Phân tích truyện ngắn “Chí Phèo” của Nam Cao.
- Mở bài:
Nam Cao (1917 – 1951) là một trong những cây bút viết truyện ngắn rất thành công của dòng văn học hiện thực phê phán thời kì trước Cách mạng. Con người Nam Cao nhìn bề ngoài có vẻ lạnh lùng, ít nói nhưng đời sống nội tâm thì rất phong phú. Nam Cao là người có tấm lòng đôn hậu, chan chứa yêu thương. Ông gắn bó sâu nặng, giàu ân tình với quê hương và những con người nghèo khổ bị áp bức, khinh miệt trong xã hội cũ.
“Chí Phèo” là tác phẩm thành công của Nam Cao viết về đề tài người nông dân. Nhân vật Chí Phèo thể hiện tấn bi kịch tinh thần lớn nhất của con người, đó là bi kịch bị tha hoá. Những thế lực tàn bạo đã tước đoạt của người nông dân chất phác hiền lành những khát vong và ước mơ về một cuộc sống lương thiện, biến họ thành kẻ lưu manh. Và khi lương tâm thức tỉnh, họ đã phải tự kết thúc đời mình khi nhận ra rằng mình không còn con đường trở về với cuộc sống lương thiện. Tác phẩm nói lên số phận bi thảm của người nông dân nghèo, lương thiện bị xã hội thực dân phong kiến xô đẩy vào con đường lưu manh, tội lỗi không lối thoát. Song qua tác phẩm Nam Cao vẫn bảo vệ và khẳng định phẩm chất tốt đẹp của họ.
- Thân bài:
Chí Phèo vốn không cha không mẹ, được dân làng truyền tay nhau nuôi lớn. Rồi đến làm canh điền cho nhà Bá Kiến. Bá Kiến ghen tuông nên đã đẩy anh vào tù. Bảy tám năm sau, Chí ra tù và trở về làng với bộ dạng của một tên lưu manh. Hắn chuyên uống rượu, rạch mặt ăn vạ. Cả làng lánh xa hắn, Chí bị Bá Kiến lợi dụng thành công cụ cho hắn. Chí gặp Thị Nở, hai người ăn nằm với nhau. Chí tỉnh rượu rồi ốm, được Thị Nở chăm sóc. Bát cháo hành và những cử chỉ chân thật của Thị Nở đã làm sống dậy khát vọng sống cuộc đời lương thiện của Chí. Nhưng bà cô Thị Nở ngăn cấm. Chí tuyệt vọng khi bị Thị Nở từ chối. Anh xách dao đến nhà Bá Kiến đòi lương thiện. Anh đâm chết Bá Kiến và tự vẫn.
Nhan đề tác phẩm có ý nghĩa sâu sắc. băn đầu nhà văn đặt tên là “Cái lò gạch cũ”. Đó là nơi Chí Phèo ra đời, bị bỏ rơi. Thị Nở ám ảnh cảnh Chí Phèo chết. Lò gạch ở cuối bài sẽ là nơi một Chí Phèo con ra đời và sẽ bị bỏ rơi. Từ sự ra đời Chí Phèo, nhà văn muốn nói về quy luật, quy luật tha hóa con người, trong xã hội con người đi vào lối mòn tha hóa là điều không tránh khỏi, dự báo Chí Phèo con cũng giống Chí Phèo lớn lên trong sự cưu mang của dân làng rồi sẽ bị giai cấp áp bức, bóc lột, lợi dụng biến thành tay sai, lưu manh, quỷ dữ à giá trị tố cáo xã hội, xã hội hủy hoại nhân hình và nhân tính. Thế nhưng, nếu lấy tên là “Cái lò gạch cũ”, dễ thấy nhan đề tập trung nói về sự tha hóa của Chí Phèo, quy luật tha hóa trong xã hội, có nghĩa chỉ nặng về giá trị hiện thực, nặng về một đoạn tác phẩm, trong khi mạch chính không phải quá trình tha hóa mà nhà văn Nam Cao tập trung nói về sự hồi sinh của Chí Phèo sau khi tha hóa, truyền tải giá trị nhân đạo sâu sắc mới mẻ à điểm nhấn, giá trị tác phẩm.
Khi in lần thứ nhất, nhà biên soạn đổi tên: “Đôi lứa xứng đôi”. Việc đổi tên như thế là gắn liền với câu chuyện tình cảm giữa Chí Phèo và Thị Nở, giữa quỷ dữ và phụ nữ xấu ma chê quỷ hờn. Nhan đề có giá trị thương mại, giật gân, gây tò mò để câu khách à bán được sản phẩm nhiều nhất, lợi nhuận chứ không liên quan, gắn với nội dung, tư tưởng tác phẩm, chỉ là nền tảng dẫn đến những chuyện khác.
Sau này, khi in lẫn nữa, nhà văn đổi tên thành: “Chí Phèo”. Đó là tên của nhân vật chính trong tác phẩm, cách đặt tên rất phổ biến. Qua nhan đề, tác giả muốn nói về nhân vật chính trung tâm của tác phẩm, có hai đoạn đời, đầu tiên là hiền lành lương thiện, sau là thằng Chí Phèo lưu manh, quỷ dữ, quá trình hồi sinh làm người lương thiện, sẵn sàng đánh đổi mạng sống để giữ thiên lương.
1. Cuộc đời của Chí Phèo trước khi vào tù.
Chí Phèo có xuất thân rất đáng thương, tội nghiệp. Hắn vốn là một đứa trẻ mồ côi, bị bỏ rơi tại một lò gạch cũ. Một anh đặt ống lươn sớm đã nhặt được đứa trẻ, sau đưa cho một bà cụ, cụ già bán đứa bé cho bác phó. Chí Phèo được bác phó chăm nuôi. Chẳng bao lâu bác phó qua đời, Chí Phèo lớn lên trong sự cưu mang của dân làng .
