm thảo của lòng người, của tình em nồng ấm? Điều này trong bài thơ Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên đã từng viết:

Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch
Bữa xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương

+ Chất lãng mạn trong từng câu chữ: Hai chữ mùa em là một sáng tạo ngôn ngữ tài hoa của tác giả gợi đầy tình thương và nỗi nhớ, trìu mến và thân thương. Chữ mùa gợi sự đầy đủ, ăm ắp sự sống, mang hương vị của đồng nội, còn chữ em gợi vẻ đẹp
xuân sắc của người thiếu nữ. Hai từ mùa em đã gợi tả tinh tế cảm giác xao xuyến, say mê của các chàng trai Hà Thành hào hoa, lãng mạn trước sản vật và con người Tây Bắc. Trong những năm tháng chiến đấu gian khổ ấy, tình quân dân đã làm vơi
đi những khó khăn mà người lính phải trải qua. Đây sẽ mãi mãi là những kỉ niệm đẹp đẽ làm ấm lòng người lính trên chặng đường hành quân gian lao, đầy thử thách.

4. Cảnh liên hoan đêm lửa trại – những kỉ niệm đẹp về tình quân dân.

– Đoạn thơ thứ hai mở ra một thế giới khác của miền Tây. Cảnh núi rừng hoang vu hiểm trở, dữ dội lùi dần rồi khuất hẳn để bất ngờ hiện ra vẻ mĩ lệ, thơ mộng, duyên dáng của miền Tây. Những nét vẽ bạo, khoẻ, gân guốc ở đoạn thơ đầu, đến đoạn thơ này được thay bằng những nét mềm mại, uyển chuyển, tinh tế. Ngòi bút tài hoa của Quang Dũng cũng được bộc lộ rõ nhất trong đoạn thơ này.

– Hồn thơ lãng mạn của Quang Dũng bị hấp dẫn trước những vẻ đẹp mang màu sắc bí ẩn của con người và cảnh vật nơi xứ lạ, phương xa. Cảnh ấy, người ấy được hiện lên trong một khoảng thời gian làm nổi lên rõ nhất vẻ lung linh, huyền ảo của nó: cảnh một đêm liên hoan lửa đuốc bập bùng và cảnh một buổi chiều sương phủ trên sông nước mênh mang.

– Cảnh một đêm liên hoan văn nghệ của những người lính Tây Tiến có đồng bào địa phương đến góp vui được miêu tả bằng những chi tiết rất thực mà cũng rất mộng, rất ảo:

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa.
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ

– Cả doanh trại “bừng sáng”, tưng bừng, sôi nổi hẳn lên khi đêm văn nghệ bắt đầu. Trong ánh sáng lung linh của lửa đuốc, trong âm thanh réo rắt của tiếng khèn, cả cảnh vật, cả con người đều như ngả nghiêng, bốc men say, ngất ngây, rạo rực. Hai chữ “kìa em” thể hiện một cái nhìn vừa ngỡ ngàng, ngạc nhiên,vừa mê say, vui sướng. Nhân vật trung tâm, linh hồn của đêm văn nghệ là những cô gái nơi núi rừng miền Tây bất ngờ hiện ra trong những bộ xiêm áo lộng lẫy (“xiêm áo tự bao giờ”), vừa e thẹn, vừa tình tứ (“nàng e ấp”) trong một vũ điệu đậm màu sắc xứ lạ (“man điệu”) đã thu hút cả hồn vía những chàng trai Tây Tiến.

– Nếu cảnh một đêm liên hoan đem đến cho người đọc không khí mê say, ngây ngất, thì cảnh sông nước miền Tây lại gợi lên được cảm giác mênh mang, mờ ảo:

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa

– Không gian dòng sông trong một buổi chiều giăng mắc một màu sương. Sông nước, bến bờ lặng tờ, hoang dại như thời tiền sử. Trên dòng sông đậm màu sắc cổ tích, huyền thoại ấy, nổi bật lên dáng hình mềm mại, uyển chuyển của một cô gái Thái trên chiếc thuyền độc mộc. Và như hoà hợp với con người, những bông hoa rừng cũng “đong đưa” làm duyên trên dòng nước lũ.

