tai-lieu-luyen-thi-ngu-van-12

Tài liệu luyện thi Ngữ văn 12 (đầy đủ và chi tiết)

Tài liệu luyện thi Ngữ văn 12 (đầy đủ và chi tiết)

Tác giả Nguyễn Tuân.

I. Tiểu sử.

– Quê hương: làng Nhân Mục, Thanh Xuân, Hà Nội.

– Gia đình: xuất thân trong gia đình nhà nho khi Hán học đã tàn, cha tài hoa bất đắc chí, sinh bất phùng thời, có thể nói môi trường gia đình, đặc biệt là người cha có ảnh hưởng sâu sắc tới cá tính con người và phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân.

– Bản thân :

+ Trước Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân là cây bút tiêu biểu cho văn xuôi lãng mạn thời kì cuối cùng.

+ Sau Cách mạng tháng Tám, nhà văn nhiệt thành đi theo cách mạng, hòa nhập vào cuộc sống lớn của nhân dân, đem ngòi bút phục vụ đắc lực hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ và công cuộc xây dựng đất nước.

+ Đối với lịch sử văn học Việt Nam, Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn có những đóng góp to lớn vào sự phát triển của văn xuôi quốc ngữ hiện đại, đặc biệt ở riêng thể loại tùy bút.

– Tác phẩm tiêu biểu:Vang bóng một thời”, “Tùy bút kháng chiến” (1955), “Sông Đà” (1960), “Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi” (1972), Tuyển tập Nguyễn Tuân (1981)

II. Con người:

– Nguyễn Tuân là một trí thức giàu lòng yêu nước và tinh thần dân tộc: có những nét riêng biệt

+ Gắn bó với các giá trị văn hóa cổ truyền của dân tộc: tiếng mẹ đẻ, kiệt tác văn chương, nhạc điệu hoặc đài các của thể ca trù hoặc dân dã của các điệu hòa xứ Quảng…

+ Say mê cảnh sắc đẹp của quê hương đất nước.

+ Trân trọng những thú chơi tao nhã của trí thức nho gia tài hoa sinh bất phùng thời.

– Ý thức cá nhân của Nguyễn Tuân phát triển rất cao:

+ Quan niệm “Đời là một trường du hí” – “Sống là chơi mà viết cũng là chơi”. Viết là một hình thức chơi văn độc đáo nhưng đã đẩy việc chơi đến đỉnh cao – chơi một cách nghệ thuật. Với Nguyễn Tuân viết văn trước hết là để khẳng định cá tính độc đáo của mình.

+ Ham du lịch, nâng niềm ham thích này thành lý thuyết – “chủ nghĩa xê dịch”, với lối sống tự do, phóng túng, quá khuôn khổ chế độ thuộc địa đương thời.

– Con người Nguyễn Tuân rất mực tài hoa, uyên bác:

+ Tài hoa: tuy viết văn nhưng am hiểu nhiều môn nghệ thuật khác: hội họa, điêu khắc, sân khấu, điện ảnh…

+ Biết vận dụng con mắt nhiều ngành văn hóa, nghệ thuật khác để tăng cường khả năng quan sát, biểu hiện thế giới của nghệ thuật ngôn từ.

+ Sự uyên bác: ham đọc, tạo cho mình vốn tri thức sâu rộng, bề thế. Chính điều đó làm giàu chất tài hoa nghệ sĩ, vẽ nên bức tranh đời sống, con người chân xác, đầy “sinh sắc” ngay cả những nơi mà ông chưa đặt chân tới.

– Nguyễn Tuân là nhà văn biết quí trọng nghề nghiệp văn chương:

+ Quan niệm lao động nghệ thuật là hình thức lao động nghiêm túc, thậm chí “khổ hạnh”.

+ Trân trọng nghề viết là trân trọng độc giả, trân trọng chính mình – lòng tự trọng, ý thức giữ gìn nhân cách.của bản thân. (Nhân cách của nhà văn chính là văn cách của anh ta – ý của Trần Dần).

+ Dứt khoát phân biệt nghề văn với thói con buôn vụ lợi (“Nghệ thuật là cái mà bọn con buôn cho là vô ích. Ở đâu có đồng tiền, ở đó cái đẹp không tồn tại” – Nguyễn Tuân)

III. Sự nghiệp sáng tác.

1. Quá trình sáng tác và các đề tài chính.

a. Quá trình sáng tác:

– Trước cách mạng, ông thử bút qua nhiều thể loại: thơ, bút kí, truyện ngắn hiện thực trào phúng…Năm 1938, nhận ra sở trường tùy bút. Từ đây, ông bắt đầu có những tác phẩm thành công xuất sắc: “Vang bóng một thời”

– Sau cách mạng tháng Tám, vẫn tiếp tục khai thác thế mạnh tuỳ bút và có một số tuỳ bút nổi tiếng: “Sông Đà”, “Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi”.

b. Những đề tài chính:

* Trước cách mạng: 3 đề tài chính:

– Vẻ đẹp vang bóng một thời:

+ Khơi nguồn từ những cảm giác mới lạ, của những vẻ đẹp trong quá khứ còn vương sót lại trong hiện tại.

+ Đối tượng miêu tả: phong tục cổ truyền, thú tiêu dao lành mạnh, cách ứng xử đầy nghi lễ…

+ Giá trị:

• Phát hiện đầy trân trọng về chất tài hoa, nghệ sĩ của lớp nhà nho xưa trong đời sống văn hoá, sinh hoạt hàng ngày.

• Tình yêu, niềm tự hào truyền thống văn hoá dân tộc. Thực chất là nổi loạn của cái “tôi” tài hoa, khinh bạc chống lại xã hội phàm tục đương thời.

+ Tác phẩm: “Vang bóng một thời”, “Tóc chị Hoài”.

– Chủ nghĩa xê dịch:

+ Nguồn gốc: lý thuyết từ phương Tây, chủ trương: đi là: Không cần mục đích.Thay đổi chỗ ở, tìm cảm giác mới lạ, thoát li mọi trách nhiệm với gia đình, quê hương.

+ Với Nguyễn Tuân, Xê dịch là:

• Thay đổi thực đơn cho các giác quan.

• Biểu hiện thái độ bất mãn với hiện thực xã hội “ối a ba phường”- một sân khấu hề kịch.

• Thể hiện lòng yêu nước, tinh thần dân tộc qua những “trang hoa”, “tờ hoa” về phong cảnh. Nguyễn Tuân có những khám phá thú vị, bất ngờ bằng ngòi bút tài hoa, tấm lòng gắn bó, tự hào, kiêu hãnh về đất nước, về giá trị truyền thống dân tộc mà nhờ đi mới biết.

+ Tác phẩm: “Một chuyến đi”, Chiếc lư đồng mắt cua”.

– Đời sống trụy lạc:

+ Cung cấp cho Nguyễn những kích thích mạnh về giác quan: rượu cồn, thuốc phiện, hát ả đào…

+ Nội dung: Cái tôi hoang mang, hoảng loạn, không phương hướng, bế tắc. Khao khát vươn tới cái thanh cao, thánh thiện nhờ đôi cánh nghệ thuật.

+ Tác phẩm: “Chiếc lư đồng mắt cua”.

* Sau cách mạng: Tiếp tục đề tài: chủ nghĩa xê dịch.

– Động lực: Lòng yêu nước, tinh thần dân tộc, Nguyễn Tuân chào đón, phục vụ cách mạng nhiệt tình.

– Mục đích xê dịch:

+ Kiếm tìm vẻ đẹp của non sông – chất “vàng mười” của thiên nhiên.

+ Phát hiện “chất vàng mười đã qua thử lửa”, chất ngọc tiềm ần trong các tầng lớp nhân dân – những người lao động đang tiến hành xây dựng, chiến đấu và bảo vệ đất nước.

+ Hình tượng nghệ thuật trung tâm: nhân dân vừa dũng cảm, anh hùng vừa là nghệ sĩ tài hoa.

– Nội dung:

+ Tôn vinh tầm vóc, vị thế một dân tộc có văn hoá, sang trọng, sinh ra trên mảnh đất có bề dày lịch sử, ngàn năm văn hiến.