Lớn lên, Chí trở thành nông dân khỏe mạnh, hiền lành và lương thiện, quanh năm cày thuê cuốc mướn kiếm sống, mưu sinh. Năm 20 tuổi, Chí vào làm canh điền cho nhà Lý Kiến. Tưởng cuộc đời hắn đã được bình yên. Nào ngờ, bà ba để ý hắn, một buổi trưa, bà gọi hắn đến bóp chân cho bà. Chí Phèo miễn cường làm theo nhưng trong lòng hắn thấy rất nhục. 20 tuổi người ta không còn là đá chứ không còn là xác thịt.
2. Chí Phèo vào tù và bi kịch bị tha hóa nhân cách.
Chính vì việc hắn hay được bà ba chiếu cố nên khiến bá Kiến ghen, thấy không vừa lòng. Thế là bá Kiến mưu tính. Một ngày nọ, người ta thấy Chí bị người ta bắt giải đi. Không ai biết đã xảy ra việc gì. Kể từ đó, người ta không thấy Chí trở về. Nghe nói Chí bị bắt đi tù. Sau bảy tám măm, hắn đột ngột trở về với bộ dạng gớm ghiếc, thái độ cuồng nộ. Anh Chí chăm chỉ, hiền lành ngày nào giờ đã trở thành một gã lưu manh chuyên rạch mặt ăn vạ. Chí Phèo đã bị biến dạng cả về nhân hình lẫn nhân tính.
Có hai nguyên nhân khiến Chí Phèo tha hoá, biến đổi đến đáng sợ. Nguyên nhân thứ nhất chính là do lòng ghen tuông vô cớ của Bá Kiến. Bá Kiến ghen khi Chí Phèo được bà ba ưu ái, thường xuyên gọi vào bóp chân, Bá Kiến đẩy Chí Phèo vào tù bằng mọi mưu kế, quyền lực. Thứ hai, nhà tù thực dân nửa phong kiến đã nhào nặn, làm tha hóa Chí Phèo. Xã hội mà kẻ thống trị có quyền đổi trắng thay đen, nhà tù đại diện cho trật tự xã hội thì lại trái bình thường, nhà tù làm thanh lọc con người. Đó là cái xã hội phi lí, bất công, ngang trái, nơi mà những người nghèo khó bị đối xử như súc vật.
Sự tha hoá của Chí Phèo biểu hiện hết sứ rõ ràng. Về nhân hình, hắn trở về với cái đầu trọc lóc, hai hàm răng cạo trắng hớn, mặt đen cơn cớn, con mắt gườm gườm trông gớm chết. Chí Phèo mặc áo Tây vàng, quần nái đen, màu sắc chói lóa, phanh ngực, hình xăm ông tướng kiểu của một thằng lưu. Dễ thấy, hắn xuất hiện như một kẻ lập dị bất thường, khiến ai cũng phải chú ý. Về nhân tính, về hôm trước, hôm sau hắn tìm ngay đến hàng rượu, hàng thịt chó, uống rượu đến xế chiều, say khướt. Mà cứ say là hắn chửi. Hắn chửi trời, chửi đất, chửi cuộc đời, chửi cha mẹ. Ai hắn cũng chửi hết. Thế nhưng, dù ngập ngụa trong con say, từ sâu thẳm bên trong tâm hồn hắn vẫn luôn có một khát vọng sống lương thiện, luôn khát khao một cuộc sống bình dị, thân thuộc, hạnh phúc.
3. Bi kịch tha hóa từ lưu manh đến con quỷ dữ của làng Vũ Đại.
Chí Phèo từ một gã lưu manh, côn đồ chuyên rạch mặt ăn vạ đã nhanh chóng trở thành tay sai của Bá Kiến. Từ đây, hắn chính thức trở thành con quỹ dữ của làng Vũ Đạ, gieo rắc tội ác và sự khiếp sợ.
Nguyên nhân chính ở sự khôn ngoan, gian xảo của Bá Kiến. Làng Vũ Đại có thế tranh quyền lực, các phe cánh liên tục đấu đá lẫn nhau. Bá Kiến là kẻ tuy mạng nhưng lúc này chưa ổn định. Hắn muốn gia tăng lực lượng để củng cố sức mạnh và địa vị của mình. Với nguyên tắc trị người: dùng thằng đầu bò trị thằng đầu bò, hắn đã tìm mọi cách thu phục cho được Chí Phèo.
Mặt khác, Chí Phèo thất học, u mê, khờ khạo tìm đến Bá Kiến khi mới ra tù để chửi, ăn vạ. Chí không biết rằng hắn không phải là đối thủ với Bá Kiến. Hắn đón nhận sự tiếp đãi của Bá Kiến, nghĩ Bá Kiến là người khờ khạo, trong lòng có chút vui sướng. Nhưng hắn có ngờ đâu rằng Bá Kiến là một con cáo già lọc lõi.
Từ sau khi bị Bá Kiến thu phục, Chí Phèo có nhiều biến đổi. Về nhân hình, Chí gần như biến thành con vật lạ với những vằn dọc, vằn ngang, sẹo chằng chịt. Đó là bằng chứng tội ác. Về nhân tính, hắn triền miên trong những cơn say dài không đầu không cuối. Trong cơn say, hắn làm bất cứ việc gì mà người ta sai khiến.
Đoạn văn mở đầu: “Hắn vừa đi vừa chửi…” chửi bới của cơn say, sự phẫn uất của Chí Phèo với cuộc đời, chửi tất cả, sự bất công của xã hội, tiếng chửi để nói lên sự cô độc của chính mình, thu hẹp đối tượng, mong muốn được giao tiếp, nhưng không ai coi Chí Phèo là người nữa. Hắn đã xoá nhoà ranh giới của con người và thú vật, tha hóa đến tận cùng. Có thể nói Chí đã bán mất hình người, hồn người.