– Ngòi bút tài hoa của Quang Dũng không tả mà chỉ gợi cảnh vật thiên nhiên xứ sở qua ngòi bút của ông như có hồn phảng phất trong gió, trong cây (“có thấy hồn lau nẻo bến bờ”). Ông không chỉ làm hiển hiện lên trước mắt người đọc vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn gợi lên cái phần thiêng liêng của cảnh vật.

– Đọc đoạn thơ này, ta như lạc vào thế giới của cải đẹp, thế giới của cõi mơ, của âm nhạc. Bốn câu thơ đầu ngân nga như tiếng hát, như nhạc điệu cất lên tự tân hồn ngây ngất, say mê của những người lính Tây Tiến. Hơn ở đâu hết, trong đoạn thơ này, chất thơ và chất nhạc hoà quyện với nhau đến mức khó mà tách biệt. Với ý nghĩa đó, Xuân Diệu có lí khi cho rằng đọc bài thơ Tây Tiến, ta có cảm tưởng như ngậm âm nhạc trong miệng.

5. Hình tượng người lính Tây Tiến.

– Trên cái nên hùng vĩ, hiểm trở, dữ dội của núi rừng (ở đoạn một) và duyên dáng, thơ mộng, mĩ lệ của miền Tây (ở đoạn hai), đến đoạn thơ thứ ba, hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến xuất hiện vời một vẽ đẹp đầy chất bi tráng:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xành màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

– Quang Dũng đã chọn lọc, đã tinh lọc những nét tiêu biểu nhất của những người lính Tây Tiến để tạc nên bức tượng đài tập thể khái quát được gương mặt chung của cả đoàn quân. Cái bi và cái hùng là hai chất liệu chủ yếu của bức tượng đài, chúng hoà quyện, xâm nhập vào nhau, nương tựa, nâng đỡ nhau tạo nên vẻ đẹp bí tráng – thần thái chung của cả bức tượng đài.

– Thơ ca thời kì kháng chiến khi viết về người lính thường nói đến căn bệnh sốt rét hiểm nghèo. Chính Hữu trong bài Đồng chí đã trực tiếp miêu tả căn bệnh ấy: Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh / Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi. Còn Tố Hữu, khi vẽ chân dung anh vệ quốc quân trong bài Cá nước với những hình ảnh thật cụ thể: “Giọt giọt mồ hôi rơi, – Trên má anh vàng nghệ” cũng không quên ảnh hưởng của thứ bệnh quái ác đó. Quang Dũng trong Tây Tiến không hề che giấu những gian khổ, khó khăn, những căn bệnh hiểm nghèo và sự hi sinh lớn lao cửa người lính. Chỉ có điều, tất cả những cái đó, qua ngòi bút của ông, không được miêu tả một cách trần trụi mà qua một cái nhìn đậm màu sắc lãng mạn. Những cái đầu không mọc tóc của những người lính Tây Tiến đâu phải là hình ảnh ly kì, giật gân, sản phẩm của trí tưởng tượng xa rời thực tế của nhà thơ mà chứa dựng một sự thực nghiệt ngã. Những người lính Tây Tiến, người thì cạo trọc đầu để thuận tiện khi đánh nhau giáp lá cả với địch, người thì bị sốt rét đến rụng tóc, trọc đầu. Cái vẻ xanh xao vì đói khát, vì sốt rét của những người lính, qua cái nhìn của Quang Dũng vẫn toát lên về oai phong, dữ dằn của những còn hổ nơi rừng thiêng. Sự oai phong lẫn liệt ấy còn được thể hiện qua ánh mắt giận dữ (mắt trừng gửi mộng) của họ. Những người lính Tây Tiến, qua ngòi bút của Quang Dũng, không phải là những người khổng lồ không tim. Cái nhìn nhiều chiều của Quang Dũng đã giúp ông nhìn thấy xuyên qua cái vẻ oai hùng, dữ dằn bề ngoài của họ là những tâm hồn, những trái tim rạo rực, khát khao yêu đương (“Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”). Như vậy, trong khổ thơ này, Quang Dũng đã tạc nên bức tượng đài tập thể những người lính Tây Tiến không chỉ bằng những đường nét khắc hoạ dáng vẻ bên ngoài mà còn thể hiện được cả thế giới tâm hồn bên trong đầy mộng mơ của họ.