+ Nhuận sắc cho vẻ đẹp của con người Viêt Nam, dân tộc Việt Nam (miêu tả độc đáo chất tài hoa, nghệ sĩ)

2. Phong cách nghệ thuật.

a. Nhận định chung: gói gọn trong một chữ “ngông”:

“Ngông” là ,ột việc làm khác đời, ngược đời, bất bình thường một cách tài hoa để khinh đời, nhạo đời. Ngoài tài hoa, người chơi phải có nhân cách. Thường thích những cái độc đáo không giống ai.

– Nguyễn Tuân chơi ngông bằng văn chương: viết cái gì cũng phải khác lạ (đề tài, nhân vật, kết cấu, cách hành văn, sáng tạo hình ảnh, dùng từ, đặt câu…). Văn khoe tài hoa, uyên bác.

+ Cơ sở:

• Đối lập với môi trường thị dân tầm thường ngày xưa.

• Khẳng định văn cách, cá tính.

• Nguyễn Tuân kế thừa truyền thống chơi ngông trong văn chương: Nguyễn Công Trứ, Tú Xương, Tản Đà…

b. Đặc điểm phong cách:

* Sự tài hoa, uyên bác:

– Tài hoa:

+ Cơ sở: quan niệm viết một tác phẩm cần có cái độc đáo, khác đời

+ Biểu hiện:

• Tiếp cận đối tượng ở phương diện: văn hóa nghệ thuật thẩm mĩ

• Tiếp cận con người ở góc độ: nghệ sĩ; mở rộng phạm vi khái niệm: không chỉ là những người hoạt động trong lĩnh vực nghệ thuật mà bất kể ai, làm nghề gì, nếu biết nâng công việc của mình lên một cách phi thường, siêu phàm, độc đáo đều là nghệ sĩ; phát hiện chất “vàng mười đã qua thử lửa” trong những con người, những công việc tưởng như rất bình thường, dung dị.

• Tiếp cận thiên nhiên: như một tuyệt tác nghệ thuật của tạo hóa, vừa kì vĩ vừa nên thơ quen thuộc.

– Uyên bác:

+ Vận dụng tri thức của nhiều ngành nghệ thuật, nhiều lĩnh vực đời sống để miêu tả đối tượng.

+ Giàu thông tin, giàu giá trị tư liệu. Lối viết “bới lông tìm vết”, khám phá tới “sơn cùng thủy tận” đối tượng.

+ Chữ nghĩa giàu có:

• Cơ sở: quan niệm viết văn là dốc cạn kho tàng chữ nghĩa để chạy đua cùng tạo hóa, để khoe chữ.

• Biểu hiện: Sáng tạo từ ngữ, hình ảnh trong văn mới lạ, ấn tượng, giàu sức biểu cảm nhờ liên tưởng chính xác, tài hoa: nước Hồ Gươm xanh màu xanh “canh rau muống luộc nhừ”, nước Sông Đà mùa thu “lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa”, “chuối ngự ngọt còn thơ Tú Xương rất chát”… tạo khoái cảm thẩm mĩ cho người đọc. Biệt tài cá biệt hóa sắc độ các sự vật, hiện tượng: trăng “vàng nẫu”, áo cà sa “vàng sư sãi”, chuối vàng “giẫy nẫy”…

+ Câu văn co duỗi nhịp nhàng giàu nhạc điệu.

* Cảm quan nghệ thuật sắc nhọn, phong phú: Hứng thú đặc biệt trước những cảnh tượng gây ấn tượng mạnh với giác quan nghệ sĩ.

– Cơ sở: quan niệm sống hay viết cũng không chấp nhận cái gì phẳng lặng, dễ dãi, chung chung, nhàn nhạt, đơn chiều, luôn thèm khát những cảm giác mạnh, hứng thú với những cái đẹp tuyệt vời hoặc tuyệt đỉnh dữ dội.

– Biểu hiện: đối tượng của những trang viết ấn tượng: thác (sông Đà), đèo (Cổng Trời), bão (Cô Tô), gió (Lào)…

3. Tùy bút Nguyễn Tuân.

– Đặc trưng thể loại:

+ Thuộc thể có tính chất trung gian, vừa có tính chất kí (ghi chép), vừa có chất thơ (trữ tình) vừa mang màu sắc triết học trong tư duy.

+ Thể văn tự do, tùy hứng nhưng cũng không quá phóng túng.

+ Nguyên tắc kết cấu: vừa tán, vừa tụ

• Bề mặt: tản mạn, lắp ghép, chắp vá, đầu Ngô mình Sở.

• Bề sâu: nhất quán về ý nghĩa, tư tưởng: chủ đề, tạo trục xuyên suốt  người viết tùy bút tài hoa: trường liên tưởng phong phú, biến hóa, tán tụ như khối vuông ru bích.->Tùy bút Nguyễn Tuân: đỉnh cao tùy bút Việt Nam,viết một bài tùy bút hay không quá khó nhưng để viết như một sở trường chỉ có Nguyễn Tuân.

• Qua tùy bút, thấy một cái tôi tài hoa, uyên bác. Viết nhiều tùy bút, nhưng mỗi tùy bút đều có nét riêng, với khả năng sáng tạo dồi dào.

– Sự thống nhất và vận động của phong cách Nguyễn Tuân qua những sáng tác trước và sau cách mạng tháng Tám.

+ Sự thống nhất (4 đặc điểm)

+ Sự vận động:

• Đối tượng: Trước cách mạng, những con người đặc chủng, đặc tuyển > Sau cách mạng, những con người bé nhỏ, bình thường.

• Cảm quan sắc nhọn: Trước cách mạng, tìm trong đời sống trụy lạc > Sau cách mạng , tìm trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.

• Tùy bút: Trước cách mạng, hướng nội, cái tôi khinh bạc, choán ngợp mọi đối tượng > Sau cách mạng , làm giàu bởi chất kí, thiên về hướng ngoại, giọng văn đôn hậu, nếu có khinh bạc là với kẻ thù. Qua tùy bút Nguyễn Tuân người đọc cảm nhận về con người Việt Nam có nghĩa khí, anh hùng và tư thế sang trọng của một đất nước có hàng nghìn năm văn hiến. Văn Nguyễn Tuân không chỉ là lâu đài chữ nghĩa mà còn là bể thẳm tâm hồn.


Tùy bút “Người lái đò Sông Đà”.

1. Hình tượng Sông Đà.

– Lời đề từ dẫn từ:

+ Thơ Nguyễn Quang Bích: “Chúng thủy giai đông tẩu/Đà giang độc bắc lưu”

+ Thơ của nhà thơ Ba Lan: “Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông”: đẹp đẹp, độc đáo là nguồn cảm hứng và đối tượng thẩm mỹ của Nguyễn Tuân.

a. Tính hung bạo.

– Thế lực thứ nhất: Vách đá “dựng vách thành”, được đặc tả bằng một loạt các liên tưởng, so sánh  cụ thể, độc đáo:

+ Mặt sông chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời.

+ Chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu.

+ Có quãng con nai con hổ đã có lân vọt từ bờ này sang bờ kia.

+ Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh…

+ Ấn tượng: lòng sông hẹp, sâu, dốc thẳng đứng, tạo cảm giác rợn lạnh.

– Thế lực thứ 2 – Ghềnh đá ở Hát Loong:

+ Nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt.

→ Câu văn có kết cấu trùng điệp, liên hoàn, nhịp ngắn tạo giọng văn dồn dập, gấp gáp, từ ngữ tả âm thanh dồn đuổi dữ dội, gây ấn tượng hãi hùng, rùng rợn của dòng sông.

– Thế lực thứ 3 – Hút nước tử thần:

+ Từ trên nhìn xuống: rộng như cánh quạ đàn và sâu giếng bê tông.

Mặt giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thủy tinh khối đúc dày, khối pha lê xanh.

+ Từ đáy hút nước nhìn ngược lên vách thành hút mặt sông chênh nhau tới một cột nước cao đến vài sải.

+ Thuyền trồng cây chuối ngược. Hút nước tử thần, chết chóc.

Nhận xét:

• Đặc tả hút nước Sông Đà: rộng, sâu, sáng, xanh trong thăm thẳm.