4. Sự hồi sinh của nhân vật Chí Phèo.
Chí Phèo tỉnh rượu và tỉnh ngộ nhờ cuộc gặp gỡ, đón nhận sự quan tâm chăm sóc của thị Nở. Cuộc gặp gỡ định mệnh giữa Chí Phèo và thị Nở đã mở ra một lối thoát cho Chí Phèo và cho câu chuyện. Mối tình Chí Phèo và thị Nở có lẽ là điểm sáng nhất trong tác phẩm này.
a. Chí Phèo tỉnh rượu:
– Gặp gỡ Thị Nở, Chí Phèo bắt đầu thấy sợ rượu, bị ốm, cảm lạnh, nhận thức được những điều xung quanh mà mình chưa bao giờ để ý đến. Chí Phèo đã ngoài 40 tuổi (cơn say kéo dài 10 mấy năm) nhận thức được ánh sáng, âm thanh, cuộc sống xung quanh. Âm thanh tiếng chim vui, truyền tải cảm xúc, âm thanh của những người bán vải, âm thanh của anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá à âm thanh cuộc sống thường nhật nhưng đây là lần đầu Chí Phèo nhận thức được.
– Hắn bắt đầu nhận thức về bản thân: Nhớ về năm tháng quá khứ à tươi đẹp gắn liền với giấc mơ mái ấm hạnh phúc, lòng tự trọng, anh canh điền lương thiện. Quay về với cuộc sống thực tại: là con số không tròn trĩnh, không gia đình, không vợ con, không tài sản. Năm sào chỉ thuộc về Chí Phèo khi Chí Phèo là tay sai, chỉ là tạm bợ, thậm chí là số âm, trông thấy tuổi già, sợ hãi khi không còn khỏe mạnh như xưa. Nghĩ đến tương lại: là đói rét, ốm đau, cô độc, hắn sợ hãi hốt hoảng à chỉ còn là một màu xám xịt hoang mang, nhận thức được mình.
– Cuộc gặp gỡ với Thị Nở:
+ Thị Nở là người phụ nữ không bình thường, ngăn cản hạnh phúc không đến với Thị, người phụ nữ thảm hại, Chí Phèo không bao giờ chạm tới, xấu đến mức ma chê quỷ hờn, môi dày, mũi như cam sành. Thị rất dở hơi, ngẩn ngơ như trong cổ tích. Thị mua gương về soi. Thị nghèo không còn người thân chỉ có bà cô. Thị sinh ra trong gia đình bị bệnh phong, do di truyền, rất khó lấy vợ lấy chồng à họ tránh, không có cơ hội tìm hạnh phúc.
+ Bối cảnh: ngẫu nhiên, bất ngờ ở vườn chuối nhà Chí Phèo, họ đi con đường khác. Thị không sợ vẫn ngày ngày lấy nuớc đi ngang qua vườn chuối nhà Chí Phèo, thường hay xin lửa rượu do Thị dở hơi. Một hôm Thị thấy mệt , Thị nằm ngả lưng tại gốc chuối nhà Chí Phèo ngắm trăng, Thị buồn ngủ say sưa vì ở đây có luồng gió mát, sung sướng. Chí Phèo sau khi chửi mà không có người đáp, phẫn uất muốn đốt nhà. Chí Phèo nhìn thấy bóng mình xệch xạc, siêu vẹo, cười ngặt nghẽo, ở vẹn đường, ở nhà Tư Lãng, uống cùng Tư Lãng. Sau khi uống xong, Chí Phèo thấy ngứa ngáy ra sông tắm, tình cờ gặp Thị đang ngủ say ở vườn chuối nhà mình, dáng nằm hở hênh, không bắt đầu từ tình yêu mà từ bản năng.
+ Đón nhận sự quan tâm, chăm sóc ân cần chu đáo:
++ Chí Phèo bị cảm lạnh, Thị đã dìu Chí Phèo vào lều, nhặt mấy manh chiếu rách đắp lên người, Thị đặt Chí Phèo nằm lên chõng.
++ Thị đi mượn gạo may mắn ở nhà Thị còn có hành, Thị nấu nồi cháo hành cho Chí Phèo, múc bát cháo hành đem qua cho Chí Phèo, Thị không đi về mà còn múc thêm chén nữa, lắc đầu thương hại.
++ Thị vượt ra khỏi định kiến đem đồ qua sống chung với Chí Phèo năm ngày liền. Ngoài tình yêu, Thị mang đến cảm nhận trong lòng người, Chí Phèo cảm động.
b. Chí Phèo tỉnh ngộ.
– Thức tỉnh tính người qua giọt nước mắt: khát vọng bùng cháy mãnh liệt.
– Thức tỉnh tình người qua biểu hiện cao nhất là tình yêu:
+ Chí Phèo cảm thấy Thị rất có duyên à bản chất tình yêu.
+ Khao khát chung sống với Thị à hướng của tình yêu chân chính.
+ Chí Phèo không kinh rượu nữa, cố uống thật ít để cảm nhận đuợc tình yêu.
+ Thị cảm thấy Chí Phèo hiền lành đến khó tin à sức mạnh cảm hóa của tình yêu.
– Khát vọng làm người lương thiện: khát vọng hoàn lương. Chí Phèo muốn làm một người bình thường. Thị sẽ mở đường cho hắn, sẽ có cuộc sống ấm no mà Chí Phèo luôn ao ước, sống một cuộc đời lương thiện.
5. Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người.
a. Nguyên nhân:
– Nguyên nhân trực tiếp: Do bà cô của Thị, Thị sống với Chí Phèo 5 ngày, sang ngày thứ sáu Thị chợt nhớ ra mình có bà cô, Thị muốn dừng yêu để hỏi ý kiến của cô Thị đã. Cô của Thị ngăn cản Thị vì cho rằng nó là một đứa dở hơi, cho rằng Chí Phèo không xứng với Thị. Thị thảm hại bao nhiêu thì Chí Phèo càng thảm hại hơn.
