Nhân vật giao tiếp – SGK Ngữ văn 12, tập 2

bai-hoc-nhan-vat-giao-tiep-sgk-ngu-van-12-tap-2

Nhân vật giao tiếp

1. Đọc đoạn trích sau và phân tích theo các câu hỏi nêu ở dưới.

Một lần hắn đang gò lưng kéo cái xe bò thóc vào dốc tỉnh, hắn hò một câu chơi cho đỡ nhọc. Hắn hò rằng:

Muốn ăn cơm trắng mấy giò này!
Lại đây mà đẩy xe bò với anh, nì!

Chủ tâm hắn cũng chẳng có ý chòng ghẹo cô nào, nhưng mấy cô gái lại cứ đẩy vai cô ả này ra với hắn, cười như nắc nẻ:

– Kìa anh ấy gọi! Có muốn ăn cơm trắng mấy giò thì ra đẩy xe bò với anh ấy!

Thị cong cớn:

– Có khối cơm trắng mấy giò đấy! Này, nhà tôi ơi, nói thật hay nói khoác đấy?

Tràng ngoái cổ lại vuốt mồ hôi trên mặt cười:

– Thật đấy, có đẩy thì ra mau lên!

Thị vùng đứng dậy, ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng.

– Đã thật thì đẩy chứ sợ gì, đằng ấy nhỉ. – Thị liếc mắt, cười tít.

(Kim Lân, Vợ nhặt)

Câu hỏi:

a) Trong hoạt động giao tiếp trên, các nhân vật giao tiếp có đặc điểm như thế nào về lứa tuổi, giới tính, tầng lớp xã hội?
b) Các nhân vật giao tiếp chuyển đổi vai người nói, vai người nghe và luân phiên lượt lời ra sao? Lượt lời đầu tiên của nhân vật “thị” hướng tới ai?
c) Các nhân vật giao tiếp trên có bình đẳng về vị thế xã hội không?
d) Họ có quan hệ xa lạ hay thân tình khi bắt đầu cuộc giao tiếp?
e) Những đặc điểm về vị thế xã hội, quan hệ thân sơ, lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp,… chi phối lời nói của các nhân vật như thế nào? (Chú ý cách xưng hô, cách nói năng và những điệu bộ, cử chỉ phụ trợ cho lời nói của các nhân vật.)

2. Đọc đoạn trích sau và phân tích theo các câu hỏi nêu ở dưới.

Thoáng nhìn qua, cụ đã hiểu cơ sự rồi. Làm lí trưởng rồi chánh tổng, bây giờ lại đến lượt con cụ làm lí trưởng, những việc như thế này cụ không lạ gì. Cụ hãy quát mấy bà vợ đang xưng xỉa chực tâng công với chồng:

– Các bà đi vào nhà; đàn bà chỉ lôi thôi, biết gì!

Rồi quay lại bọn người làng, cụ dịu giọng hơn một chút:

– Cả các ông, các bà nữa, về đi thôi chứ! Có gì mà xúm lại như thế này?

Không ai nói gì, người ta lảng dần đi. Vì nể cụ bá cũng có, nhưng vì nghĩ đến sự yên ổn của mình cũng có: người nhà quê vốn ghét lôi thôi. Ai dại gì mà đứng ỳ ra đấy, có làm sao họ triệu mình đi làm chứng. Sau còn trơ lại Chí Phèo và cha con cụ bá. Bây giờ cụ mới lại gần hắn khẽ lay mà gọi:

– Anh Chí ơi! Sao anh lại làm ra thế?

Chí Phèo lim dim mắt, rên lên:

– Tao chỉ liều chết với bố con nhà mày đấy thôi. Nhưng tao mà chết thì có thằng sạt nghiệp, mà còn rũ tù chưa biết chừng.

Cụ bá cười nhạt, nhưng tiếng cười giòn giã lắm; người ta bảo cụ hơn người cũng bởi cái cười:

– Cái anh này nói mới hay! Ai làm gì anh mà anh phải chết? Đời người chứ có phải con ngoé đâu? Lại say rồi phải không?