• Kết hợp thủ pháp của văn học và thủ pháp của điện ảnh, trong cảm nhận của người quay phim, của người xem phim, truyền đến độc giả cảm giác chân thực, sống động như tận mắt chứng kiến

→ Sông Đà không chỉ hung bạo mà còn đẹp một cách hùng vĩ.

– Thế lực thứ 4 – Trận địa thác đá

– Thác:

+ Réo gần mãi, lại réo to mãi lên

+ Giọng “Nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo”.

+ “Rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa như nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”: dùng lửa để tả nước – hai yếu tố vồn tương khắc, giờ lại hòa hợp để tương sinh trong một so sánh độc đáo gợi không khí của một trận cuồng lửa, cháy rừng, âm thanh cùng quẫn tuyệt vọng > nhấn mạnh sức tàn phá khủng khiếp, hủy diệt ghê gớm của Sông Đà.

– Đá:

+ Lực lượng hùng hậu: đá hòn , đá tảng, đá tướng, đá quân, đá tiền vệ, hậu vệ, mặt hòn đá nào cũng ngỗ ngược, “nhăn nhúm”, “méo mó” “đứng, ngồi, nằm, nghiêng với những nhiệm vụ riêng”

+ Bày thành 3 tuyến nhằm tước đoạt và hủy diệt đến cùng sự sống của con người: giở mọi thủ đoạn, miêu ma chước quỷ để dẫn dụ, phục kích > “binh pháp” sâu hiểm của “thần sông thần đá”.

+ Chọn khúc ngoặt – khi tầm nhìn bị hạn chế để đánh phục kích.

+ Dụ người vào sâu thế trận, đánh quật vu hồi, cô lập hóa, chặn mọi đường sinh.

+ Khi giáp lá cà: giở mọi ngón đòn hiểm ác: nước thác reo hò làm thanh viện…uy hiếp tinh thần đối phương. Thạch trận không chỉ có vẻ hung hãn, dữ dằn của vách đá, hút nước mà còn bộc lộ bản chất nham hiểm, xảo quyệt

+ Ấn tượng về con sông:

• Mang diện mạo một kẻ thù, dòng sông hung thần, tâm địa hiểm ác

• Thách thức đối với con người, gợi ham muốn chinh phục, khám phá, chế ngự dòng sông hung bạo.

• Lối viết bạo liệt, Nguyễn Tuân đi tìm thứ vàng 10 của thiên nhiên, tiềm năng của ngành thủy điện.

b . Tính trữ tình:

Điểm nhìn miêu tả động: từ trên cao, xa, theo mùa, ngồi thuyền đi trên mặt sông. Những liên tưởng, tưởng tượng phong phú. Từ trên cao thấy dáng vẻ của mỹ nhân – Người đi rừng đã lâu gặp lại cố nhân. Từ trên thuyền như một  tình nhân.

– Dáng vẻ:

+ “Tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Câu văn dài không dấu, vẻ đẹp duyên dáng, thơ mộng, e ấp như mang cả hương thơm quyến rũ của núi rừng (áng tóc thơm hương hoa ban hoa gạo). Như mỹ nhân kiều diễm, hoà dáng hình nhan sắc của mình vào vẻ đẹp của thiên nhiên và cuộc sống con người.

– Màu nước:

+ Mùa xuân dòng xanh ngọc bích chứ Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm, Sông Lô. Màu nước cũng là màu trời, cỏ cây tươi tốt hai bờ sông.

+ Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về. Dòng chẩy chậm nặng. Khả năng quan sát tinh tế, ngôn ngữ cá thể hóa cao độ nhờ những so sánh độc đáo, chân xác để lọc ra sắc nước riêng biệt của Sông Đà. Bác bỏ cách thực dân Pháp gọi Sông Đà là sông Đen – con sông chết chóc. Điều đó thể hiện sâu sắc lòng yêu nước của Nguyễn Tuân.

– Cảm nhận con Sông Đà trên tư cách một người đi rừng đã lâu gặp lại “cố nhân”:

+ “Màu nắng tháng ba Đường thi”: liên tưởng độc đáo, nắng sông Đà như ngậm thơ, ngậm họa.

+ Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng. Nắng toả niềm vui rạo rực trong lòng, dòng sông khi xa thì nhớ khi gần thì thương, gặp SĐ như gặp lại cố nhân mà có cảm giác “đằm đằm âm ấm”, một cảm giác bồi hồi xao xuyến.

– Khung cảnh đôi bờ:

+ Bút pháp dùng động để tả tĩnh, đặc tả cái thanh tịnh tuyệt cùng của bờ bãi sông Đà.

+ Hình ảnh: đẹp, trong trẻo, thanh khiết, liên tưởng giàu chất thơ: Lá ngô non đầu mùa, cỏ gianh đồi núi ra những nõn búp, con nai thơ ngộ, áng cỏ sương, tinh khôi, đọng hương của trời, sữa của đất ngào ngạt, non tơ.

+ Bờ sông: hoang dại như một bờ tiền sử, hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa > không xác định, không cụ thể nhưng giàu sức gợi, gợi về quá khứ, gợi trăm năm cổ tích, khơi lại những trầm tích tâm hồn người Việt trong những trang viết cổ sơ. Lấy những giá trị văn hóa truyền thống để so sánh, vĩnh viễn hóa bờ bãi sông Đà dòng sông mang linh hồn của vùng đất.

+ Tiếng còi sương: âm thanh trong tâm tưởng, dội về từ quá khứ, chi tiết độc đáo, diễn tả sâu sắc cái yên lặng khôn cùng của bờ sông, tĩnh đến mức người và vật giao cảm để lặng tìm âm thanh tự tâm hồn, tự thời gian thăm thẳm.

c. Dấu ấn phong cách nghệ thuật.

– Hình tượng sông Đà phù hợp với cái tôi độc đáo của Nguyễn Tuân, nhà văn của tình cảm và cảm giác mãnh liệt.

– Tiếp cận đối tượng ở phương diện: văn hóa nghệ thuật thẩm mĩ

– Nét tài hoa, uyên bác trong miêu tả thiên nhiên. Ngòi bút tài hoa và biến hóa của Nguyễn Tuân đã thổi linh hồn cho Sông Đà, hiện lên với những tính cách đối nghịch mà thống nhất: hung bạo và trữ tình, nguồn cảm hứng vô tận cho nghệ thuật. Sông Đà hiện thân cho vẻ đẹp của thiên nhiên trong mối tương giao muôn thủa với con người vừa là kẻ thù vừa là bầu bạn, ý nghĩa triết học của hình tượng

– Ca ngợi vẻ đẹp của quê hương đất nước. Lòng yêu nước của Nguyễn Tuân.

2. Hình tượng người lái đò.

a. Khái quát:

+ Khắc họa trong tương quan với hình ảnh Sông Đà hung bạo.

+ Dụng ý: phẩm chất dũng cảm, gan dạ, kiên cường chỉ bộc lộ rõ nhất khi nhân vật đương dầu với khó khăn, thử thách. Giả sử đặt ông lái trong khung cảnh thi vị trữ tình của Sông Đà thì nhân vật sẽ trở thành một nghệ sĩ đa tình, lẫn vào thế giới nhân vật của Nguyễn Tuân trước Cách mạng. > Ông lái đò dưới ngòi bút Nguyễn Tuân vừa thông minh dũng cảm vừa tài hoa nghệ sĩ trong thiên sử thi leo ghềnh vượt thác.

b. Ngoại hình.

– Không tên, rất ít nét ngoại hình… Điều này không phải ngẫu nhiên, nhà văn muốn dựng lên một người lái đò vô danh bình dị để chứng tỏ rằng những con người như thế không phải là đặc biệt, có thể tìm thấy ở bất cứ đâu trong cuộc sống hàng ngày.

c. Phẩm chất.

* Thông minh, dũng cảm: Tương quan lực lượng giữa một bên là dòng sông hung bạo với sức mạnh thần thánh, một bên là người lái đò bé nhỏ với con thuyền đơn độc. Nguyễn Tuân miêu tả cuộc vượt thác như một trận đánh có nhiều hồi, nhiều đợt, mỗi đợt lại có những nguy hiểm, thử thách khác nhau.

– Trùng vây 1:

+ Lực lượng: đá tướng, đá tiền vệ với nhiều thủ đoạn nham hiểm. Kẻ thù rất hùng hậu, đông đảo, dữ dằn, hung hãn.

