Phân tích truyện “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ (dưới góc độ thi pháp)
Quan niệm nghệ thuật về con người trong truyện Người con gái Nam Xương là một phương diện nổi bật, mang tính sáng tạo cao và tính nhân văn mới mẻ trên nền văn học trung đại Việt Nam. “Chuyện người con gái Nam Xương” là một trong các truyện thuộc tập truyện Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, viết về thân phận người phụ nữ trong xã hội chiến tranh, ly loạn. Nhân vật trung tâm của truyện là Vũ Thị Thiết, được xây dựng với một quan niệm thấm đẫm giá trị nhân văn. Điều đó được thể hiện trong cái nhìn, các điểm nhìn nghệ thuật của tác giả về nhân vật Vũ Nương, được thể hiện ở mấy điểm nhìn chính:
Một là, con người sống phải luôn gắn với những tiêu chí nhất định, trong đó, tiêu chí về hạnh phúc gia đình là quan trọng, cơ bản, nhất là trong cảnh xã hội loạn ly, chinh chiến giữa các tập đoàn phong kiến. Điều này được thể hiện rõ qua lời dạy của mẹ chồng Vũ Nương và tâm tình của chính Vũ Nương đối với Trương Sinh trước ngày chàng tòng quân. Mẹ Trương Sinh căn dặn chàng rằng: Nay con phải tạm ra tòng quân, xa lìa dưới gối. Tuy hội ngộ công danh từ xưa ít gặp, nhưng trong chỗ binh cách phải biết giữ mình làm trọng, gặp khó khăn nên lui, lường sức mà tiến, đừng nên tham miếng mồi thơm để lỡ mắc vào cạm bẫy. Quan cao tước lớn nhường để người ta. Có như thế, ở nhà mẹ mới khỏi lo lắng vì con được.
Thông điệp trong lời dặn dò, dạy bảo này của người mẹ đối với Trương Sinh nhấn mạnh đến việc bảo toàn, không ham danh vọng, không tranh đua giành quan cao tước lớn. Đó là quan niệm hợp lý trong gian đoạn chiến tranh lúc bấy giờ thể hiện sự thức thời, hợp đạo lý, coi trọng và đề cao con người hơn là những vinh hoa phú quý nhất thời, phù du. Ý nghĩa đó được Vũ Nương tiếp tục thể hiện trong sự bộc bạch tâm nguyện thiết tha và xa xót của nàng với Trương Sinh, rằng: Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi. Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường, giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì, khiến cho tiện thiếp băn khoăn, mẹ hiền lo lắng… Đây là một quan niệm về con người khá bổ biến trong giai đoạn lúc bấy giờ. Đặng Trần Côn cũng từng viết trong Chinh phụ ngâm:
Thuở trời đất nổi cơn gió bụi,
Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên.
Xanh kia thăm thẳm tầng trên,
Vì ai gây dựng cho nên nỗi này…
Nên nỗi này ở đây là nghịch cảnh buồn thương của người phụ nữ phải sống trong cô đơn, mòn mỏi, sầu khổ khi có chồng đi lính cho những cuộc chiến tranh phi nghĩa giữa các tập đoàn phong kiến lúc bấy giờ.
Hai là, quan niệm về người phụ nữ khi chồng ra trận phải có và giữ những phẩm chất quan trọng và cần thiết như hiếu thảo với cha mẹ chồng, giữ tròn đạo phu thê, chu toàn việc gia thất. Chính với quan niệm như thế nên tác giả khá chú trọng miêu tả phẩm hạnh, đạo đức của nhân vật Vũ Nương. Về tính nết và hình dung: Vũ Thị Thiết, người con gái quê ở Nam Xương, tính đã thùy mỵ, nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp. Về đạo đức, bổn phận làm dâu con thì hiếu thảo, thương kính, chu toàn: Bà mẹ cũng vì nhớ con mà dần sinh ốm. Nàng hết sức thuốc thang, lễ bái thần
Phật và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn (…). Bà cụ nói xong thì mất. Nàng hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ, lo liệu như đối với cha mẹ đẻ mình.
Ba là, con người cần phải có tự trọng, biết biện minh cho chính mình, và nếu cần thì chọn cái chết để bảo vệ thanh danh theo triết lý đạo đức và văn hóa thà chết vinh còn hơn sống nhục. Do vậy, khi bị Trương Sinh nghi ngờ về lòng chung thủy của mình, Vũ Nương đã nhẫn nhịn, giãi bày để khẳng định phẩm chất của mình: Thiếp vốn con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu. Sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa binh. Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa từng bén gót. Đâu có sự mất nết hư thân như lời chàng nói. Dám xin bày tỏ để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp.
Khi không được Trương Sinh hiểu ra, không được thông cảm và tôn trọng, lại còn bị chàng ruồng rẫy, mắng nhiếc, đánh đuổi, Vũ Nương nhận thức rõ tình huống bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió nên đã quyết định gieo mình xuống sông tự tử để lấy cái chết tự minh oan cho mình với ước nguyện thần sông sẽ minh chứng cho mình: Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm
mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ.
Bốn là, thiên truyện thể hiện quan niệm rằng, cõi trần không phải là tất cả, nghĩa là chết không phải là hết. Chính vì vậy, chặng tiếp theo về sự sinh tồn của Vũ Nương được diễn ra như lời nàng ước nguyện: Nàng được các tiên trong cung nước thương, cứu nàng thoát chết và nàng được sống trong thế giới biển Nam Hải. Hoặc như nhân vật Phan Lang đã chết nhưng nhờ vào phép nhiệm màu của lực lương siêu linh nên được sống lại và trở về cõi trần… Những tình tiết này là những minh chứng thể hiện quan niệm của dân gian mang màu sắc và đức tin khá
phổ biến.
Năm là, các chặng đời, giữa các môi trường sống của con người khác biệt nhau nhưng không tách biệt vì giữa chúng có mối liên hệ sâu sắc. Mối liên hệ đó được thể hiện qua các đặc điểm như: Thứ nhất, đó là liên hệ nhân quả: Vũ Nương là người tốt, trung trinh, nhưng bị hàm oan, bị xúc phạm và sỉ nhục, nên buộc phải quyên sinh thì được minh oan. Thứ hai, ngay cả khi đã ở một thế giới khác với cõi trần, con người vẫn còn những tâm trạng liên quan tới cõi trần thế: Vũ Nương vẫn luôn trong tâm trạng nhớ về cõi trần cùng những người thân yêu, tiền nhân. Chính vì thế khi nghe Phan Lang tâm sự về gia cảnh của nàng ở chốn trần gian thì nàng đã vô cùng xúc động, bộc lộ tình cảm y như người trần: Nghe đến đây, Vũ Nương ứa nước mắt khóc rồi quả quyết đổi giọng mà rằng: Có lẽ không thể gửi hình ẩn bóng ở đây được mãi, để mang tiếng xấu xa. Vả chăng ngựa Hồ gầm gió bắc, chim Việt đậu cành nam. Cảm vì nỗi ấy, tôi tất phải tìm về có ngày.
Như vậy, quan niệm nghệ thuật về con người trong thiên truyện này được thể hiện rõ qua mối liên hệ giữa nhiều điểm nhìn, nhưng chúng không tách biệt nhau mà có mối quan hệ mật thiết với nhau và tất cả đều hướng đích về chủ đề tư tưởng của truyện.
Thi pháp kết cấu và không gian, thời gian nghệ thuật được xây dựng khá độc đáo, hấp dẫn. Truyện có kết cấu hai mảng khá rõ. Mảng thứ nhất là miền hiện thực xã hội với cuộc sống mưu sinh, quan hệ gia đình, chiến tranh của con người trần thế. Trong đó, nhân vật bị chi phối và quyết định bởi tính chất, đặc điểm xã hội. Tất cả nguồn cơn bi kịch các số phận là do chiến tranh: Mẹ Trương Sinh buồn khổ vì con xa vắng nơi chiến trận, nên ốm đau và chết; Trương Sinh vì phải sống xa cách vợ một thời gian nên đâm ra nhỏ nhen, vị kỷ, ghen tuông mù quáng và đã gián tiếp gây ra cái chết của Vũ Nương, và cũng tự đẩy mình vào cảnh buồn đau, gà trống nuôi con; Vũ Nương vì chồng
chinh chiến nơi xa nên đã dùng lời bông đùa với con về bố bé Đản nên cuối cùng bị chồng nghi ngờ và xúc phạm, phải chọn cái chết để tự minh oan.
Mảng thứ hai là thế giới của thần tiên. Thế giới đó được miêu tả sang trọng và công minh với sức mạnh và sự nhiệm màu đặc biệt. Tuy nhiên, dụng ý của tác giả không nhằm miêu tả cốt đề cao thế giới siêu nhiên để phủ nhận thế giới con người, mà với dụng ý nghệ thuật như là tạo một lực tương hỗ, chất xúc tác để làm rõ nghịch lý của con người trong thế tục. Đồng thời, minh chứng rõ hơn triết lý dân gian ở hiền gặp lành theo luật nhân quả ở một phạm vi rộng lớn vượt ra ngoài biên giới của xã hội thế tục.
Theo cấu trúc đó, thiên truyện có hai mảng không gian chính là không gian trần thế, xã hội thế sự và không gian thần tiên, huyền diệu. Cái lõi xuyên suốt hai không gian vẫn là vấn đề thân phận, phẩm giá con người trần thế trong mục tiêu sáng tạo mà tác giả hướng đến. Không gian xã hội thế tục của truyện còn được cụ thể bằng một số địa danh khá tường minh như Nam Xương (nay thuộc huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam), và đền thờ Vũ Nương (xã Chân Lý, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam). Điều đó càng làm tăng độ tin cậy của người đọc về tính chân thực của câu chuyện. Thời gian nghệ thuật của truyện cũng trải đều cho hai mảng không gian trần thế và thần tiên.
Tóm lại, từ tình tiết lời nói thơ ngộ của bé Đản, dẫn đến Trương Sinh ngờ vực, ghen tuông, xúc phạm Vũ Nương – một người vợ xinh đẹp, hiền thảo, hiếu nghĩa – tạo nên cái chết oan đầy thương tâm của nàng, tác giả tạo nên một thế giới nghệ thuật độc đáo và đặc sắc, trong đó có nhiều vấn đề liên quan đến số phận con người, triết lý nhân sinh, quan niệm tôn giáo. Trong cách cảm, cái nhìn và chiều hướng phát triển cũng như kết thúc truyện, tinh thần nhân văn luôn bao hàm, thấm đẫm. Truyện thể hiện lòng thương yêu, trân quí con người bất hạnh, gián tiếp phê phán chiến tranh như là đầu mối của mọi nguyên nhân gây nên sự bi thảm của con người hiền lương.
Phân tích truyện ngắn “CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG” của Nguyễn Dữ.
- Mở bài:
NGUYỀN DỮ là một trong những nhân sĩ nổi bậc, sống ở thế kỷ XVI. Ông học rộng, tài cao nhưng chỉ làm quan có một năm rồi xin về ở ẩn, nuôi mẹ già và viết sách. Truyền kì mạn lục là tác phẩm xuất sắc của Nguyễn Dữ và của nền văn học trung đại Việt Nam. “Chuyện người con gái Nam Xương” là thiên truyện thứ 16 trong 20 thiên truyện của tập truyện này. Lấy sự tích từ một câu chuyện dân gian, tác phẩm thể hiện niềm cảm thương đối với số phận oan nghiệt của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến, đồng thời khẳng định vẻ đẹp truyền thống của họ. Tác phẩm là một áng văn hay, thành công về nghệ thuật dựng truyện, miêu tả nhân vật, kết hợp tự sự với trữ tình.
- Thân bài:
Truyện kể về một người phụ nữ tên là Vũ Thị Thiết ở huyện Nam Xương, tỉnh Hà Nam. Vũ Nương vốn là người con gái có tư dung tốt đẹp, tính tình thuỳ mị, nết na. Khi lấy chồng, nàng luôn giữ gìn khuôn phép, không để vợ chồng phải thất hoà dù Trương Sinh vốn có tính hay ghen. Khi chồng đi lính, Vũ Nương rót chén rượi đầy tiễn chồng. Lời của nàng thật xúc động, nói về niềm yêu thương, mong nhớ của mình đối với người chồng sẽ đi xa, rồi bày tỏ nỗi lo lắng trước những gian lao nguy hiểm mà người chồng sẽ trải qua, niềm mong ước được đoàn tụ … làm mọi người trong tiệc đều ứa hai hàng lệ.
Chồng đi đánh giặc ngoài biên ải, nàng một lòng son sắt, thuỷ chung, “cách biệt ba năm, giữ gìn một tiết”, mong đợi chồng về trong cô đơn mòn mỏi “mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể, chân trời không thể nào ngăn được”. Hơn nữa, nàng là một người con dâu hiếu kính, tận tuỵ chăm sóc khi mẹ chồng còn sống, chôn cất mẹ chồng khi mẹ qua đời (lo liệu như đối với mẹ đẻ mình).
Rồi đằng đẳng thời gian trôi qua, chồng ra lính trở về, cùng là lúc nàng bị nghi oan. Vũ Nương đã phân trần để chồng hiểu rõ tấm lòng mình: “Thiếp vốn con kẻ khó … mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp”. Nàng đã nói đến thân phận mình, tình nghĩa vợ chồng và khẳng định lòng chung thuỷ, hết lòng tìm cách hàn gắn hạnh phúc gia đình đang có nguy cơ bị tan vỡ. Dù họ hàng, làng xóm có bênh vực và biện bạch, Trương Sinh vẫn không tin. Bất đắc dĩ Vũ Nương thống thiết: “Thiếp sỡ dĩ nương tựa vào chàng … đâu có thể lên núi vọng phu kia nữa!”. Đó là hạnh phúc gia đình, niềm khao khát của cả đời nàng giờ đây tan vỡ.
Tuyệt vọng vì phải gành chịu nỗi oan khuất tày trời không phương giải bày, cứu chữa nàng đành mượn cái chết để chứng tỏ tiết hạnh trong sáng của mình. lời khấn nguyện với thần linh vô cùng thảm thiết: “Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Nga Mĩ. Nhựợc bằng lòng chim, dạ cá, lừa dối chồng con, được xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ …” lời khấn nguyện đã làm cho người đọc xót xa – con người rơi cảnh ngộ bế tắc, không thể tiếp tục sống để tự giải oan tình mà phải tìm đến cái chết để thần linh chứng dám.
Sau một năm ở thuỷ cung, khi nghe kể chuyện nhà, nàng đã ứa nước mắt khóc, nghĩ đến câu “ngựa Hồ gầm giá Bắc, chim Việt đậu cành Nam” rồi hiện về trên dòng nước cho thoả lòng nhớ chồng, con.
Qua những hoàn cảnh khác nhau của vũ Nương, với những lời tự thoại của nàng, truyện đã khẳng định những nét đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam – một người phụ nữ đẹp người, lại nết na, hiền thục, đảm đang, tháo vát, rất mực hiếu kính với mẹ chồng, giữ vẹn lòng chung thuỷ sắt son với chồng, hết lòng vun đắp hạnh phúc gia đình, …. lẽ ra phải được hạnh phúc trọn vẹn thế mà phải chết một cách oan uổng, đau đớn.
Cái chết của Vũ Nương có nhiều nguyên nhân sâu xa, bắt nguồn từ hiện thực nghiệt ngã của lễ giáo phong kiến của xã hội cũ, với chế độ “nam quyền”, coi rẻ thân phận của người phụ nữ, rồi tính đa nghi, ghen tuông của chồng, thói hung bạo, gia trưởng của chồng đã làm khổ đau bao cuộc đời những người phụ nữ.
Cuộc hôn nhân giữa Vũ Nương và Trương Sinh có phần không bình đẳng (thiếp vốn con nhà khó, được nương tựa nhà giàu). Xã hội phong kiến lại coi trọng “nam quyền”, hơn nữa Trương Linh lại có tính đa nghi, đối với vợ thì phòng ngừa quá mức. Những chi tiết này chuẩn bị cho những hành động độc đoán của Trương Sinh sau này.
Khi đánh giặc trở về, Trương Sinh cũng mang một tâm trạng nặng nề: mẹ qua đời, con vừa học nói, lòng buồn bã. Trong hoàn cảnh như thế, lời của Bé Đản dễ kích động tính hay ghen của Trương Sinh: “trước đây, thường có một người đàn ông đêm nào cũng đến…”
Điều đáng trách là thái độ và hành động độc đoán của Trương Sinh khi ấy. Không đủ bình tĩnh để tìm hiểu vấn đề, chàng bỏ ngoài tai những lời phân trần của vợ, những lời bênh vực của họ hàng, làng xóm, không chịu nói ra duyên cớ ghen hờn. Cuối cùng, Sinh lại mắng nhiếc nàng và đánh đuổi nàng đi. Thái độ và hành động của Trương Sinh vô hình dung dẫn đến cái chết oan nghiệt của Vũ Nương.
Hành động gieo mình xuống sông Hoàng Giang của Vũ Nương phản ánh một thực trạng về thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Họ bị buộc chặt trong khuôn khổ khắt khe của lễ giáo, bị đối xử bất công, bị áp bức và chịu nhiều khổ đau, bất hạnh. Đó cũng chính là giá trị tố cáo hiện thực của tác phẩm. Đằng sau nỗi oan của người thiếu phụ Nam xương, còn bao nhiêu oan tình bất hạnh mà người phụ nữ ngày xưa phải gánh chịu: Nàng Kiều trong “Truyện Kiề”u của Nguyễn Du, người cung nữ trong “cung oán ngâm khúc” của Nguyễn Gia Thiều, người phụ nữ lỡ duyên tình trong thơ Hồ Xuân Hương, …
Phải nhận thấy rõ rằng với truyện ngắn đầu tiên viết bằng chữ Hán, Nguyễn Dữ đã có những mặt thành công trong nghệ thuật xây dựng truyện, xây dựng những đoạn đối thoại. Cách kể chuyện hấp dẫn, xây dựng tình tiết, thắt nút và gỡ nút thật bất ngờ, đầy kịch tính, càng làm cho nỗi oan tình của nhân vật hiện ra với tất cả nét thảm khốc. tác giả “thắt nút” truyện bằng yếu tố bất ngờ: Một câu nói ngây thơ nghe như thật của trẻ thơ mà gây bão tố dây chuyền trong cuộc đời. Bão tố nghi kị trong một đầu óc nam quyền độc đoán, thiếu trí tuệ ; bão tố bất hoà dữ dội phá tan hạnh phúc của một gia đình êm ấm. Bão tố oan khiên phá nát cuộc đời của một người con gái trong trắng, phải kết thúc bi thảm trêm một dòng sông. Tác giả “gỡ nút” cũng bất ngờ bằng một câu nói trẻ thơ non dại (khi chỉ cái bóng của chàng Trương trên vách: “cha Đản lại đến kia kìa” thì bao nhiêu oan khiên gây thảm kịch trong phút chốc bỗng được sáng tỏ.
Truyện có những đoạn đối thoại và những lời tâm tình của nhân vật được sắp xếp đúng chỗ, làm cho câu chuyện trở nên sinh động, góp phần khắc hoạ diễn biến tâm lí và tính cách nhân vật ; lời nói của bà mẹ Trương Sinh nhân hậu, từng trải ; lời lẽ của Vũ Nương bao giờ cũng chân thành, dịu dàng, mềm mỏng, có lí, có tình – lời của người phụ nữ hiền thục, đoan chính ; lời của Bé Đản hồn nhiên, ngây thơ, thật thà.
Chuyện đáng lẽ có thể kết thúc ở đoạn chàng Trương Sinh tỉnh ngộ, thấu hiểu nỗi oan của Vũ Nương nhưng Nguyễn Dữ đã thêm phần Vũ Nương trở về dương thế, gặp chồng trong thoáng chốc. So với truyện cổ tích “Vợ chàng Trương”, Nguyễn Dữ đã tái tạo truyền kì từ cổ tích để nâng truyện lên những giá trị tư tưởng và thẩm mĩ mới. Điều đó, làm tăng thêm sức hấp dẫn của truyện và hoàn chỉnh tính cách nhân vật Vũ Nương, thoả mãn ước mơ của nhân dân là “ở hiền gặp lành”, ngưởi tốt sẽ được đền bù. Truyện kết thúc có hậu. Trong truyện, những yếu tố truyền kì tập trung ở phần sau của truyện như con rùa mai xanh được Phan Lang cứu, Vũ Nương được ở lại Thuỷ Cung, rồi hiện về với kiệu hoa rực rỡ trên sông… đó là những tình tiết kì ảo, không có thực nhưng đã tạo ra một thế giới nghệ thuật lung linh huyền ảo.
Số phận và cuộc đời thực sự vẫn là thực xưa nay. Yếu tố hoang đường truyền kì không thể cứu được cuộc đời Vũ nương với số phận bi thảm của nàng. Vũ Nương muốn sống lại mà không được sống, muốn trở về với chồng con và quê hương mà không thể trở về được.
- Kết bài:
Chuyện Người con gái Nam Xương có giá trị hiện thực tố cáo và ý nghĩa nhân đạo sâu sắc. Nghĩ về Vũ Nương và biết bao thân phận người phụ nữ khác trong xã hội phong kiến được phản ánh trong các tác phẩm văn học cổ, chúng ta càng thấy rõ giá trị cuộc sống của những người phụ nữ ViệtNam trong một xã hội tốt đẹp hôm nay. Họ đang vươn lên làm chủ cuộc đời, sống bình đẳng, hạnh phúc với chồng con và được đề cao nhân phẩm trong xã hộ, xã hội của thời đại mới.
Tham khảo:
Cảm nhận vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ qua hai văn bản Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ và Truyện Kiều của Nguyễn Du.
* Hướng dẫn làm bài:
- Mở bài.
Nêu vấn đề cần nghị luận: Vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ qua hai nhân vật văn bản Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ và Truyện Kiều của Nguyễn Du.
- Thân bài:
Người phụ nữ được khắc hoạ trong hai văn bản là những người có nhan sắc, có đức hạnh song lại chịu một số phận oan nghiệt để rồi cuối cùng đều phải tự chọn cho mình một lối thoát: tự vẫn. Với tấm lòng nhân đạo cao cả, các nhà văn đã thể hiện niềm cảm thương sâu sắc trước những nỗi thống khổ của họ, trân trọng, đề cao vẻ đẹp của họ, nhất là vẻ đẹp tâm hồn.
* Người phụ nữ trong hai văn bản mang những nét đẹp của người phụ nữ trong xã hội cũ: Công, dung, ngôn, hạnh.
– Họ là những người phụ nữ đẹp, dịu dàng, hiền hậu: Vũ Nương “tính tình thuỳ mị, nết na lại thêm tư dung tốt đẹp”; Thuý Kiều “Làn thu thuỷ, nét xuân sơn/ Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”…
– Họ là những người phụ nữ đảm đang, tháo vát: khi chồng đi lính, Vũ Nương một mình vừa lo chuyện gia đình, nuôi dạy con nhỏ, vừa chăm sóc mẹ chồng chu đáo.Thúy Kiều bán mình chuộc cha- phận nữ nhi nhưng gánh vác việc gia đình.
– Họ là những người phụ nữ thuỷ chung, nhân hậu và đầy tình yêu thương.
+ Vũ Nương: Là người vợ thuỷ chung, yêu chồng tha thiết. Khi bị chồng nghi oan, khong thể giãi bày, đau khổ đến cùng cực, nàng đành nhảy xuống sông tự vẫn để bày tỏ tấm lòng trong trắng của mình. Nàng là người mẹ yêu con, hiếu thảo với mẹ chồng, nàng luôn “lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn”, lo thuốc thang, lễ bái thần phật khi mẹ ốm; lo “ma chay tế lễ” chu đáo như đối với cha mẹ đẻ mình khi mẹ mất.
+ Thuý Kiều: Là người con gái trong trắng, thuỷ chung, giàu lòng vị tha: dù phải mười năm lưu lạc, nàng không lúc nào nguôi nỗi nhớ chàng Kim, lúc nào cũng cảm thấy mình có lỗi khi tình yêu của hai người bị tan vỡ. Nàng là người con hiếu thảo: Gia đình bị vu oan, cha và em bị đánh đập, Kiều đã quyết định hi sinh mối tình đầu đẹp đẽ để bán mình chuộc cha và em.
– Đánh giá: Họ là những người phụ nữ với vẻ đẹp chuẩn mực của xã hội xưa. Ngày nay vẻ đẹp đó luôn được tôn thờ và phát triển phù hợp với thời đại…..
- Kết bài:
Nhấn mạnh đánh giá lại vấn đề…..