Rồi, đổi giọng cụ thân mật hỏi:

– Về bao giờ thế? Sao không vào tôi chơi? Đi vào nhà uống nước.

Thấy Chí Phèo không nhúc nhích, cụ tiếp luôn:

– Nào đứng lên đi. Cứ vào đây uống nước đã. Có cái gì, ta nói chuyện tử tế với nhau. Cần gì mà phải làm thanh động lên như thế, người ngoài biết, mang tiếng cả.

Rồi vừa xốc Chí Phèo, cụ vừa phàn nàn:

– Khổ quá, giá có tôi ở nhà thì có đâu đến nỗi. Ta nói chuyện với nhau, thế nào cũng xong. Người lớn cả, chỉ một câu chuyện với nhau là đủ. Chỉ tại thằng lí Cường nóng tính, không nghĩ trước nghĩ sau. Ai chứ anh với nó còn có họ kia đấy.

Chí Phèo chả biết họ hàng ra làm sao, nhưng cũng thấy lòng nguôi nguôi. Hắn cố làm ra vẻ nặng nề, ngồi lên. Cụ bá biết rằng mình đã thắng, đưa mắt nháy con một cái, quát:

– Lí Cường đâu! Tội mày đáng chết. Không bảo người nhà đun nước, mau lên!

(Nam Cao, Chí Phèo)

Câu hỏi:

a) Trong đoạn trích trên có những nhân vật giao tiếp nào? Trường hợp nào bá Kiến nói với một người nghe, trường hợp nào nói với nhiều người nghe?
b) Vị thế của bá Kiến so với từng người nghe như thế nào? Điều đó chi phối cách nói và lời nói của bá Kiến ra sao?
c) Đối với Chí Phèo, bá Kiến đã thực hiện một chiến lược giao tiếp như thế nào? Hãy phân tích cụ thể chiến lược đó theo các bước sau đây:
(1) Bá Kiến tìm cách đuổi hết mọi người về, chỉ đối thoại với riêng Chí Phèo. (Đuổi như thế nào và đuổi để làm gì?)
(2) Bá Kiến “hạ nhiệt” cơn tức giận của Chí Phèo bằng cả hành động và lời nói. (Chú ý cách nói, từ xưng hô, nội dung lời nói.)
(3) Bá Kiến nâng vị thế của Chí Phèo lên ngang hàng với mình (chú ý từ xưng hô, cách nói trống, cách dùng ngôi gộp) và nhận Chí Phèo là có họ hàng.
(4) Bá Kiến kết tội lí Cường và yêu cầu lí Cường phải tiếp đón Chí Phèo. (Kết tội như thế nào? Mục đích của việc làm này là gì?)
d) Với chiến lược giao tiếp như trên, bá Kiến có đạt được mục đích và hiệu quả giao tiếp không? Những người nghe trong cuộc hội thoại với bá Kiến có phản ứng như thế nào khi nghe những lời nói của bá Kiến?

GHI NHỚ:

– Trong hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ, các nhân vật giao tiếp xuất hiện trong vai người nói (người viết), hoặc vai người nghe (người đọc); ở giao tiếp dạng nói, các nhân vật giao tiếp thường đổi vai và luân phiên lượt lời với nhau.
– Các nhân vật giao tiếp có thể có vị thế ngang hàng hoặc cách biệt, có thể xa lạ hay có quan hệ thân tình. Những đặc điểm đó cùng với những đặc điểm riêng biệt khác của từng người (lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp, vốn sống, văn hoá,…) luôn luôn chi phối lời nói của họ về nội dung và hình thức ngôn ngữ.
– Để đạt được mục đích và hiệu quả giao tiếp, mỗi nhân vật giao tiếp tuỳ thuộc vào ngữ cảnh mà lựa chọn và thực hiện một chiến lược giao tiếp phù hợp (bao gồm việc lựa chọn đề tài, nội dung, phương tiện ngôn ngữ, cách thức, thứ tự nói hoặc viết,…).