+ Giăng sẵn trận đồ bát quái: tập đoàn cửa sinh cửa từ, hệ thống boongke, pháo đài đá chìm nổi, lộ diện hay giấu mặt:

• 4 cửa tử, 1 cửa sinh.

• Sóng trận địa phóng thẳng

• Mặt nước hò la vang dậy, ùa vào mà bẻ gẫy cán chèo võ khí trên cánh tay ông lái như dọa dẫm, sấn sổ, hiếu chiến.

• Sóng nước như quân liều mạng đội thuyền lên rất hùng hổ.

• Nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình giữa trận nước vang trời thanh la não bạt. Con sông hung hăng như một đấu sĩ bất bại.

• Miếng đòn hiểm độc nhất: luồng nước(..) bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò > giở ngón đòn hiểm hóc quyết định nhằm nốc ao đối phương.

– Vượt trùng vây 1:

+ Hai tay giữ mái chèo .

+ Cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch.

+ Chỉ huy ngắn gọn tỉnh táo.

– Trùng vây 2:

+ Tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn. Đó là độ nham hiểm, xảo quyệt của con sông.

+ Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá. Thiên nhiên hùng mạnh như thú dữ.

+ Bốn năm bọn thủy quân cửa ải nước bên bờ trái liền xô ra định níu thuyền lôi vào tập đòn cửa tử. Con sông với sữ đeo bám dai dẳng, quyết liệt.

+ Không ngừng khiêu khích.

– Vượt trùng vây thứ 2:

+ Không một chút nghỉ tay nghỉ mắt.

+ Nắm chặt lấy cái bờm sóng đúng luồng > ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, lái miết một đường chéo về phía cửa đá > thành thạo, chính xác, dũng mãnh trong từng động tác.

– Trùng vây 3:

+ Ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả.

+ Luồng sống ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác.

– Vượt trùng vây 3:

+ Phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa.

+ Thuyền vút qua cổng đá cánh mở cánh khép.> dũng cảm, nhanh gọn, dứt khoát.

Nhận xét: Tương phản hai lực lượng: một bên là thiên nhiên – thác đá Sông Đà bạo liệt, hung tàn, sức mạnh vô song, một bên là con người – ông lái đò bé nhỏ trên con thuyền đơn độc, cạn kiệt sức để nhấn mạnh bản lĩnh, sự dũng cảm và khả năng chinh phục tự nhiên của con người.

* Tài hoa nghệ sĩ.

+ Nắm chắc qui luật của thần sông thần đá, thuộc qui luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở. Trong cuộc chiến đấu một mất một còn với thiên nhiên với kẻ thù bốn chân, con người am hiểu và làm chủ quy luật là con người tự do, dẫu đó là qui luật đầy khắc nghiệt, chỉ cần một chút lơi tay, do dự và mất bình tĩnh là có thể trả giá bằng cái chết.

+ Động tác thuần thục như nghệ sĩ với bản nhạc của mình, người nghệ sĩ ấy thật sự tự do tự trong diễn tấu của bản hùng ca vượt thác.

+ Ra khỏi cuộc chiến khiêm nhường giản dị, bình thản nói về cá anh vũ, về cơm lam…

e. Dấu ấn phong cách nghệ thuật.

– Nét thống nhất:

+ Nguyễn Tuân vẫn tiếp cận con người ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ.

+ Sự tài hoa, uyên bác. Kết hợp kiến thức uyên bác của nhiều lĩnh vực: võ thuật, thể thao, quân sự… và trí tưởng tượng phong phú cùng kho chữ nghĩa giàu có. (Nguyễn Tuân tả cuộc vượt thác bằng cách nhìn một trận đánh, một “thủy trận”, với những hiểu biết và những danh từ quân sự: nào là “mai phục”, “đánh khuýp”, “vu hồi”, “boong ke chìm và pháo đài nổi”… Có lúc, cuộc đấu của ông lái đò với thác nước lại được tả như một keo vật, một trận đấu võ, với những “đá trái”, “đá phải”, “đòn tía, đòn âm”)… bản trường ca về người anh hùng – nghệ sĩ lái đò trong nghệ thuật vượt thác.

– Nét khác biệt:

+ Trước cách mạng, ngòi bút Nguyễn Tuân thường hướng tới những con người đặc tuyển, những tính cách phi thường. Sau cách mạng, những con người tài hoa nghệ sĩ của ông có thể tìm thấy ngay trong cuộc sống lao động thường ngày.

+ Trước cách mạng, nhà văn thường khám phá vẻ đẹp thiên lương, thú chơi cao sang, đài các lớp nhà nho tài hoa bất đắc chí. Sau cách mạng, ông đi sâu phản ánh vẻ đẹp thể chất và tâm hồn mà ông gọi “chất vàng mười đã qua thử lửa” của những người lao động bình dị. Hình ảnh ông lái hiện lên với tư cách người anh hùng trong lao động – nghệ sĩ làm chủ thiên nhiên. Nguyễn Tuân xưng tụng tài hoa ông lái đò nhưng văn Nguyễn Tuân cũng xưng tụng chính Nguyễn Tuân, nhà văn cũng là ông lái tài hoa trên con đò chữ nghĩa giữa dòng sông văn chương không kém thác ghềnh. Ông xứng đáng được mệnh danh là “chuyên viên cao cấp tiếng Việt”, là “người thợ kim hoàn của chữ” (Ý của Tố Hữu). Trong lâu đài văn chương nghệ thuật dân tộc Việt Nam ở thế kỷ 20, rất dễ nhận ra phần chạm trổ tinh xảo của người nghệ sĩ ngôn từ Nguyễn Tuân.


Truyện ngắn “Vợ chồng A phủ” (Tô Hoài).

I. Tác giả, tác phẩm.

1. Tác giả Tô Hoài.

– Quê: huyện Thanh Oai – Hà Đông (nay thuộc phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, Hà Nội). Bút danh Tô Hoài gắn với hai địa danh: sông Tô Lịch và phủ Hoài Đức. Làng nhỏ ven đô trở thành một không gian nghệ thuật quen thuộc trong sáng tác.

– Con người:

+ Gắn bó sâu sắc với lứa tuổi thiếu nhi. Đây là cơ sở của những tác phẩm viết cho trẻ em…..

+ Đi nhiều, vốn sống phong phú, đặc biệt trong lĩnh vực phong tục và sinh hoạt đời thường > có những trang viết chân xác, đằm thắm về đất và người nhiều vùng đất, nhất là đất và người Tây Bắc.

+ Có cái nhìn hồn nhiên, trong trẻo mà sắc sảo, hóm hỉnh, thông minh về các sự vật, hiện tượng, con người trong cuộc sống.

– Sáng tác với nhiều thể loại: đa dạng (160 đầu sách).

– Đắc sắc nghệ thuật:

+ Khả năng miêu tả, phân tích tâm lí nhân vật chân xác, sâu sắc, tinh tế.

+ Cách kể chuyện sống động, hóm hỉnh, có duyên.

+ Lời văn: giàu tính tạo hình và chất thơ.

– Vị trí văn học sử: cây bút văn xuôi tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại.

– Tác phẩm tiêu biểu: Dế mèn phiêu lưu kí (đồng thoại, 1941), O chuột (tập truyện ngắn về loài vật, 1942), Nhà nghèo (tập truyện ngắn, 1944), Truyện Tây Bắc (tập truyện, 1953), Mười năm (tiểu thuyết, 1967) Quê nhà (tiểu thuyết 1980 )… Cát bụi chân ai ( hồi kí 1992 )

2. Tác phẩm.

– Hoàn cảnh ra đời: Năm 1952 nhà văn Tô Hoài đi với bộ đội trong chiến dịch Tây Bắc. Cái kết quả trước nhất và lớn nhất của chuyến đi tám tháng ấy, như Tô Hoài đã kể lại: ‘’Đất nước và con người miền Tây đã để thương để nhớ cho tôi nhiều quá’’. Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ – tác phẩm nổi trội nhất trong tập Truyện Tây Bắc là một bông hoa tươi đẹp của mối tình gắn bó sâu nặng của nhà văn với đất nước và con người Tây Bắc.