– Ngòi bút của Quang Dũng khi dựng lên hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến không hề nhấn chìm người đọc vào cái bi thương, bi luỵ. Cảm hứng của ông mỗi khi chìm vào bi thương lại được nâng đỡ bằng đôi cánh của hình tượng, của tinh thần lãng mạn. Chính vì vậy mà cái bi thương được gợi lên qua hình ảnh những nấm mồ chiến sĩ rải rác nơi rừng hoang biên giới lạnh lẽo, xa xôi, một mặt, đã được giảm nhẹ đi nhiều nhờ những từ Hán Việt cổ kính; trang trọng: “Rải rác bên cương mồ viễn xứ”; mặt khác, chính cái bi thương ấy cũng lại bị mờ đi trước lí tưởng quên mình, xả thân vì Tổ quốc của những người lính Tây Tiến (“Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”). Họ có vẻ tiều tuỵ, tàn tạ trong hình hài nhưng lại chói ngời vẻ đẹp lí tưởng, mang dáng dấp của những tráng sĩ thuở xưa, coi cái chết nhẹ như lông hồng. Sự thật bi thảm: những người lính Tây Tiến gục ngã bên đường không có đến cả manh chiếu để che thân, qua cái nhìn của Quang Dũng, lại được bọc trong những tấm áo bào sang trọng. Cái bi thương ấy vợi đi nhờ cách nói giảm (anh về đất), và rồi bị át hẳn đi trong tiếng gầm thét dữ dội của dòng sông Mã:

Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành

– Trong âm hưởng vừa dữ dội, vừa hào hùng của thiên nhiên ấy, cái chết, sự hi sinh của người lính Tây Tiến không bi luỵ mà thấm đẫm tinh thần bi tráng.

– Giọng điệu chủ đạo của đoạn thơ thứ ba này trang trọng, thể hiện tình cảm đau thương vô hạn và sự trân trọng, kính cẩn của nhà thơ trước sự hi sinh của đồng đội.

6. Cảnh thiên nhiên con người miền Tây trữ tình, thơ mộng để lại trong tâm hồn thi sĩ kí ức khó phai

– Bài thơ khép lại bằng bốn câu thơ, một lần nữa, tô đậm thêm không khí chung của một thời Tây Tiến, tinh thần chung của những người lính Tây Tiến. Nhịp thơ chậm, giọng thơ buồn, nhưng linh hồn của đoạn thơ thì vẫn toát lên vẻ hào hùng:

Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thắm một chia phôi.
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.

– Người đi Châu Mộc chiều sương ấy là người lính Tây Tiến, họ như đang dẫn người đọc đến với thiên nhiên Tây Bắc hoang sơ, lặng tờ mang một sắc màu huyền thoại. Cảnh thơ mộng, trữ tình được nhà thơ diễn tả qua các chi tiết chiều sương giăng mắc mênh mang mờ ảo, dòng sông trôi lặng tờ đậm sắc màu cổ tích, dáng người mềm mại, uyển chuyển lướt trên con thuyền độc mộc, hoa đôi bờ đong đưa theo dòng thác lũ. Bút pháp chấm phá tinh tế: không gian sông nước rộng lớn, cảnh thì thưa thớt, thấp thoáng bóng người bóng hoa. Cảnh không vô tri vô giác mà trong gió trong cây như có linh hồn của vạn vật: Có thấy hồn lau nẻo bến bờ. Câu thơ gợi nhớ đến hình ảnh Lau mùa thu của Chế Lan Viên:

Ngàn lau cười trong nắng
Hồn của mùa thu về
Hồn mùa thu sắp đi
Ngàn lau xao xác trắng

Hay:

Hạnh phúc màu hoa huệ
Nhớ thương màu hoa lau
Biệt li màu rách xé
Lãng quên không có màu

– Hồn lau trong thơ Quang Dũng cũng là hồn lau của li biệt phảng phất chút buồn nhưng không xao xác, rách xé, lãng quên mà đầy nhớ nhung, lưu luyến. Nét bút của Quang Dũng đã nắm được mộng mơ của cảnh, cái hư ảo của hoài niệm và cái tinh tế của tình cảm nên đã phác hoạ lên bức tranh thuỷ mặc nhưng không tĩnh tại mà sống động, đậm chất thơ.