LUYỆN TẬP

1. Phân tích sự chi phối của vị thế xã hội ở các nhân vật đối với lời nói của họ trong đoạn trích sau:

Anh Mịch nhăn nhó, nói:

– Lạy ông, ông làm phúc tha cho con, mai con phải đi làm trừ nợ cho ông nghị, kẻo ông ấy đánh chết.

Ông lí cau mặt, lắc đầu, giơ roi song to bằng ngón chân cái lên trời, dậm doạ:

– Kệ mày, theo lệnh quan, tao chiếu sổ đinh, thì lần này đến lượt mày rồi.

– Cắn cỏ con lạy ông trăm nghìn mớ lạy, ông mà bắt con đi thì ông nghị ghét con, cả nhà con khổ.

– Thì mày hẹn làm ngày khác với ông ấy, không được à?

– Đối với ông nghị, con là chỗ đầy tớ, con sợ lắm. Con không dám nói sai lời, vì là chỗ con nhờ vả quanh năm. Nếu không, vợ con con chết đói.

– Chết đói hay chết no, tao đây không biết, nhưng giấy quan đã sức, tao cứ phép tao làm. Đứa nào không tuân, để quan gắt, tao trình thì rũ tù.

– Lạy ông, ông thương phận nào con nhờ phận ấy.

– Mặc kệ chúng bay, tao thương chúng bay, nhưng ai thương tao. Hôm ấy mày mà không đi, tao sai tuần đến gô cổ lại, đừng kêu.

(Nguyễn Công Hoan, Tinh thần thể dục)

2. Phân tích mối quan hệ giữa đặc điểm về vị thế xã hội, nghề nghiệp, giới tính, văn hoá,… của các nhân vật giao tiếp với đặc điểm trong lời nói của từng người ở đoạn trích sau:

Bỗng dưng tất cả dừng lại, dưới cây đũa thần, hay đúng hơn dưới ngọn roi gân bò mà viên đội sếp Tây vừa vung lên vừa quát tháo: “Cái giống tởm nhà mày! Có cút đi không, cái giống tởm!” Thế là cái đám đông lúc nhúc đứng sắp hàng, vừa yên lại vừa lặng, hai bên lề đường. Gì thế nhỉ? Xe ô tô quan Toàn quyền sắp đi qua đấy… Xe kia rồi! Lại cả ông Toàn quyền đây rồi!

– Quan có cái mũ hai sừng trên chóp sọ! – Một chú bé con thầm thì.

– Ồ! Cái áo dài đẹp chửa! – Một chị con gái thốt ra.

– Ngài sắp diễn thuyết đấy! – Một anh sinh viên kêu lên.

– Đôi bắp chân ngài bọc ủng! – Một bác cu-li xe thở dài.

– Rậm râu, sâu mắt! – Một nhà nho lẩm bẩm.

Thế là ô tô ông Va-ren chạy qua giữa hai hàng rào con người, lưng khom lại khi ngài đến gần.

(Nguyễn Ái Quốc, Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu)

3. Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi nêu ở dưới.

Bà lão láng giềng lại lật đật chạy sang:

– Bác trai đã khá rồi chứ?

– Cảm ơn cụ, nhà cháu đã tỉnh táo như thường. Nhưng xem ý hãy còn lề bề lệt bệt chừng như vẫn mỏi mệt lắm.

– Này, bảo bác ấy có trốn đi đâu thì trốn. Chứ cứ nằm đấy, chốc nữa họ vào thúc sưu, không có, họ lại đánh trói thì khổ. Người ốm rề rề như thế, nếu lại phải một trận đòn, nuôi mấy tháng cho hoàn hồn.

– Vâng, cháu cũng đã nghĩ như cụ. Nhưng để cháo nguội, cháu cho nhà cháu ăn lấy vài húp cái đã. Nhịn suông từ sáng hôm qua tới giờ còn gì.

– Thế thì phải giục anh ấy ăn mau đi, kẻo nữa người ta sắp sửa kéo vào rồi đấy!

Rồi bà lão lật đật trở về với vẻ mặt băn khoăn.