– Kết cấu 2 phần :

+ Phần 1: Cuộc sống khổ đau của Mị và A Phủ ở Hồng Ngài.

• Những trang viết tài hoa về hương sắc vùng cao.

• Thể hiện giá trị hiện thực, nhân đạo mới mẻ, cảm động.

• Khả năng miêu tả và phân tích tâm lí nhân vật sắc sảo.

+ Phần 2: Cuộc sống đổi đời của Mị và A phủ ở Phiềng Sa.

II. Phân tích văn bản.

1. Nhân vật Mị.

a. Giới thiệu nhân vật Mị:

– Cách mở đầu: “Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lí Pá Tra…” : giọng kể trầm giống với cách mở đầu trong cổ tích, chuẩn bị không khí cổ tích cho mẫu nhân vật cổ tích xuất hiện, tạo tâm thế cho người đọc tiếp nhận một mo-tip quen thuộc.

– Không gian: “ngồi quay sợi bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa” . Mị xuất hiện cùng thế giới đồ vật nặng chì, câm lặng.

– Vị trí người ở của nhân vật.Hình ảnh tảng đá dường như là một đồng dạng của cô gái – câm nín, ngậm khối u uất khó cất lời, bất động, không sinh khí, không sẻ chia.

+ Tư thế: “cúi mặt, mặt buồn rười rượi” với nhịp điệu mòn mỏi, thường xuyên, lặp lại vô hồn – “lúc nào cũng vậy” .

+ Đối lập: hình ảnh một cô gái lẻ loi, đơn độc, u trầm, buồn khổ – cảnh tấp nập, giàu sang nhà thống lí.

* Nhận xét:

– Phác hoạ hình ảnh người con gái câm lặng như chìm lẫn vào thế giới đồ vật vô tri, không cảm giác. Hé lộ cuộc sống tủi cực, cảnh ngộ éo le của nhân vật.

– Cách dẫn dắt khéo léo: điểm nhìn từ xa, bên ngoài tiến gần hơn vào bên trong để thâm nhập nhân vật; tạo ra mâu thuẫn ở lời kể để vén bức màn bí mật về một phận người (hỏi ra mới rõ,… cô ấy là vợ A Sử, con trai thống lí Pá Tra).

b. Cuộc đời làm dâu gạt nợ:

– Thời con gái: trẻ đẹp có tài thổi sáo, bao người mê, có tình yêu đẹp.

– Cảnh ngộ: bố lấy mẹ không đủ tiền cưới, phải vay nhà thống lí, tận khi già mà chưa trả hết nợ. Mẹ chết, thống lí đòi lấy Mị làm con dâu để xoá nợ, mối nợ truyền kiếp, dai dẳng, khó thoát, bóng của kiếp sống nô lệ, cùng khổ đổ lên người dân nghèo qua thế hệ này đến thế hệ khác. Câu nói từ bên trong của bố Mị “không thể nào khác được” giống như một dấu triện đóng lên thân phận nô lệ của Mị.

– Phản ứng: đề nghị bố lao động trả nợ chứ quyết không muốn bị bán cho nhà giàu: “Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm nương trả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu” .

– Hành động của Mị cho ta thấy:

+ Lựa chọn tỉnh táo: thà sống vất vả, nghèo khổ mà tự do còn hơn sống trong giàu sang mà chịu đoạ đày nô lệ.

+ Khát vọng tự do mãnh liệt và niềm tin trong sang, hồn nhiên của tuổi trẻ.

– Bị nhà thống lí lừa bắt đi:

+ Thái độ, hành động: “hàng mấy tháng, đêm nào cũng khóc”, định ăn lá ngón tự tử.

+ Nhận thức sâu sắc tình cảnh quẫn bách của bản thân: sống cũng như chết.

+ Phản ứng tiêu cực nhưng lại là biểu hiện của lòng yêu sống và khát vọng tự do.

– Thân phận làm dâu.

+ Thời gian: “lần lần, mấy năm qua, mấy năm sau”: phép đối, cách đếm thời gian chậm rãi, đều đặn. Khoảng thời gian đủ để vô hồn hoá con người, nhấn con người vào câm lặng. Cha chết. Mị không còn nghĩ tới cái chết. Đây là một nghịch lí đầy bi kịch: mất đi khả năng phản ứng với cuộc sống phi nhân tính. Thực chất, Mị chỉ sống đời sống vật chất, còn tinh thần và tâm hồn đã chết. Mị  nhẫn nhục, cam chịu, vô hồn.

+ Không gian: căn buồng – không gian sống của Mị : kín mít, có một chiếc cửa sửa lỗ vuông bằng bàn tay, lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng. Không gian tối tăm, bức bối, lạnh lẽo, đầy âm khí, biểu tượng ám gợi về địa ngục trần gian, tù túng, ngột ngạt, nơi cầm tù tuổi thanh xuân của con người, biến Mị từ một cô gái trẻ trung phơi phới thành một con người vô cảm, cam chịu. Một không gian phi nhân tính.

+ Hành động, dáng vẻ bên ngoài:

• Cúi mặt, không nghĩ ngợi … vùi vào làm việc cả ngày và đêm.

• So sánh: “Con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc làm cả đêm cả ngày”.

• Bị bóc lột sức lao động tàn nhẫn.

+ Thái độ của Mị:

“Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”.

• Tưởng mình cũng là con trâu, con ngựa.

– Lí giải về thái độ của Mị:

+ Tê liệt khả năng phản ứng với cuộc sống vô nghĩa.

+ Đó là phản ứng của con người không còn cảm thấy ý nghĩa cuộc đời, cam chịu sống mảnh đời khuất lấp, quên lãng, như cái cây, tảng đá, đồ vật, con rùa trong xó cửa, trong không gian nhà thống lí.

+ Nghịch lí: vị trí: con dâu (quyền thế, đáng trọng), thân thế: con nợ, người ở (rẻ rúng, coi thường)

→ Miêu tả cuộc sống làm dâu, nhà văn khám phá một mảng hiện thực mới: cuộc sống, số phận đau khổ của người lao động miền núi – những con người bị cường quyền, thần quyền, cái nghèo, những áp chế về tinh thần đẩy vào tình trạng sống vô nghĩa, cam chịu. Nhà văn đồng cảm với nỗi khổ đau người lao động miền núi như Mị và A Phủ.

c. Sức sống tiềm tàng:

* Đêm tình mùa xuân ở Hòng Ngài:

– Khung cảnh:

+ Bức tranh mùa xuân: Cỏ gianh vàng ửng, rạo rực, tươi vui, đầy sức sống, ánh sáng đối lập với không gian sống tăm tối của Mị. Mỏm núi: váy hoa xoè như con bướm sặc sỡ, đầy màu sắc, phấn chấn, náo nức. Đám trẻ cười ầm. Tiếng sáo vọng lại thiết tha bồi hồi → Thiên nhiên rực rỡ màu sắc, náo nức âm thanh. Đó là sự hiện diện của một thế giới căng tràn nhựa sống.

– Đêm tình mùa xuân:

+ Trong nhà: mọi người nhảy đồng, hát

+ Bên ngoài: tiếng sáo gọi bạn yêu lơ lửng ngoài đường > chi tiết trở đi trở lại như một ám ảnh, mời gọi, vương vấn, khơi gợi kí ức và khát vọng yêu, sống trong Mị.

+ Nội dung tiếng sáo: “Mày có con trai con gái rồi/ Mày đi làm nương/ Ta không có con trai con gái/ Ta đi tìm người yêu” . Tiếng sáo mang khát vọng đôi lứa, khát vọng sống. Không – thời gian rạo rực khát vọng, thôi thúc con người tìm đến với men say tình yêu, men say sự sống.

– Diễn biến tâm trạng:

+ Nhẩm thầm bài hát người đang thổi sáo.

+ Uống rượu ừng ực bát một, u uất, như nuốt cả bao nhiêu đau khổ cay đắng vào lòng. Cái nồng nàn của men rượu khơi dậy ngọn lửa sống trong Mị. Men đời rạo rực, đưa Mị từ cõi quyên trở về cõi nhớ

+ Phơi phới trở lại. Mị bắt đầu có cảm xúc (nhận ra tiếng sáo).

+  Ý thức về bản thân trở lại: Còn rất trẻ.