– Hình ảnh bóng dáng con người Tây Bắc hiện lên trong khung cảnh huyền ảo, mờ xa. Dáng người mềm mại, bé nhỏ nhưng lại cứng cỏi kiên cường khi song hành cùng độc mộc lướt đè lên dòng thác lũ. Hoa trên dòng thác lũ đong đưa tình tứ như níu giữ cái nhìn say mê của “Những người đi Châu Mộc chiều sương ấy”. Bóng người bóng hoa nhưng hoạ thêm vẻ đẹp cho nhau tạo ấn tượng giàu cảm xúc về cảnh và người miền Tây.

– Chất nhạc trong đoạn thơ ngân nga như tiếng hát cất lên từ tâm hồn ngất ngây, mê say, ãng mạn của cái tôi trữ tình giàu cảm xúc dẫn người đọc vào thế giới của cái đẹp, của cõi mơ, cõi nhạc. Bức tranh thiên nhiên Tây Bắc không chỉ đẹp ở sự hùng vĩ, dữ dội mà nó còn đẹp cả ở những nét mềm mại, mộng mơ khiến lòng người xao xuyến.

– Cái tinh thần “một đi không trở lại” (nhất khứ bất phục hoàn) thấm nhuần trong tư tưởng và tình cảm của cả, đoàn quân Tây Tiến. Tâm hồn, tình cảm của những người lính Tây Tiến vẫn gắn bó máu thịt vời những ngày, những nơi mà Tây Tiến đã đi qua. “Tây Tiến mùa xuân ấy” đã thành thời điểm một đi không trở lại. Lịch sử dân tộc sẽ không bao giờ lặp lại cái thời mơ mộng, lãng mạn, hào hùng đến nhường ấy trong một hoàn cảnh khó khăn, gian khổ, khốc liệt đến như vậy.

  • Kết bài:

– Tây Tiến là một trong những thi phẩm tiêu biểu nhất của đời thơ người con Xứ Đoài mây trắng lắm. Bài thơ ra đời từ những cảm nghĩ, kỉ niệm xúc động của Quang Dũng về vùng đất miền Tây và đoàn quân Tây Tiến sau một thời gian xa cách. Tác phẩm là bức họa bằng ngôn từ về bức tranh thiên nhiên, cuộc sống miền Tây hùng vĩ, dữ dội mà mĩ lệ nên thơ. Đó là nền để nhà thơ khắc họa tượng đài nghệ thuật bi tráng về đoàn quân Tây Tiến trong sự hài hòa về vẻ đẹp vừa thật hào hùng, vừa rất đỗi hào hoa. Tác phẩm xứng đáng được đặt vào vị trí là một trong những sáng tác tiêu biểu nhất của nền thơ ca kháng chiến chống Pháp, nói như giáo sư Phong Lê: Tây Tiến vẹn nguyên trở về với người đã sinh ra nó để nhận lại vị trí của đứa con đầu lòng hào hoa và tráng kiện, không phải chỉ của ông (Quang Dũng) mà còn là của cả nền thơ ca kháng chiến, ở vị trí mở đầu.


Bài văn tham khảo: Cảm nhận bài thơ Tây Tiến

Cùng với các nhà thơ như nguyễn Đình thi,Hoàng trung Thông,Chính Hữu… Quang Dũng là những nhà thơ điển hình trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Pháp.Hơn một năm trường chinh với Tây Tiến ở một địa bàn rừng núi đầy gian lao thiếu thốn và bệnh tật hi sinh đã để lại trong lòng Quang Dũng những kỉ niệm sâu sắc.Một ngày cuối năm 1948 ngồi ở Phù Lưu Chanh nhớ về đơn vị cũ Quang Dũng đã viết bài thơ Tây Tiến. Dẫu được ra đời trong những ngày đầu non nớt của lên thơ kháng chiến và cách mạng Tây Tiến vẫn trở thành tác phẩm tuyệt diệu kinh điển và tiêu biểu cho nền thơ ca kháng chiến chống Pháp. Một trong những yếu tố đưa tác phẩm lên tới đỉnh cao và giúp nó trường tồn tại mãi tới hôm nay đó là vẻ đẹp ngôn ngữ không thể phủ nhận mà nhà thơ đã khéo léo sử dụng.

Đối với một tác phẩm văn học ngôn ngữ chính là chất liệu,là phương tiện tiêu biểu mang tính đặc trưng. Với một dung lượng ngôn ngữ hạn chế nhất trong các loại tác phẩm văn học có thể nói từ ngữ trong tác phẩm thơ ca được sử dụng hết sức tiết kiệm được đúc lại như huân chương như một nhà thơ từng nói “những chưa xơ xác nhất mà chúng ta nói đến cạn cùng, đã mất sạch tính chất hình tượng đối với chúng ta những thứ ấy trong thơ ca lại sáng lấp lánh lại kêu giòn và tỏa hương”. Hiểu được tầm quan trọng của việc lựa chọn sử dụng ngôn ngữ khi sáng tác, Quang Dũng đã có được những thành công nhất định khi thể hiện tiếng nói của tình cảm của trái tim.

Ngôn ngữ của bài thơ Tây Tiến là ngôn ngữ mang vẻ đẹp của màu sắc cổ điển và lãng mạn.Quang Dũng chịu ảnh hưởng sâu đậm nhạc điệu của thơ cổ điển.Có thể nói thơ Quang Dũng hiện thực là hiện thực kháng chiến được phô diễn bằng một tâm hồn lãng mạn và âm điệu cỏ điển.

Qua hai câu thơ đầu ta có thể bắt được cái hồn ấy trong thơ Quang Dũng:

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi

Âm điệu của câu thơ thất ngôn như lời thơ Lí Bạch.Tình cảm dạt dào như các nhà thơ lãng mạn thời thơ mới. Nỗi nhớ dâng trào như nỗi nhớ của các nhà thơ lãng mạn ta chợt nhớ câu thơ của Xuân Diệu: Tương tư nâng lòng lên chơi vơi. Còn đối với Quang Dũng thì: Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi. Có điều là một đằng thì nhớ người yêu, một đằng thì nhớ những kỉ niệm kháng chiến.Ta lại thấy một ông Lí Bạch trong thơ Quang Dũng chất cổ điển tô đậm cái phi thường cho câu thơ: Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống. Ta cũng lại nghe âm điệu của Tản Đà trong giai điệu buông thả,mê li của Quang Dũng: Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.

Chất cổ điển trong ngôn ngữ trong thơ Quang Dũng còn thể hiện ở cách nhà thơ sử dụng từ Hán Việt độc đáo tạo sức hấp dẫn cho câu thơ: Rải rác biên cương mồ viễn xứ. Câu thơ chỉ có từ “rải rác” là thuần Việt còn là từ Hán việt cổ kính gợi không khí thiêng liêng đượm chút ngậm ngùi.Chính sự lựa chọn ngôn ngữ hợp lý đã khiến cho câu thơ của Quang Dũng không phải là tiếng nói bi lụy mà là hình ảnh hy sinh cao quý của những người linh Tây Tiến trong không khí bi tráng.

Đan cài với ngôn ngữ cổ điển vẻ đẹp bút pháp lãng mạn cứ đậm dần lên trong nỗi nhớ của Quang Dũng khi hoài niệm về đơn vị cũ của mình.Những địa danh miền sơn cước như Sài Khao, Mường Lát gợi biết bao nhiêu cảm xúc lạ.Hai tiếng Mường Hịch quả là có một cái gì đó hung dữ bí ẩn và Mai Châu thanh nhẹ như đã ủ sẵn một loài hương.Những “sương” hoa từng hiện lên với thi nhân,với tình yêu thì nay hiện diện với đoàn quân gian khổ,mệt mỏi đấy nhưng không thiếu những phút giây lãng mạn. Tưởng chừng như thiên nhiên ban thưởng cho người lính một chút hương hoa để có sức mạnh mà vượt đèo,leo dốc,chiến đấu đến hơi thở cuối cùng.

Sài khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi

Vẻ đẹp lãng mạn của ngôn ngữ thở hiện ở nốt trầm sâu lắng của bản hòa tấu sau hàng loạt những âm thanh dữ dội.Nhà thơ trở về với những kỉ niệm của con người và bản làng thân thương.

Những câu thơ tiếp theo là một bức tranh lạ được tạo nên bởi các nét ngôn ngữ lãng mạn:

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa,
Kìa em xiêm áo tự bao giờ.
Khèn lên man điệu nàng e ấp,
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ.

Bút pháp lãng mạn của quang Dũng là được dịp miêu tả những nét lạ: y phục lạ,âm điệu lạ,dáng vẻ lạ… quả là một đêm liên hoan lạ lùng giữa núi rừng biên cương những từ ngữ mà Quang Dũng sử dụng vừa cho thấy nét lạ ấy vừa gợi chất lãng mạn thi vị của đêm hội đuốc hoa.

Người lính Tây Tiến lại hướng tình cảm tâm hưởng của mình về về Hà Nội,quê hương thân yêu của hầu hết binh đoàn Tây Tiến: Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm. Câu thơ lãng mạn làm sao những chàng trai Hà Nội chưa trắng nợ anh hùng ra đi chinh chiến làm sao không mang theo hành trang của hình bóng một dáng kiều thơm nào đó hoặc hình bóng người thân yêu.Một chút lãng mạn như vậy đủ nuôi dưỡng tinh thần người lính tây tiến trong hoàn cảnh chiến đấu gian khổ và hi sinh. Bên cạnh vẻ đẹp ngôn ngữ đậm sắc màu cổ điển và lãng mạn ngôn ngữ thơ Quang Dũng còn thể hiện vẻ đẹp qua cách sử dụng những từ ngữ độc đáo, những âm thanh hùng tráng những biện pháp tu từ giàu màu biểu cảm.

Khổ thơ tiếp theo Quang Dũng miêu tả đến những đồng chí trong đoàn quân Tây Tiến ấy:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Tất cả những nét ngoại hình ấy cho ta thấy được những gian nan vất vả mà người Tây Tiến phải trải qua. Không mọc tóc la do điều kiện chiến tranh rừng thiêng nước độc làm cho các chiến sĩ rụng hết tóc hay là do chính các chiến sĩ cạo trọc đi để tiện cho chiến đâu. Quân xanh kia là màu áo, màu ba lô con cóc mũ tai bèo hay là sự xanh xao do thiếu thốn. Tóm lại dù hiểu theo cách nào thì nhà thơ cũng muốn người đọc thấy được đoàn quân Tây Tiến tuy ốm nhưng không yếu vẫn dữ như chúa tể của muôn loài. Hình ảnh mắt trừng như thể hiện được những cái tức giận của các chiến sĩ với kẻ thù mong muốn biên giới sạch bóng quân thù. Hay hình ảnh mắt trừng ấy cũng là không ngủ được khi mơ về những dáng kiều thơm của Hà Thành. Câu thơ ấy được coi là mộng rớt buồn rơi, vì thế mà có thời Tây Tiến đã bị cấm nhưng về sau chính giá trị của nó đã làm nên sức sống đến ngày hôm nay.

Trong trận chiến ác liệt ấy không biết bao nhiêu người chiến sĩ Tây Tiến đã hi sinh, nhưng họ sống đã đẹp chết đi cũng tác vào lịch sử những nét đẹp về bức tượng đài bất hủ:

Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu, anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành

Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.

Họ hi sinh nhưng không được chôn cắt đàng hoàng bởi chiến tranh người chết như ngả dạ. Chính vì thế mà rải rác biên cương là những nấm mộ tuềnh toàng sơ sài khắp nơi. Thế nhưng họ đã quyết chí lên đường thì không hề tiếc thời trai trẻ. Họ sống có lý tưởng vững chắc. Và khi họ mất đi một mảnh chiếu che người cũng trở thành áo bào để anh về với cát bụi. Con sông mã gầm lên như thể hiện nỗi tiếc thương những người chiến sĩ ấy. Có thể nói nhà thơ đã sử dụng những từ hán việt làm sự hi sinh của người lính Tây Tiến trở nên trang trọng hơn. Và thành công của Quang Dũng là đã xây dựng lên bức tượng đài bất hủ của người lính bằng thơ. Và giờ đây khi lên Tây bắc thì hồn về Sầm Nứa nơi có những kỉ niệm những đồng đội chứ không về xuôi.

Như vậy qua đây ta thấy Quang Dũng đã bày nỏ lòng nhớ nhung vô hạn đến đơn vị cũ của mình. Tây Tiến cái tên ấy sẽ chẳng bao giờ bị lu mờ bởi thời gian mà nó cứ mãi sáng chói bất hủ trong lòng mỗi con người. Những lí tưởng, những hi sinh của họ sẽ luôn là công lao lớn cho dân tộc.

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.