(Ngô Tất Tố, Tắt đèn)

Câu hỏi:

a) Bà lão hàng xóm và chị Dậu có vị thế và có quan hệ với nhau như thế nào? Điều đó chi phối lời nói và cách nói của hai người đối với nhau ra sao? (Chú ý các từ xưng hô, từ gọi đáp và nội dung lời nói của hai nhân vật,…)
b) Phân tích sự tương tác về hành động nói giữa lượt lời của hai nhân vật giao tiếp trong đoạn trích.
Mẫu: hỏi thăm – cảm ơn.
c) Lời nói và cách nói của các nhân vật cho thấy tính cách và cách ứng xử của hai người có những nét văn hoá đáng trân trọng như thế nào?


* Soạn bài:

Nhân vật giao tiếp

Câu 1:

a. Hoạt động giao tiếp trên có những nhân vật giao tiếp là: Tràng, mấy cô gái và “thị”. Những nhân vật đó có đặc điểm:

– Về lứa tuổi: Họ đều là những người trẻ tuổi.

– Về giới tính: Tràng là nam, còn lại là nữ.

– Về tầng lớp xã hội: Họ đều là những người dân lao động nghèo đói.

Các nhân vật giao tiếp chuyển đổi vai người nói, vai người nghe và luân phiên lượt lời như sau:

Lần nói Người nói Người nghe
Lần 1 Tràng Mấy cô gái
Lần 2 Mấy cô gái Tràng, Thị
Lần 3 Thị Tràng, mấy cô gái
Lần 4 Tràng Thị
Cuối cùng Thị Tràng

– Lượt lời đầu tiên của “thị” là hướng tới Tràng.

c. Các nhân vật giao tiếp đều bình đẳng về vị thế xã hội.

d. Lúc đầu quan hệ còn xa lạ nhưng sau đó họ nhanh chóng trở nên thân tình vì cùng lứa tuổi, cùng vị thế xã hội.

e. Những đặc điểm đó chi phối lời nói của các nhân vật giao tiếp.

– Ban đầu: chưa quen => trêu đùa, thăm dò

– Quen rồi: mạnh dạn hơn.

– Cùng lứa tuổi, cảnh ngộ => sau đó giao tiếp rất suồng sã.

Câu 2:

a. Trong đoạn trích trên có những nhân vật giao tiếp là:

– Bá Kiến

– Mấy bà vợ Bá Kiến

– Bọn người làng

– Chí Phèo

– Lí Cường

Bá Kiến nói với một người nghe là: Chí Phèo, Lí Cường; nói với nhiều người nghe là: mấy bà vợ, dân làng.

b. Vị thế của Bá Kiến:

– Với mấy bà vợ: BK là chồng => quát đuổi về

– Với dân làng: là cụ lớn, thuộc tầng lớp trên => nói có vẻ tôn trọng, giọng cũng dịu lại (thực chất là đuổi khéo)

– Với Lí Cường: là cha => quát đuổi con, thực chất để xoa dịu Chí Phèo.

– Với Chí Phèo: vừa là chủ cũ vừa là người đẩy Chí Phèo vào tù => vừa thăm dò, vừa dỗ dành.

c. Sau khi ở tù về, Chí Phèo đến nhà Bá Kiến với ý định trả thù. Bá Kiến đi vắng nên xảy ra xô xát với Lí Cường, vừa lúc đó thì Bá Kiến về. Nhìn qua một lượt, Bá Kiến hiểu rõ cơ sự liền tung ta chiến lược đẹp yên sự vụ có thể gieo tai hoạ lên gia đình hắn. Trong những lời thoại trên Bá Kiến sắp xếp lần lượt các lời thoại để tấn công hạ gục Chí Phèo.

– Bá Kiến tìm cách đuổi hết mọi người vừa để tránh to chuyện vừa cô lập Chí Phèo. Chí Phèo cảm thấy đơn độc, nhuệ khí tan dần theo hơi rượu.

– Bá Kiến đã vuốt giận Chí Phèo bằng lời lẽ ngọt ngào và cách xưng hô tâng bốc: Anh Chí ơi! Rồi thân mật: cái anh này, tiếp đến là cách xưng hô như người trong nhà với ngôi thứ nhất số nhiều: ta (để phân biệt với người ngoài). Bên cạnh cách xưng hô là những lời nói nhẹ nhàng, khích lệ, động viên và hành động như người quen thân lâu ngày mới gặp.

– Để Chí Phèo không xem là đối địch, Bá Kiến đã nhận Chí Phèo là người nhà, là họ hàng. Cách nâng vị thế giao tiếp làm cho Chí Phèo hãnh diện vì được ngang hàng với gia đình danh giá nhất làng, chắng mấy chốc hắn quên mất ý định ban đầu.

– Đòn cuối cùng Bá Kiến mắng Lí Cường với giọng đắc thắng là để tôn Chí Phèo và Bá Kiến đã được mục đích dập tắt ngọn lửa căm thù trong lòng Chí Phèo, bóp chết ý định trả thù của Chí trong trứng nước.

d. Bá Kiến đạt được mục đích và hiệu quả giao tiếp:

– Những người nghe trong cuộc hội thoại đều răm rắp nghe lời Bá Kiến.

– Chí Phèo hung hãn khi đến nhưng cuối cùng cũng bị khuất phục, thấy lòng nguôi nguôi…

Luyện tập

Câu 1: Hai nhân vật giao tiếp là anh Mịch, một người nông dân là lí trưởng, kẻ chức sắc có quyền thế trong làng.

Anh Mịch Ông Lí
Vị thế xã hội Kẻ dưới- nạn nhân bị bắt đi xem đá bóng. Bề trên- thừa lệnh quan bắt người đi xem đá bóng.
 

Lời nói

Van xin, nhún nhường (gọi ông, lạy…) Hách dịch, quát nạt (xưng hô mày tao, quát, câu lệnh…)

Câu 2:

– Viên đội sếp Tây: vị thế xã hội là người có quyền thế, nghề nghiệp cảnh sát, giới tính là nam, văn hoá kém cỏi vì lời thoại vừa hống hách vừa có thái độ phân biệt chủng tộc.

– Nhân vật đám đông: vị thế xã hội thấp, văn hoá cũng thấp nên lời thoại mang tình hiếu kì.

– Chú bé con còn ngây thơ nên chỉ chú ý chi tiết lạ mắt của viên Toàn quền và chỉ nhìn đối tượng ở bên ngoài.

– Chị con gái, tuổi hồn nhiên, thích làm đẹp nên chỉ quan tâm đến trang phục.

– Anh sinh viên là người có trình độ văn hoá, quan tâm đến hoạt động xã hội và chính trị nên nghĩ đến việc làm của viên Toàn quyền.

– Bác cu-li xe vất vả với nghề nghiệp của mình, văn hoá còn thấp nên nhìn đối tượng có liên quan đến chuyện miếng cơm manh áo của mình.

– Nhà nho học vấn uyên thâm nên có cái nhìn sâu sắc: nhìn bên ngoài có thể đánh giá bản chất bên trong của đối tượng.

Nhận xét chung: Lời thoại của nhân vật giao tiếp thường phản ánh trình độ học vấn, văn hoá, lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp của nhân vật đó.

Câu 3:

a. Quan hệ giữa bà lão hàng xóm và chị dậu là quan hệ hàng xóm láng giềng thân tình.

Điều đó chi phối lời nói và cách nói của 2 người – thân mật:

– Bà lão: bác trai, anh ấy,…

– Chị Dậu: cảm ơn, nhà cháu, cụ,…

b. Sự tương tác về hành động ngôn ngữ giữa các lượt lời:

– Hỏi thăm – cảm ơn

– Đề nghị – lĩnh hội

– Đề nghị – (đồng ý)

c. Đoạn hội thoại cho thấy cách ứng xử của hai nhân vật thân mật nhưng không suồng sã vì tình chất quan trọng của nội dung đề tài. Văn hoá ứng xử ấy rất đẹp, đáng trân trọng. Họ là những người nông dân giàu tình cảm và trách nhiệm.

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.