+ Mị muốn chết: khi cảm xúc, ý thức trở về là lúc Mị muốn chết. Tâm lí phi lí mà logic: ý thức tình trạng sống không bằng chết. Mị muốn giải thoát mình ra khỏi khổ đau thực tại. Tất cả thể hiện tình yêu đời, ham sống mãnh liệt trong Mị.

+ Từ những ý nghĩ được khơi bừng dậy trong nội tâm đã dẫn đến hành động, và hành động này lại thúc đẩy hành động khác như một chuỗi phản ứng dây chuyền không thể kìm nén được nữa : xắn miếng mỡ, khêu lại đèn, lấy váy, quấn tóc …. hành động như một người tự do, theo tiếng gọi của lòng mình.

+ Tô Hoài nhập thân vào nhân vật để miêu tar khát vọng được sống được yêu trở lại của Mị, kéo theo hành động: muốn được thấy ánh sang, muốn làm đẹp, muốn đi chơi xuân, ý thức về sự tồn sinh của mình.

+ Sự vùi dập phũ phàng: bị A Sử trói vào cột nhà. Khát vọng vừa hồi sinh đã bị vùi dập. Mị vẫn vùng bước đi… Mị sống trong trạng thái nửa mê nửa tỉnh …

+ Sức sống, lòng ham sống đã được nhóm lên để chuẩn bị rực cháy trong hành động cứu A Phủ và cứu mình.

* Nhận xét:

–  Ngòi bút của Tô Hoài thật tinh tế và thấm nhuần tinh thần nhân đạo sâu sắc, đã tìm sâu vào tiềm thức của nhân vật Mị, khơi dậy sức sống tiềm tàng và những khao khát tự do tưởng chừng như đã nguội tắt bởi kiếp sống nô lệ kéo dài.

– Qua tình tiết nghệ thuật này , nhà văn thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc và mới mẻ:

+ Tố cáo thế lực thống trị, cường quyền, thần quyền đã liên kết để chà đạp tước đoạt quyền sống của những con người đáng ra phải được hạnh phúc nhất.

+ Đồng cảm sâu sắc với số phận con người nghèo khổ miền núi trước cách mạng.

+ Khám phá, phát hiện vẻ đẹp, phẩm chất người lao động, đặc biệt là sức sống và khát vọng sống tự do.

* Đêm mùa đông cởi trói cứu A Phủ và tự giải thoát.

– Lúc đầu:

Mị thản nhiên: “Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi”. Cảnh bị trói đến chết không phải là hiếm hoi ở nhà thống lí. Mị đã chịu đựng quá nhiều đau khổ về thể xác lẫn tinh thần. Mị đã  trơ lì cảm xúc, tê liệt khả năng cảm thông, chia sẻ với cảnh ngộ khốn cùng của người khác.

• Cuộc sống bao năm làm con rùa lầm lũi xó cửa khiến Mị quen cam chịu, nhẫn nhục > sức ì, quán tính quá lớn.

• Tuy nhiên, nhà văn gài một chi tiết báo hiệu sự phản kháng của Mị: Bị A Sử đánh, đêm sau Mị vẫn ra sưởi. A Phủ rất gan lì, bướng bỉnh.

– Hôm sau: Lé mắt trông sang. Đó là cái nhìn hờ hững, vô hồn.

+ Thấy: một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại. Đây là chi tiết duy nhất trong đoạn trích thiên về phản ánh nội tâm A Phủ (A Phủ gần như được xây dựng đơn giản hơn Mị: nhân vật của số phận và hành động). Nước mắt ở một thanh niên bản lĩnh, gan góc, yêu đời, mạnh mẽ diễn tả sâu xót nỗi đau, sự tủi cực, tình cảnh khốn cùng (có lẽ A Phủ cũng đang hình dung mình sẽ bị trói cho đến chết).

+ Dòng ngước mắt của A Phủ có tác động lớn đối với Mị:

• Đánh thức hồi ức đau thương, tuyệt vọng trong quá khứ của Mị. Từ thương người, Mị đã tự thương mình.

• Độc thoại nội tâm: đồng cảm với A Phủ, với những người cùng cảnh ngộ. Mị bất bình trước sự việc, tình thương trỗi dậy.

• Giả định: A Phủ trốn. Mị bị trói đứng, phải chết trên cái cọc ấy. Nhưng Mị không sợ: thương A Phủ quên thân. Tình yêu thương con người, tám lòng vị tha chiến thắng vị kỉ. Điều đó khẳng định lòng thương người trái tim nhân hậu, sự đồng cảm sâu sắc. Tô Hoài đã cắt nghĩa logic hành động của Mị .

• Hành động: rút dao, cắt dây trói cứu A Phủ

• A Phủ: khuỵu xuống nhưng quật sức vùng lên, chạy. Đó là sức mạnh của khát vọng sống tự do.

• Mị: sợ, chạy theo A Phủ. Đó là hành động tự cứu mình

* Nhận xét:

– Hành động tự cứu mình của Mị là hành động có tính chất tự phát, nhưng cội nguồn sâu sa của nó là sức sống khát vọng sống mãnh liệt.

– Hành động làm thay đổi vị thế hai con người: nô lệ, cam chịu trở thành con người tự do, nổi loạn.

– Hai nhân vật gặp gỡ nhau trong đau thương, cùng đường, nhờ khát vọng tự do mà vùng lên tự thay đổi cuộc đời. Họ đã đi xuyên qua bóng tối để đến bên kia bờ của ánh sáng tự do và hạnh phúc. Sức sống của họ đã trở thành sức mạnh cởi tròng thoát ách giải phóng số phận khổ đau đi theo cách mạng.

2. Nhân vật A Phủ.

a. Sự xuất hiện.

– Khung cảnh: đêm tình mùa xuân.

– Sự kiện: A Phủ đánh A Sử

– Văn cảnh (xét trong hệ thống cốt truyện): khi xung đột trong Mị đang dâng lên. Đan lồng sự kiện tạo yếu tố kịch tính: khát vọng hạnh phúc >< hiện thực phũ phàng.

b. Phẩm chất:

– Con mồ côi, nghèo.

– Gan bướng, thẳng thắn, gan góc.

– Không chịu ở cánh đồng thấp, A Phủ trốn lên núi cao.

– Thể chất dồi dào: khỏe, chạy nhanh như ngựa.

– Biết làm mọi việc: đúc lưỡi cày, đục cuốc, đi săn bò tót rất bạo.

– A Phủ là một thanh niên chăm chỉ, chịu khó, tháo vát nhưng nhà nghèo không lấy được vợ.

– Đánh A Sử – con trai thống lí vì A Sử gây sự mà không suy nghĩ gì tới hậu quả.

– Khi bị đánh: quỳ chịu đòn, im như tượng đá. A phủ gan góc, có sức chịu đựng khác thường.

→ Nhân vật mang vẻ đẹp khoẻ khoắn, cá tính, bản lĩnh, gan góc, tiềm ẩn sức sống, sức mạnh phản kháng, chống bạo tàn của thanh niên lao động miền núi.

c. Thân phận nô lệ và sự giải thoát .

– Thân phận nô lệ:

+ Nguyên nhân: đánh A Sử,  bị bắt, bị đánh đập dã man (mặt sưng, đuôi mắt giập chảy máu, hai đầu gối sưng bạnh như mặt hổ phù). Thống lý Pá Tra bắt A Phủ phải bỏ tiền cúng ma, bị cho vay nợ để nộp phạt, khao làng. A phủ không có tiền trả, phải ở nợ. Cuộc đời từ đây bị cột chặt trong vòng riết xoắn của kiếp trừ nợ.

+ Bị bóc lột sức lao động tàn tệ:

• Đốt rừng, cày nương, cuốc nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa, quanh năm một thân một mình bôn ba rong ruổi ngoài gò ngoài rừng. A Phủ là một con người làm việc cơ học, như một cỗ máy, triền miên, ngày qua ngày, tháng nối tháng, năm tiếp năm, mòn mỏi.