– Nguyên nhân gián tiếp: Do định kiến của làng Vũ Đại, không tin Chí Phèo có thể quay về làm người, Chí Phèo đã quay đầu nhưng bờ không tiếp nhận. Thị dở hơi nên sẵn sàng từ bỏ Chí Phèo quay về với định kiến, trút hết lời bà cô lên người Chí Phèo.
b. Diễn biến tâm trạng của Chí Phèo:
– Đau đớn tuyệt vọng khi khát vọng bị dập tắt:
+ Sau khi Thị đã trút lên Chí Phèo toàn bộ lời bà cô thì Chí Phèo thích thú cười à sau đó nghĩ ngợi một tíà ngầm hiểu ra à ngẩn người, không nói gì à đau đớn thất vọng.
+ Thị trút xong rồi bỏ về, Chí Phèo chạy theo níu kéo Thị, Chí Phèo gọi nhưng Thị không quay lại, Chí Phèo chạy theo nắm lấy tay Thị, Thị là chiếc phao cứu sinh giữa cuộc đời Chí Phèo.
+ Thị gạt tay Chí Phèo, giúi thêm cho một cái làm Chí Phèo ngã lăn ra đất à Chí Phèo biết không thể níu kéo, cánh cửa lương thiện đã đóng sập trước mắt của Chí Phèoà Chí Phèo cảm thấy tuyệt vọng, phẫn uất và cần phải trả thù.
+ Chí Phèo uống thật nhiều để thực hiện à càng uống càng tỉnh ra ( liên hệ: “Chén rượu hương đưa say lại tỉnh” – Tự tình – Hồ Xuân Hương) à Càng uống càng tỉnh càng buồn, Chí Phèo cảm thấy thoang thoảng mùi cháo hành trong hồi ước ngọt ngào, chén cháo hành không hiện hữu à Chí Phèo cảm thấy cay đắng, ôm mặt khóc rưng rức à Chí Phèo bế tắc, rơi vào bất hạnh.
– Nhận diện và trừng phạt kẻ thù: Trong nỗi đau đớn tột cùng, Chí Phèo xách dao đi đến nhà Thị, trả thù Thị nhưng Chí Phèo càng đi thì càng nhận ra không đến nhà Thị mà đến nhà Bá Kiến do:
+ Chí Phèo đang say quên đi ý định ban đầu.
+ Chí Phèo quen chân, bức bắt sẽ đến nhà Bá Kiến.
+ Chí Phèo mơ hồ nhận ra kẻ thù đích thực là Bá Kiến.
+ Hôm nay là ngày không bình thường, Chí Phèo không phải là đối thủ của Bá Kiến. Bá Kiến là một con cáo già nham hiểm và độc ác. Đúng lúc hôm nay Bá Kiến mất bình tĩnh, ghen với bà Tư gặp ai cũng cười, Bá Kiến cả giận mất khôn, trút giận hết lên người Chí Phèo. Chí Phèo uất ức vì câu nói xúc phạm của Bá Kiến ném 5 hào xuống đất. Phiên tòa nhanh chóng được lập nên: “ Ai cho tao lương thiện…”
+ Chí Phèo xử tội Bá Kiến, đồng thời kết tội đanh thép cho xã hội không có quyền con người. Nỗi đau đớn lấy máu rửa thù.
c. Chí Phèo tự hủy hoại mạng sống của chính mình:
– Sau khi đâm chết Bá Kiến, Chí Phèo đứng trước hai lựa chọn:
+ Một là: Sống mà làm người lương thiện, nhưng cánh cửa lương thiện đã đóng sập trước mắt Chí Phèo, Chí Phèo đã là quỷ thì không còn là con người.
+ Hoặc là: Sống để làm quỷ dữ chỉ khi có Bá Kiến giật dây à không thể.
– Tìm đến cái chết của một người lương thiện. Chí Phèo quay ngược đâm chết chính mình, nhận láy cái chết đau đớn.
– Màn kịch chưa chấm dứt, khi xã hội thực dân vẫn tồn tại. Vấn đề người đọc phải suy nghĩ. Cái chết của Chí Phèo tố cáo xã hội bất nhân.
6. Đánh giá.
a. Nghệ thuật.
– Nghệ thuật xây dựng nhân vật điển hình hóa nhân vật.
– Phân tích diễn biến tâm lý nhân vật tinh tế, sắc sảo.
– Nghệ thuật xây dựng cốt truyện kịch tính, có sức lôi cuốn.
– Nghệ thuật trần thuật hấp dẫn, ngôn ngữ kể chuyện của tác giả, đảo lộn trật tự thời gian.
b. Nội dung tư tưởng.
– Giá trị hiện thực: Phơi bày hiện thực xã hội.
– Giá trị nhân đạo; nhà văn ca ngợi thiên tính tốt đẹp trong con người Chí Phèo.
Tham khảo:
Phân tích truyện ngắn “Chí Phèo” của Nam Cao.
- Mở bài:
Nam Cao là nhà văn hiện thực tiêu biểu nhất của nền văn học hiện thực phê phán thế kỉ XX. Với ngòi bút tỉnh táo và lạnh lùng, tác phẩm của Nam Cao đi sâu vào khai thác các đề tài nóng bỏng của xã hội Việt nam đương thời một cách chân thực và sâu sắc. “Chí Phèo” là truyện ngắn xuất sắc nhất của Nam Cao và là kiệt tác của nền văn học Việt Nam. Tác phẩm là một bản án cáo trạng đanh thép đối với một xã hội phong kiến đầy bất công đã đẩy người nông dân vào con đường bần cùng hóa trước Cách mạng. Đồng thời, tác phẩm cũng là một câu chuyện chứa đựng nhiều ý nghĩa nhân văn sâu sắc.
- Thân bài:
Vấn đề số phận con người, về những bi kịch đày đọa đến cùng cực đã trở thành một đề tài quen thuộc trong các sáng tác của nhà văn Nam Cao. Với ngòi bút phản ánh hiện thực sâu sắc, khai thác tấn bi kịch tinh thần của những kiếp đời “chết ngay trong lúc sống”, Nam Cao đã để lại cho người đời sau những kiệt tác như Đời thừa, Sống mòn, Một bữa no… Trong đó, không thể nào không nhắc đến truyện ngắn “Chí Phèo” của Nam Cao – một sáng tác được xem là kết tinh của thực trạng nhân phẩm bị hủy hoại đến tàn khốc, của nỗi đau khôn nguôi ở kiếp người.
Về nội dung, Chí Phèo là truyện ngắn nổi tiếng xoay quanh cuộc đời của một nhân vật chính cùng tên. Toàn bộ tác phẩm khắc họa quá trình tha hóa nhân phẩm, quá trình trượt dài lương thiện của Chí. Xuất phát điểm là một anh nông dân hiền lành, chỉ biết cuốc mướn làm thuê với ước mơ giản dị: “Hình như một thời hắn đã ao ước có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm.” Rồi dưới xã hội “quần ngư tranh thực” ấy, anh nông dân kia rơi vào con đường tha hóa, bần cùng hóa để trở thành một tên chuyên rạch mặt ăn vạ, một con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Nam Cao đã chú trọng phơi bày mâu thuẫn giai cấp, phơi bày bộ mặt kinh tởm của những người đã gây ra cho đời một thung lũng đau thương nhuộm đầy máu và nước mắt. Lí Kiến (hay Bá Kiến) là “một con hổ biết cười”, một con rắn đầy nọc độc, bản chất thối tha, dâm đãng, háo sắc, thủ đoạn mưu mô “mềm nắn, rắng buông”, “thứ nhất sợ kẻ anh hùng, thứ hai sợ kẻ cố cùng liều thân”, “hãy ngấm ngầm đẩy người ta xuống sông nhưng rồi lại dắt nó lên để nó đền ơn”…
Thông qua việc khắc họa nhân vật, đặc biệt là Chí Phèo, Nam Cao đã thể hiện được giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc. Chí Phèo là đại diện tiêu biểu cho hình ảnh người nông dân trước cách mạng tháng Tám. Nhân vật này được xây dựng trên những đặc điểm tính cách tiêu biểu: hiền lành, thật thà; chăm chỉ, cần cù; thiết tha lương thiện nhưng cuối cùng lại bị cự tuyệt quyền làm người một cách đau đớn. Chí ngật ngưỡng bước ra trang sách bằng tiếng chửi “hắn vừa đi vừa chửi”, bằng bi kịch của một đứa con hoang bị bỏ rơi bên cạnh chiếc lò gạch cũ để phải cam chịu cảnh tủi nhục “hết lang thang đi ở cho nhà người này lại đi ở cho nhà người khác, năm hai mươi tuổi thì làm canh điển cho nhà Bá Kiến”, bằng những lần rạch mặt ăn vạ… để rồi nhờ Thị mà thức tỉnh và cũng chính sự thức tỉnh ấy dẫn đến hành động trả thù, đem đến một kết quả thương tâm: Ý thức lương thiện trỗi dậy trong hoàn cảnh bi kịch và khi ý thức ấy hồi sinh mạnh mẽ thì sinh mạng con người phải mất đi.
Sự kiện có tính chất tạo và chuyển biến tâm lí của nhân vật Chí Phèo là sự xuất hiện của Thị Nở. Tuy nhiên, Nam Cao không miêu tả sự xuất hiện ấy một cách ngọt ngào cũng không ưu ái cho cuộc tình kia một cái cục đẹp, một giấc mơ hạnh phúc đền trả cho những con người bất hạnh. Nam Cao lạnh lùng và dửng dưng với tất cả “Nam Cao lạnh lùng quá, kéo mép lên mới nở được một nụ cười khó nhọc”, tuy thế nhưng “thật ra mặt anh lạnh nhưng lòng anh ta sôi nổi”, do đó, cuộc tình của họ được xem là một trong những cuộc tình đẹp nhất trong văn học Việt Nam, không chỉ tình yêu mà còn là tình người.
Sau một đêm ở vườn chuối và được Thị Nở – một người đàn bà xấu xí và gàn dở chăm sóc, Chí Phèo đã nghe lương tri trỗi dậy từ bên trong. Từ một thằng săng đá, “cái đầu thì trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cơn cơn, hai con mắt gườm gườm trong gớm chết”, hắn đã thấy được những hình ảnh đầu tiên, những âm thanh đầu tiên của cuộc đời của một con người – một con người thực sự. Đó là hình ảnh mặt trời bên ngoài, là tia nắng rực rỡ, là tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá, là tiếng cười nói của những người đi chợ, là tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá… Chao ôi bao nhiêu hình ảnh, bao nhiêu thanh âm thường hằng của cuộc sống mà đến giờ anh mới thấy, mới nghe, mới nhận ra “bởi vì chưa bao giờ anh hết say”. Hắn đã tư lự giật mình về quá khứ, hiện tại và tương lai của chính mình.
Bát cháo hành thị Nở có lẽ là một trong những chi tiết nổi bật nhất trong truyện ngắn. Đúng như Pautopxki đã từng nói: “Chi tiết là hạt bụi vàng của tác phẩm”. Với ba lần xuất hiện, bát cháo hành đã thực hiện ngoạn mục cú lội ngược dòng cho nhân cách Chí Phèo, từ một tên lưu manh bị tha hóa trở về con đường thèm khát lương thiện, thèm khát hạnh phúc đời thường.
Lần đầu tiên cầm bát cháo hành trên tay, hắn đã thấy mắt mình hình như ươn ướt bởi “xưa nay nào có ai tự nhiên cho hắn cái gì”, hắn phải dọa nạt, phải giật cướp, phải làm cho người ta khiếp sợ. Đấy là bát cháo là của tình thương, của tình người, của một kẻ gàn dở duy nhất không chối từ hắn ở cái làng Vũ Đại kia. Tương tự ở Đời thừa, nếu như ấm nước còn ấm của Từ thức tỉnh Hộ thì ở đây, bát cháo hành đã làm thay đổi kiếp sống của Chí Phèo. Lần thứ hai là sau khi hắn bị Thị Nở từ chối, bị định kiến xã hội chà đạp, hắn ngẩn người ra và đã ngửi thấy hương cháo hành. Lần thứ ba thoang thoảng thấy hương cháo hành là ngay sau đó, khi Thị chì chiết và bỏ đi, hắn ngay lập tức đã muốn giết cả gia đình nhà “con đĩ Nở” kia.
Nhưng Chí đã không làm vậy, Chí đã gục đầu vào men rượu, uống cho tới say mèm đi và ôm mặt khóc rưng rức, nhưng lạ là hơi rượu không sặc sụa mà chỉ có hương cháo hành thoảng qua. Qua đó ta thấy, bát cháo hành là liều thuốc đã cứu rỗi lấy lương tâm quỷ dữ, dù cho sự thức tỉnh về sau phải dẫn tới những cái chết tàn khốc không kém. Chí đã thực sự tỉnh táo, thực sự nhận ra những mất mát đau đớn: mất người tình, mất cơ hội duy nhất để trở về cuộc sống lương thiện. Một kẻ tưởng như phải sống trọn đời là quỷ dữ, chỉ cần nhờ một bát cháo hành nhỏ nhoi, một hương cháo hành ấm áp đã có thể quay về khao khát bản tính con người mới đủ thấy, sức cảm hóa của tình thương lớn đến nhường nào.
Một chi tiết khác quan trọng không kém đó là cái lò gạch cũ – một địa điểm ghi dấu những thân phận bi kịch như lời nguyền của số phận. Là nơi bắt đầu cuộc đời bị khước từ của Chí Phèo cũng là nơi hứa hẹn một cuộc đời khác, một thằng Chí Phèo con với cuộc đời bị bóp nát chẳng kém khi hình ảnh cái lò gạch cũ chợt hiện ra trong đầu thị: “Đột nhiên thị thấy thoáng hiện ra một cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa và vắng người lại qua…”. Chí Phèo sau khi thức tỉnh thực sự, sau khi nhận ra kẻ đã dồn đẩy mình vào đường cùng của sự sống, khiến hắn mất mát cả nhân hình lẫn nhân tính đã đến nhà Bá Kiến đòi lại món nợ “lương thiện”. Câu hỏi day dẳng: “Ai cho tao lương thiện?” có lẽ sẽ ám ảnh người đọc muôn đời.
Giết chết Bá Kiến chính là sự giải thoát cho bản thân. Tự vẫn chính là hành động để hắn cứu lấy chính mình. Nhưng đến khi con người ấy chết đi, xã hội vẫn loại bỏ hắn đến cùng. Người ta vui mừng trước cái chết của tên Bá Kiến và thằng Chí Phèo. Đau đớn đến thế là cùng! Một thảm kịch tang thương kết thúc cho một số phận bùn nhơ. Thảm kịch ấy kết thúc một đời người nhưng nỗi đau giai cấp vẫn còn được tái hiện trong những sáng tác khác của Nam Cao. Cái chết của Lão Hạc còn được người ta xót thương, tiền đồ tối tăm của chị Dậu còn khiến cho bao giọt nước mắt mặn đắng xót xa rơi xuống còn cái chết của Chí Phèo chung cục chỉ đổi lấy sự hả hê, mỉa mai của dân làng Vũ Đại.
Truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao chẳng những thành công trên cả phương diện nội dung đã nói ở trên mà còn nổi bật trên phương diện nghệ thuật. Ngôn từ sắc, lạnh trong khắc họa nhân vật nhưng ấp ủ bên trong là một trái tim ấm, nóng luôn sôi sục yêu thương đã thể hiện được sự đa chiều trong tính cách nhân vật. Lối kể chuyện hấp dẫn, để cho nhân vật thản nhiên bước vào bằng những tiếng chửi chớ không phải bằng sự dàn dựng truyền thống, giới thiệu chi tiết ban đầu đã để lại cho người đọc ấn tượng sâu sắc. Những chi tiết được chọn lọc, xây dựng kĩ lưỡng, khéo léo đã đi từ tác phẩm văn chương vào hiện thực đời thường. Đặc biệt là kết cấu truyện vòng tròn – một điểm sáng trong cách viết của cả một giai đoạn văn học đương thời.
- Kết bài:
Tóm lại, truyện ngắn “Chí Phèo” của Nam Cao là một tác phẩm tiêu biểu cho dòng văn học hiện thực phê phán trước cách mạng tháng Tám. Đó là lời tố cáo xã hội đanh thép, là tiếng kêu thống thiết cứu lấy nhân tính con người vẫn còn âm vang cho đến ngày nay.
Phân tích nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao.
Tham khảo:
Phân tích ý nghĩa truyện ngắn Chí Phèo
- Mở bài:
“Chí Phèo” là kiệt tác văn học của nền văn học hiện thực phê phán trước 1945. Với Chí Phèo, Nam Cao đã xuất hiện trong văn học như một tác giả tiêu biểu nhất của văn học hiện thực phê phán 1940 -1945, thời kỳ mới đầy thử thách với dòng văn học đó. Cũng như các cây bút lớp trước, Nam Cao đặc biệt quan tâm thể hiện số phận khốn khổ trăm chiều của những người người bị áp bức bóc lột đương thời. Có điều, trong cảm hứng “vạch khổ” của mọi nhà văn hiện thực, ngòi bút Nam cao có những khám phá riêng về số phận người lao động bị chà đạp. Hình tượng nhân vật Chí Phèo – một điển hình nghệ thuật bất hủ trong văn xuôi Việt Nam – đã thể hiện đầy đủ cái nhìn mới mẻ ,độc đáo, có chiều sâu cua Nam Cao trong việc thể hiện nỗi khổ của người cố nông.
- Thân bài:
Trước hết, tác phẩm “Chí Phèo” của Nam Cao đã khắc họa tấn bi kịch của người nông dân trước Cách mạng. Trong tác phẩm này, Nam Cao không đi vào nạn sưu thuế hay thiên tai dịch họa mà nhà văn lại hướng đến một phương diện khác, đó là hình tượng người nông dân cố cùng bị xã hội phá hủy về tâm hồn, hủy diệt cả nhân tính và bị phủ nhận tư cách làm người. Nỗi thống khổ ghê gớm của Chí Phèo chính là bị cướp đi hình hài của một con người, bị đẩy ra khỏi xã hội loài người và phải sống kiếp sống đớn đau như thú vật. Chí từ một anh canh điền lương thiện khỏe mạnh, vì hầu hạ bà Ba, khiến cụ Bá ghen ghét đẩy vào lao tù. Từ đây, con đường tha hóa của người nông dân chất phác bắt đầu như trượt dốc không phanh. Ra khỏi tù, người ta không nhận ra thằng Chí Phèo trước đây nữa mà thay vào đó là một hình hài quỷ dữ: “Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm […]. Cái ngực phanh đầy những nét chạm trổ rồng, phượng với một ông tướng cầm chùy, cả hai cánh tay cũng thế. Trông gớm chết!”
Với ngòi bút hiện thực, nhà văn Nam Cao đã chỉ ra rằng, để tồn tại thì những người nông dân hiền lành khốn khổ đã dần trở nên lưu manh hóa và bất cần. Họ không chỉ bị tha hóa về nhân hình mà còn bị tha hóa cả về nhân tính. Ở tù về, Chí như biến thành một con quỷ dữ, chuyên rạch mặt ăn vạ, la làng ầm ĩ. Trở thành tay sai đòi nợ cho Bá Kiến: “Hắn đã đập nát biết bao nhiêu cảnh yên vui, làm chảy máu và nước mắt của biết bao nhiêu người dân lương thiện”. Không những thế, những hành động dã man ấy hắn đều làm trong lúc say: “ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, […] đập đầu, rạch mặt, giết người trong lúc say”. “Những cơn say của hắn tràn từ cơn này sang cơn khác thành những cơn dài mênh mang” khiến cho hắn chưa boa giờ tỉnh táo để ý thức về những việc mình đã và đang làm.
Chính vì trở thành “con quỷ dữ của làng Vũ Đại” mà tất cả mọi người đều cố tránh xa hắn, ngay cả khi hắn “kêu làng, không bao giờ người ta vội đến” bởi đã quá quen với cảnh hắn la làng ăn vạ. Không ai thèm chửi nhau với hắn, không ai công nhận hắn, ngay cả Thị Nở – người phụ nữ “xấu ma chê quỷ hờn” cũng không cần hắn. Khi ấy, hắn mới tỉnh ngộ nhận ra bi kịch thê lương của mình: bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người. Hắn kêu lên: “Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa”. Đó là những câu hỏi đầy cay đắng và không có lời giải đáp. Lương thiện của con người là ở trong chính mỗi người chúng ta. Vậy mà Chí lại phải đi “đòi” lương thiện. Chính cái xã hội vô nhân tính đã cướp mất lương thiện và còn khốn nạn hơn, ngay cả cái quyền được làm một con người tử tế cũng bị xã hội ấy tước đoạt mất
Qua tấn bi kịch của Chí Phèo, nhà văn Nam Cao đã cho người đọc thấy một hiện thực xót xa về cuộc sống và số phận của người nông dân trước Cách mạng. Đó chính là cuộc sống bế tắc và bần cùng, người nông dân từ tha hóa đã dẫn đến lưu manh hóa. Phản ánh bi kịch ấy, nhà văn Nam Cao cũng chỉ rõ nguyên nhân là mẫu thuẫn xã hội sâu sắc đã đẩy người nông dân đến bước đường cùng.
Trong tác phẩm, một bên, nhà văn xây dựng hình tượng giai cấp phong kiến thống trị mẫu thuẫn với một bên là người nông dân lương thiện nghèo đói. Hình tượng điển hình cho giai cấp phong kiến thống trị ở nông thôn chính là nhân vật Bá Kiến. Chân dung lão cường hào cáo già Bá Kiến dần dần hiện rõ trong tác phẩm những nét tính cách được thể hiện hết sức sinh động, đầy ấn tượng. Đó là cái lối quát “rất sang”, lối nói ngọt nhạt và nhất là “cái cười Tào Tháo”. Chính sách cai trị của hắn rất khôn ngoan, rảo hoạt: “mềm nắn, rắn buông”, “bám thằng có tóc, ai bám thằng trọc đầu”, “chỉ bóp đến nửa chừng” và “hãy ngấm ngầm đẩy người ta xuống sông nhưng rồi lại vớt nó lên để nó đền ơn”, dùng thằng đầu bò để trị những thằng đầu bò, bởi “Khi cần đến chỉ cho nó dăm hào uống rượu là có thể sai nó đến tác oai tác quái bất cứ anh nào không nghe mình”… Tất cả đã cho thấy tâm địa thâm độc tới ghê sợ của Bá Kiến, lợi dụng cái ác để trục lợi cho mình và dùng cái ác để làm nên cái ác lớn hơn.
Trong khi giai cấp thống trị lọc lõi khôn đời thì người nông dân thấp cổ bé họng lại lâm vào đường cùng, trở thành nạn nhân bị bóc lột và bị đẩy vào con đường tha hóa đến tội nghiệp. Bị đẩy vào tù một cách oan ức, ra tù, Chí muốn tìm đến nhà Bá Kiến để tính sổ. Vậy mà từ chỗ hung hăng đòi “liều chết với bố con” lão Bá Kiến, chỉ sau mấy câu ngọt nhạt và mấy hào lẻ của cụ Bá, Chí Phèo đã trở thành một tên tay sai mới của lão. Xây dựng nên hình tượng nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã cho người đọc thấy được số phận, tình cảnh của người nông dân trước Cách mạng bị xã hội phong kiến đầy bất công đẩy vào con đường tha hóa, bị tước hết giá trị và tư cách của một con người. Mâu thuẫn giữa người nông dân và giai cấp địa chủ ấy được đẩy lên cao trào khi mà Chí đã nhận ra người đã đẩy mình đến cảnh tha hóa chính là Bá Kiến và người cần giết cũng chính là lão ta.
Tuy Chí Phèo đã thức tỉnh được tình cảnh tha hóa của mình và nhận diện được kẻ thù của mình nhưng lúc đó đã là quá muộn. Đây cũng chính là một bi kịch đau đớn của người nông dân và của một con người. Truyện ngắn “Chí Phèo” của Nam Cao là một bản cáo trạng đanh thép đối với xã hội phong kiến bất công đã đẩy con người ta và con đường tha hóa cùng cực nhất. Tuy vậy, nhưng tác phẩm cũng là một minh chứng về tình yêu thương và sự thực tỉnh lương tri của con người.
Tình cờ gặp Thị Nở trong một đêm say đã khiến Chí trở thành một con người khác. Sáng hôm sau tỉnh dậy, Chí cảm thấy bao nhiêu điều mới mẻ: thấy tiếng chim hót vui vẻ, tiếng huyên náo của những người đàn bà đi chợ, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Hắn thấy lòng “bâng khuâng”, “mơ hồ buồn” và lần đầu tiên cảm thấy sợ tuổi già, đói rết, ốm đau và cô độc.
Được Thị Nở chăm sóc, thương yêu, hắn bỗng nhớ lại mơ ước về một mái ấm gia đình “chồng cày thuê cuốc mướn, vợ ở nhà dệt vải” thời trai trẻ. Có thể thấy rằng, dù Thị Nở là người đàn bà dở hơi, xấu ma chê quỷ hờn nhưng lại là người không hề chê bai Chí, là người săn sóc, quan tâm đến anh ta một cách dịu dàng và ân cần nhất. Chính tình yêu ấy làm cho “Xấu mà e lệ thì cũng đáng yêu”, làm cho con quỷ dữ bao năm đã biến mất, thay vào đó là một con người khao khát lương thiện, khao khát làm người chân chính. “Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui” như một lời cầu hôn của Chí với Thị Nở. Bày tỏ mong muốn ấy một cách rất chân thực, giản dị mà chất phác đúng kiểu một anh nông dân, Chí mong muốn được làm lại từ đầu, được sống một cuộc đời khác, cuộc đời bình dị giống như bao người mà Thị Nở chính là cầu nối, là người vun trồng cùng hắn xây dựng. Phải nói rằng, tác giả đã khéo lựa chọn những chi tiết đắt giá để qua đó thể hiện ý nghĩa của sự hồi sinh và khẳng định sức sống của thiên lương, lương thiện trong mỗi con người. Phát hiện và miêu tả tài tình sự thức tỉnh lương tri của Chí Phèo chính là một thành công nghệ thuật đặc sắc của Nam Cao.
Thế nhưng, điều đáng nói là con người đã biết hoàn lương nhưng xã hội ấy lại không thể nào chấp nhận lại họ được nữa. Chí Phèo vừa mới mơ ước về một gia đình thì đã bị bà cô Thị Nở tạt ngay cho một gáo nước lạnh. Chí hiểu rằng, mình có cố gắng làm sao đi nữa thì cũng không thể xóa hết những tội lỗi mà mình gây ra, không thể nào mà trở về hòa nhập với cuộc sống được nữa. Ý thức được điều này, cũng là ý thức được kẻ gây ra bi kịch cho mình, Chí đã tìm đến nhà Bá Kiến kết liễu lão ta và cả chính mình. Điều này là tất yếu bởi lẽ, cánh cửa hoàn lương của Chí đã đóng sầm trước mắt. Để giải quyết sự bế tắc đó, Chí chỉ còn cách là kết thúc cuộc đời mình và kẻ gây nên tội ác. Cái chết ấy là cái chết của một bi kịch đau đớn trước ngưỡng cửa trở về làm người, là tiếng kêu cứu về quyền làm người.
- Kết bài:
Câu chuyện kết thúc bằng một cái kết đầy bi thương, tất yếu của cái xã hội thực dân phong kiến xấu xa, đen tối đã không cho con người ta sống. Cho đến chừng nào nó còn tồn tại thì còn những con người bị lưu manh hóa, còn những “Chí Phèo con” bên lò gạch bỏ hoang. Bằng nghệ thuật xây dựng nhân vật tài tình, cách kể chuyện cô đọng, dồn nén, Nam Cao đã khiến cho người đọc bao thế hệ sẽ mãi không thể quên “Chí Phèo” bởi nó là hình ảnh tố cáo mạnh mẽ nhất cái xã hội xấu xa, đen tối ấy. Nhà văn đã cho người đọc thấy nỗi thống khổ cùng cực nhất của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng. Đó không phải chỉ là nỗi nghèo khổ vật chất mà còn là nỗi đau tinh thần, nỗi đau bi tước đoạt quyền sống, quyền làm người lương thiện, tường chừng như rất đỗi giản đơn, bình dị mà vô vọng.