• Bị trừng phạt vì làm mất bò của chủ. A Phủ tự mình lấy dây mây cột mình theo lệnh của thống lí. Chi tiết thể hiện hiện thực oái oăm, diễn tả sâu sắc, thấm thía tình cảnh tủi cực, ngang trái của kiếp đời nô lệ, thân người không bằng con vật. Đó chính là nguyên nhân dẫn đến cuộc gặp gỡ tự nhiên giữa Mị và A Phủ về sau.

3. Đặc sắc về nội dung và nghệ thuật.

– Nội dung:

+ Giá trị hiện thực: miêu tả chân thực số phận cực khổ của người dân nghèo, phơi bày bản chất tàn bạo của giai cấp thống trị ở miền núi.

+ Giá trị nhân đạo:

• Thể hiện tình yêu thương, sự đổng cảm sâu sắc với thân phận đau khổ của người dân lao động miền núi trước Cách mang;

• Tố cáo, lên án, phơi bày bản chất xấu xa, tàn bạo của giai thống trị;

• Trân trọng và ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn, sức sống mãnh liệt và khả năng cách mạng của nhân dân Tây Bắc;…

– Nghệ thuật:

+ Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo. (Với Mị, tác giả ít miêu tả hành động, dùng thủ pháp lặp lại có chủ ý một số nét chân dung gây ắn tượng sâu đậm, đặc biệt tác giả miêu tả dòng ý nghĩ, tâm tư, nhiều khi là tiềm thức chập chờn… Với A Phủ, tác giả chủ yếu khắc hoạ qua hành động, công việc, những đối thoại giản đơn).

+ Nghệ thuật kể chuyện: kể chuyện kết hợp nhiều điểm nhìn (bên ngoài, bên trong, xa, gần) > dần dần khám phá thế giới nội tâm sâu thẳm và ngọn lửa sống âm ỉ đằng sau vẻ ngoài vô cảm của Mị.

+ Nghệ thuật miêu tả phong tục tập quán của Tô Hoài rất đặc sắc với những nét riêng (cảnh xử kiện, không khí lễ hội mùa xuân, những trò chơi dân gian, tục cướp vợ, cảnh cắt máu ăn thề,…) Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên miền núi với những chi tiết, hình ảnh thấm đượm chất thơ.

III. TỔNG KẾT.

Mỗi nhà văn dường như đều “mắc nợ” với một vùng đất, để từ thương nhớ, khắc khoải ấy; những tác phẩm nặng ân tình sẽ được “hoài thai”. Xuất phát từ nỗi niềm đau đáu với đất và người Tây Bắc, “Vợ chồng A Phủ” đã trở thành một trong những dấu ấn nghệ thuật độc đáo trong đời văn Tô Hoài , trở thành tác phẩm xuất sắc của nền văn học cách mạng viết về sự đổi đời của đồng bào các dân tộc miền núi Tây Bắc dưới ánh sáng của Đảng.


Truyện ngắn “Vợ nhặt” (Kim Lân).

I. Tác giả, tác phẩm

1. Tác giả.

– Kim Lân tên thật là Nguyễn Văn Tài, quê huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh

– Xuất thân: dân ngụ cư (mẹ dân ngụ cư lấy bố là dân bản xứ, bản thân cùng vợ từ quê ra Hà Nội, đẩy xe bò ăn cháo cám những năm đói trước cách mạng…), chỉ được học hết bậc tiểu học, vừa làm thợ vừa viết văn.

– Tham gia hội Văn hóa cứu quốc.

– Sáng tác chủ yếu ở thể loại truyện ngắn.

– Thế giới nghệ thuật: Khung cảnh nông thôn và người nông dân lam lũ, chịu thương chịu khó, gắn bó tha thiết với cách mạng.

– Thành công nổi bật:

+ Viết hay về thú phong lưu đồng ruộng: Chọi gà, Con mã mái, Đôi chim thành.

+ Hiểu sâu sắc cảnh ngộ, nỗi lòng, tâm lí của người nông dân nghèo.

+ Kim Lân là “cây bút viết ít nhưng ngày càng được khâm phục nhiều” (Hoài thanh).

2. Tác phẩm.

a. Hoàn cảnh ra đời: Viết năm1954, dựa vào cốt truyện cũ của cuốn tiểu thuyết viết dở có tên “Xóm ngụ cư”(1946). In trong tập “Con chó xấu xí”(1962)

– Vị trí: Truyện ngắn hay nhất của Kim Lân. Kim Lân tự đánh giá: “Chất nhân ái, tình thương của người đối với người trong cảnh khốn cùng. Điều đáng nói nhất là trong cái đói con ngườ ita không nghĩ đến cái chết mà nghĩ đến cái sống”.

b. Nhan đề:

– Mô tả: “Vợ nhặt”.

– Ý nghĩa:

+ Gây tò mò cho người đọc > sức hấp dẫn của tác phẩm.

+ Gợi mở tình huống lạ, éo le, độc đáo.

+ Góp phần thể hiện chủ đề.

II. Phân tích tác phẩm.

1. Khung cảnh làng quê Việt Nam ngày đói.

* Khái quát:

– Bối cảnh lịch sử có thật: nạn đói 1945, cướp đi 1/10 dân số của Việt Nam.

– Tác phẩm hoàn thành khá lâu sau sự kiện lịch sử này nhưng cảm quan về cái đói vẫn ngấm trong từng chữ, ám ảnh cái nhìn làng quê của nhà văn.

* Không gian làng quê Việt Nam ngày đói quay quắt, xơ xác, tiêu điều.

– Cái đói “tràn đến”: Sự hiện hình của cái đói giống như một thảm họa, một cuồng phong, càn quét mọi sinh linh.

– Thời gian: chiều “chạng vạng”.

– Không gian: Con đường vì cái đói mà “khẳng khiu”.

– Con người:

+ Trẻ con: ủ rũ, không buồn nhúc nhích.

+ Người sống: Xanh xám như những bóng ma, bóng những người đói dật dờ đi lại như những bóng ma.

+ Người chết: “như ngả rạ”, ba, bốn cái thây nằm cỏng queo bên đường”

→ Bút pháp tả thực đến trần trụi, qua những so sánh cụ thể, tạo ám ảnh. Câu văn tả người sống liền kề câu văn tả người chết, hao hao nhau, từa tựa nhau, nhấn mạnh ấn tượng về ranh giới mong manh giữa sống và chết, cõi âm và cõi dương, chỉ chút sơ sẩy là sa vào âm địa. Những con người dắt díu bồng bế nhau hôm nay có thể sẽ là mấy cái “thây nằm còng queo bên đường” ngày mai.

– Âm thanh: Tiếng quạ “gào lên từng hồi thê thiết”, “sứ giả” của cái chết, cõi âm, gợi ám ảnh rợn lạnh, âm khí.

– Mùi vị: “vẩn lên mùi ẩm thối”: rác, mùi gây của xác người.

* Tóm lại: Ngòi bút tài hoa của Kim Lân đã khơi lật được mảng hiện thực trần trụi “tối sầm lại vì đói khát” tạo ấn tượng về một cõi dương đậm đặc âm khí. Cả làng quê giống như một đám ma khổng lồ mà bản nhạc huyên luôn ám ảnh chỉ chực cất lên khi có thêm một ma đói.

2. Hình ảnh người nông dân ngày đói.

a. Nhân vật Tràng:

– Tên gọi: Tràng –  một dụng cụ trong nghề mộc.

– Ngoại hình: Mắt nhỏ tí; hàm bạnh, mặt thô kệch; cái đầu trọc nhẵn; tấm lưng to, rộng như lưng gấu; mặc cái áo nâu tàng cũ mèm.

→ Các chi tiết cụ thể pha chút trào lộng đặc tả một thanh niên lao động thô kệch, vất vả, lam lũ, được hóa công đẽo gọt quá sơ sài, dường như vẫn phảng nét hoang dại.

– Xuất thân: là dân ngụ cư. Đây là tầng lớp sống lang bạt, không quê quán, lai lịch rõ ràng, thường bị dân bản xứ khinh miệt.

→ Qua miêu tả ngoại hình và xuất thân của nhân vật Tràng, ợi liên tưởng các nhân vật chàng ngốc, người đần trong truyện cổ dân gian, hiện thân cho một số phận bất hạnh.

– Phẩm chất:

+ Câu văn bản lề mở ra toàn bộ câu chuyện cảm động là câu văn diễn tả sự kiện người đàn bà xa lạ “rơi” vào cuộc đời Tràng “giữa cái ảnh tối sầm lại vì đói khát ấy, một buổi chiều người trong xóm bỗng thấy Tràng về với một người đàn bà nữa”.

+ Nhớ lại chuyện lấy vợ: nhặt được vợ trên con đường đời thảm đạm. Một số phận bất hạnh dạt vào cuộc đời một người bất hạnh (mô tả lại tình huống ……..)

+ Ứng xử trước phản ứng của mọi người:

• Với đám trẻ: trước khi lấy vợ, Tràng giống như một đứa trẻ lớn tuổi thì bây giờ Tràng tách hẳn ra như một người trưởng thành.

• Bảo vệ vợ mình trước con mắt tò mò của dân ngụ cư.

• Đối thoại với vợ: toàn câu tỉnh lược, không có chủ ngữ.  Tâm lí ngượng nghịu, sượng sùng.

+ Diễn biến tâm trạng: Liều lĩnh nhưng vẫn thấy sợ ở trong lòng. Bao trùm là hạnh phúc.

– Ứng xử với vợ:

+ Lấy vợ như nhặt một mớ rác nhưng không hề rẻ rúng vợ, ngược lại Tràng không ít tế nhị khi đi mua một số vật dụng làm của hồi môn cho vợ.

+ Ý thức vun vén cho hạnh phúc mình đang có: mua dầu thắp.

+ Chủ động giới thiệu vợ với mẹ đẻ nhằm tránh cho người phụ nữ cảm giác ngượng ngùng và mặc cảm theo không.

+ Hân hoan với niềm vui và trách nhiệm mới, hăm hở vun vén cho tổ ấm của mình. Buổi sớm đầu tiên có vợ, Tràng lâng lâng trong hạnh phúc “trong người êm ái lửng lơ như vừa ở trong giấc mơ đi ra”, “ngỡ ngàng như không phải”, thấy “thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng”, nghĩ về tổ ấm tương lai, quyết tâm vun vén cho nó.

→ Đoạn văn đậm chất thơ với giọng điệu trữ tình tha thiết. Ám ảnh về cái đói thoáng chốc bay biến để chỉ còn cảm giác hạnh phúc.

– Bài học nhân sinh:

+ Ngay trên bờ vực cái đói, khi tưởng như miếng ăn là nhu cầu bức thiết thì tình người, giá trị con người và khao khát được yêu thương vẫn cao quí hơn cả và vẫn không bị mất đi.

+ Hạnh phúc làm thay đổi con người. Trong tăm tối khốn cùng, khát vọng được yêu thương giống như một bản năng bất diệt vẫn cháy sáng.

+ Đặt nhân vật trong tình huống đặc biệt, một mặt nhà văn lột tả được đời sống khổ cực của người nông dân trong năm đói, mặt khác khám phá vẻ đẹp kì diệu nơi tâm hồn của họ.

b. Nhân vật người vợ nhặt

– Ngoại hình: Quần áo tả tơi như tổ đỉa; hình dáng gầy sọp; khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn hai hố mắt; ngực gầy lép xẹp → Không có chút dấu hiệu gì của nữ tính.

– Ngôn ngữ: Đanh đá, trơ trẽn của người dân nghèo ít học. Miệng lưỡi cong cớn mà không nanh nọc, trơ trẽn nhưng không đĩ thõa. Cong cớn, trơ trẽn là sản phẩm sinh ra từ đói nghèo, tăm tối, chứ không phải cái xấu, cái ác → Tài năng trong sử dụng ngôn ngữ đối thoại.

– Số phận đầy bất hạnh của người phụ nữ: xấu, nghèo, bị cái đói xô đẩy đến gần kề cái chết, bị biến thành thân phận trôi dạt, cỏ rác, thành thứ có thể nhặt được.

– Thế nhưng, thị lại là người phụ nữ tinh tế, hiền hậu khi là vợ Tràng: Ý tứ ngồi ở mép giường;  thể hiện trách nhiệm của cô con dâu, một người vợ hiền, quét dọn nhà cửa; ứng xử tinh tế khi ăn bát chè khoán “đắng chát và nghẹn bứ”, thị vẫn “thản nhiên và vào miệng”.

c. Nhân vật bà cụ Tứ.

– Xuất hiện trong tình hướng đầy ngỡ ngàng: có một người phụ nữ ngồi ở mép giường con trai mình. Chỉ có 2 khả năng: là em – con cái Đục nhưng cái Đục không còn nữa, hoặc là vợ – không thể vì ai có thể chịu cưới con mình?

– Chuỗi tâm lí phức tạp chân thực:

+ Ngạc nhiên: “mắt nhoèn ra thì phải”: do rỉ mắt, nước mắt người già. Bà không tin vào mắt, tai mình.

+ Cảm thông: sự từng trải một người mẹ, một phụ nữ lao động nghèo.

+ Sự hàm ơn đối với người phụ nữ vợ nhặt bởi: là mẹ bà không lo nổi mà phải để con tự lấy vợ – người vợ theo không. “Mừng lòng” chứ không phải “bằng lòng”. Bà cụ đang nói bằng tình bằng nghĩa chứ không phải bằng lí trí, quyền phép của một người mẹ đối với con. Lời nói nghe vừa tội nghiệp vừa xót xa nhưng cũng chan chứa hồn hậu yêu thương.

+ Tủi phận: ám ảnh về gia cảnh. Đó là bag cụ tự trách mình.

+ Bao trùm: cảm giác hạnh phúc, tin tưởng: nói nhiều về tương lai, khuôn mặt “rạng rỡ”, chủ động tổ chức bữa tiệc đón con dâu mới – bữa cơm của tình người, của tấm lòng.

– Đặt những ấp ủ về hạnh phúc, về tương lai vào trong suy nghĩ của bà mẹ, Kim Lân đã dạo lên bài ca sự sống bất diệt. Bà mẹ nông dân với những nỗi tủi cực, khốn cùng trong năm đói cũng là bà mẹ Việt Nam hồn hậu, vị tha, độ lượng, lạc quan trong ca dao dân ca thủa nào.

3. Tình huống truyện độc đáo, kì lạ, oái oăm và hấp dẫn.

– Nghệ thuật sáng tạo tình huống, 2 giá trị:

+ Hiện thực: có 3 định nghĩa về vợ: vợ là thứ nhặt được (Kim Lân), vợ là của nợ đời (hàng xóm), đèo bòng (Tràng). Nhan đề thể hiện số phận thảm hại của con người trong ngày đói, người vợ không khác gì một thứ cỏ rác trôi nổi trong họa đói.

+ Nhân đạo: trong tăm tối vẫn cháy lên khát vọng sống, khát vọng yêu thương mãnh liệt ,vẻ đẹp của tình người .

– Khung cảnh: mở là chiều chạng vạng với sự xâm tràn của bóng tối > kết: bình minh với dự cảm tương lai tươi sáng.

– Bút pháp:

+ Miêu tả tâm lí: am hiểu tâm lí con người, đặc biệt là tâm lí bà mẹ nông dân.

+ Tương phản: sự sống và cái chết.

– Ngôn ngữ: đối thoại tài tình, thạo hiểu tâm lí, tính cách, lời ăn tiếng nói của người lao động.

CỦNG CỐ KIẾN THỨC

Đề 1: Phân tích tình huống trong “Vợ nhặt” của Kim Lân.
Đề 2: Phân tích ý nghĩa nhan đề truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân.
Đề 3: Phân tích hình tượng nhân vật Tràng.
Đề 4: Phân tích hình tượng nhân vật Tràng để làm sáng tỏ giá trị nhân đạo độc đáo trong tác phẩm.
Đề 5: Phân tích hình tượng nhân vật người phụ nữ vợ nhặt trong “Vợ nhặt”.
Đề 6: Phân tích hình tượng nhân vật người phụ nữ vợ nhặt để làm sáng tỏ giá trị nhân đạo độc đáo của tác phẩm.
Đề 7: Phân tích diễn biến tâm trạng bà cụ Tứ trong truyện ngắn “Vợ nhặt”.
Đề 8: Phân tích giá trị nhân đạo trong truyện ngắn “Vợ nhặt”.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang