qua-chu-nguoi-tu-tu-hay-chung-minh-o-huan-cao-la-tap-hop-cua-tat-ca-nhung-gi-tinh-khiet-nhat-cao-dep-nhat

Qua truyện ngắn “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân, hãy chứng minh: “Ở Huấn Cao là tập hợp của tất cả những gì tinh khiết nhất, cao đẹp nhất”.

Qua truyện ngắn “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân, hãy chứng minh: “Ở Huấn Cao là tập hợp của tất cả những gì tinh khiết nhất, cao đẹp nhất”.

  • Mở bài:

Vườn văn học Việt Nam, đặc biệt là phong trào văn học lãng mạn (1930-1945) toả ngát những bông hoa muôn màu, muôn sắc. Giữa vườn hoa ngàn sắc tía đó nổi lên một bông hoa ngát hương: “Vang bóng một thời” của Nguyễn Tuân-tác phẩm viết về một thời đã qua nay chỉ còn vang bóng. Trong “Vang bóng một thời”, truyện ngắn “Chữ người tử tù” có một giá trị thiêng liêng, nổi bật. Ai đã từng đọc “Chữ người tử tù” đều rung động, cảm phục, sùng kính trước vẻ đẹp của người anh hùng sa cơ lỡ vận mà hiên ngang, bất khuất, có tài, có tâm, mến mộ nghĩa khí. Đó là Huấn Cao. Huấn Cao là kết tinh, là hội tụ phẩm chất của một con người có nhân, dũng, trí. Ông là tập hợp của tất cả những gì tinh khiết nhất, cao đẹp nhất.

  • Thân bài:

Huấn Cao là một hình tượng thẩm mỹ, một nét đẹp trong cuộc sống đời thường, là một người có nhân cách vẹn toàn, vừa có tài văn, tài võ, vừa là người có nghĩa khí. Ở nhân vật Huấn Cao, ta thấy phảng phất bóng dáng của Cao Bá Quát đã từng sống một cuộc sống tung hoành ngang dọc, là người có tài, có đức, văn hay chữ đẹp, sống trong giai đoạn của Nguyễn triều, dám đứng lên chống lại bọn thực dân phong kiến, bọn cường quyền, đả kích xã hội phong kiến thối nát, bỉ ổi. Ông từng được người đời gọi là Thánh Quát, và ca tụng “văn như Siêu, Quát vô tiền Hán”, một con người “nhất sinh đê thủ bái mai hoa” (cả đời chỉ biết cúi đầu bái lạy trước hoa mai). Phải chăng, Nguyễn Tuân đã mượn Huấn Cao để ca ngợi Cao Bá Quát và mặt khác dựa vào Cao Bá Quát, khái quát lên một hình tượng Huấn Cao mà cái đẹp của tài hoa quyện với cái đẹp của khí phách, tuy chí không thành nhưng vẫn coi thường hiểm nguy gian khổ, coi khinh cái chết. Tư thế của Huấn Cao hiên ngang lồng lộng toả sáng trên cái nền đen quánh của tù ngục.

Huấn Cao là một nghệ sĩ tài hoa xuất chúng. Huấn Cao là một nghệ sĩ tài hoa trong nghệ thuật thư pháp. Ông là một người viết chữ đẹp. Trong thị hiếu thẩm mỹ của người xưa từ Trung Quốc đến Việt Nam thì viết chữ đẹp là cả một nghệ thuật cao quý và chơi chữ đẹp là biểu hiện của con người có tri thức, một vẻ đẹp hoàn mỹ trong văn hoá truyền thống dân tộc. Nó như một sản phẩm nghệ thuật, như một vật báu mà con người khát khao, thèm muốn. Cài tài của Huấn Cao được “thẩm định” trước hết qua lời khen của dân vùng tỉnh Sơn: “có tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp”; qua lời ngợi ca và sở nguyện cao quý của viên quản ngục : “chữ ông Huấn đẹp lắm, vuông lắm”, “có được chữ ông Huấn mà treo trong nhà riêng là có một vật báu trong đời”. Và nét chữ đó đáng quý đến mức ngục quan phải kiên nhẫn, quyết tâm và dũng cảm, bất chấp cả tính mạng của mình.

Huấn Cao còn có là một trang anh hùng dũng liệt, có khí phách hiên ngang, bất khuất. Huấn Cao có tài bẻ khoá vượt ngục coi nhà tù như nơi không người, ra vào như chơi. Điều đó thể hiện một con người khát khao tự do, hoài bão tung hoành luôn đấu tranh cho chính nghĩa, chống lại triều đình phong kiến mục nát. Tất cả những tài năng đó làm thành một Huấn Cao có tầm lớn, đi vào lòng độc giả như một anh hùng, một trượng phu đã vượt lên tất cả cái bình thường nhỏ nhoi của cuộc đời để vẫy vùng, để chọc trời khuấy nước. Nhưng trong cái xã hội phong kiến bóc lột người, “nhân tài như lá mùa thu” ấy thì Huấn Cao hiện lên là một anh hùng thất thế.

Nguyễn Du đã từng viết về Từ Hải-một anh hùng thời cổ: “Hùm thiêng khi đã sa cơ cũng hèn”. Song vị hùm thiêng Huấn Cao này tuy có sa cơ, lỡ nghiệp nhưng Huấn Cao vẫn kiên cường, bất khuất, vẫn dũng khí. Do đó, người đọc không chỉ nhận ra Huấn Cao là một người có tài mà ông còn là người có dũng khí, hiên ngang trước cường quyền, trước một cái chết treo lơ lửng.

Mặc dù viết chữ Nho đẹp lẽ ra ông phải trung thành với đạo thánh hiền, giữ mình theo lễ nghĩa Nho giáo, trung với vua, một lòng một dạ theo triều đình. Nhưng không! Huấn Cao không chịu vào luồn ra cúi, không chịu sống trong cảnh nhung hoa áo gấm, thà làm giặc triều đình sống theo chính nghĩa mà mình đã vạch ra. Sự nghiệp dang dở, bị bắt, bị kết án tử hình nhưng ông vẫn không hề tỏ thái độ run sợ, không mảy may tiếc nuối, hối hận.

Huấn Cao – ngôi sao Hôm chính vị ấy – bước vào ngục trong tư thế thật hiên ngang, khí phách ung dung. Trong con mắt của bọn lính ông thật cao thượng, bất khuất, khinh đời. Ngay cả với gông xiềng, với cái án tử hình sắp đến gần, thái độ của ông vẫn ngang tàng, lạnh lùng. Huấn Cao ung dung, lãnh đạm rỗ gông trước mặt bọn lính, không thèm chấp mấy lời đe doạ. Ông thản nhiên nhận rượu thịt do quan ngục biệt đãi, coi như mình có quyền hưởng thụ, ông làm việc theo ý mình, hoàn toàn tự chủ. Ông ngước mắt nhìn lên nhà lao, lên những bộ mặt bất nhân, nham nhở. Cái nhìn hiên ngang đó không run sợ, không căm hờn, oán hận, không van xin, cầu khẩn. Đó là một cái nhìn của kẻ dám làm dám chịu. Thậm chí ông còn khinh bạc, nặng lời khi chưa rõ ý tốt của quản ngục: Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây.

Con người khuấy nước chọc trời chẳng biết nể sợ ai. Nếu trong đời thường trừ chỗ tri kỷ, ông ít chịu cho chữ, “nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà phải ép mình viết câu đối bao giờ”, thì khi sa vào chốn giam cầm thì mấy chén rượu, vài bữa cơm thịt của hai con người vô danh tiểu tốt ở chốn tù ngục bé nhỏ này làm sao lung lay được ông hay vì quyền uy mà làm ông run sợ. Thật đúng là nhân cách lý tưởng mà con người của ngàn năm qua vẫn ao ước. Cái thái độ khinh đời, ngang tàng đó phải chăng làm cho viên quản ngục ngây ngất, kính nể. Huấn Cao đã mang đến chốn lao tù, cho cái địa ngục sống này một ánh sáng kỳ ảo, huyền diệu, lung linh, chói rọi, soi sáng đạo lý làm người. Thiên lương cao đẹp của ông là một vầng hào quang toả sáng rực rỡ trên bầu trời đầy u ám của nhà tù.

Hết mực ca ngợi cái tài, cái khí phách của Huấn Cao, đồng thời Nguyễn Tuân cũng hết sức trân trọng cái tâm của Huấn Cao. Bởi “chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài” (Nguyễn Du). Cái tâm của ông cũng vuông lắm, cao khiết và đầy sức chinh phục như nét chữ của ông vậy. Có lẽ phong cách tức là con người đã được thể hiện rất rõ ở đây. Huấn Cao – vầng hào quang chói lọi này không những là một người có dũng trí mà còn là một con người có trái tim nhân hậu. Khi biết thiện ý của viên quản ngục, Huấn Cao đã rất cảm động. Từ đó, ta thấy ông Huấn là người có lòng bao dung, độ lượng, chia sẻ nỗi niềm cùng với hai người “bạn” mới mà suýt nữa ông đã đánh mất: “Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các ngươi. Nào ta biết đâu một người như thầy quản đây lại có cái sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”.

Sự biệt đãi bằng vật chất và thái độ ân cần của viên quản ngục không làm cho trái tim sắt đá kia mềm lòng. Chính cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài và những sở thích cao quý, hướng về văn minh, văn hoá mới cảm hoá được trái tim dường như được đúc bằng thép ấy. Thái độ biệt nhỡn liên tài của Huấn Cao đối với quản ngục không phải sự liên tài, sự trả ân đối với người đã đối xử tử tế, biết chơi chữ của mình, mà là sự trân trọng, cảm động trước một nhân cách “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”.

Viên quản ngục sống giữa bùn nhơ nhớp mà vẫn giữ được thiên lương, biết trân trọng giá trị văn hoá và tài năng, là người có tâm hồn nghệ sĩ, không có tài nhưng yêu tài, không sáng tạo được cái đẹp nhưng biết yêu và trân trọng cái đẹp. Đó đúng là một đoá sen trong bùn, ánh hào quang rực rỡ, vẻ đẹp tuyệt diệu toả ra rất rõ ở cảnh Huấn Cao cho chữ. Nó bộc lộ trọn vẹn nhất vẻ đẹp nhân cách Huấn Cao. Ở đây vẻ đẹp này toả hương thơm ngát hơn lúc vào hết. Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân, một cảnh tượng đầy kịch tính diễn ra, “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”. Đó là sự tương phản giữa một bên là “một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián” với một bên là “tấm lụa trắng tinh”, căng phẳng và với ánh sáng của bó đuốc tẩm dầu đang cháy rừng rực. Ba đầu người chăm chú trên một tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ.

Nó là sự trái ngược của sự tàn bạo, đánh đập, tra khảo dã man với ánh sáng của nền văn minh, văn hóa. Đó còn là sự mâu thuẫn giữa bóng tối và ánh sáng, cái xấu và cái đẹp, cái ác và cái thiện, cái chết và cái sống, cái xấu xa, đê tiện và cái trong trẻo, cao thượng. Ngòi bút dựng cảnh, dựng người của Nguyễn Tuân rất giàu tính tạo hình với trình độ nghệ thuật điêu luyện, sắc sảo, “gần đạt đến sự hoàn thiện, hoàn mĩ” (Vũ Ngọc Phan).

Dưới ánh sáng của bó đuốc đỏ rực – bó đuốc của trí tuệ, của niềm tin, của hy vọng và trong khung cảnh thật nghiêm trang, thật thiêng liêng này, Huấn Cao dồn hết tâm linh, sinh lực vào từng nét chữ. Ông không mảy may lưu ý gì đến cái xấu xa, bẩn thỉu đang tồn tại mà hoàn toàn bị thu hút, quyến rũ vào một sự vật: tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ. Đúng thế, ở đây chỉ có cái đẹp, cái cao thượng mới thực sự tồn tại. Chính tấm lụa trắng tinh này mà ông Huấn Cao đang cho ra đời những con chữ tuyệt tác ấy mới thực sự có sức mạnh. Ở đây không còn là một Huấn Cao tử tù nữa, chỉ còn một Huấn Cao tự do nhất, sống động nhất. Cái giá treo cổ kia cũng không còn nữa mà chỉ có cuộc sống vĩnh hằng về chân lý của cái đẹp. Ngôi sao sáng – đang phát quang bừng tỉnh cái không gian u tối, phá vỡ cái màn đêm ngự trị ngàn đời ở đây.

Huấn Cao đem đến nơi đây một thế giới văn hoá trong sạch, mới mẻ và thuần khiết. Vẻ đẹp đó đã làm cho viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng. Và cái thầy thơ lại gầy gò, thì run run bưng chậu mực. Tuy nhiên, ở nhà ngục này có sự thay bậc đổi ngôi, có sự chuyển hoá vị thế, vị trí xã hội của con người. Nó nói lên một sự thật mà đầy tính lãng mạn. Giờ phút này và tại nơi đây không phải do quản ngục làm chủ. Sức mạnh, quyền lực của cái đẹp và chân lý tồn tại trên đời, thể hiện sức mạnh, quyền uy theo cách riêng của nó. Nó không khất phục người ta bằng bạo lực, nó chinh phục người ta bằng tự bản chất của nó. Nó không giày xéo áp đặt con người để bắt người ta phải tuân theo nó, trái lại, nó vực con người ta đứng dậy, tự nguyện đi theo nó để hướng tới cái chân – thiện – mĩ, trở nên trong sáng và tốt đẹp hơn.

Và ở đây cái đẹp đã lên ngôi thay thế cho cái xấu xa, thấp kém, “cái đẹp nâng đỡ con người, cứu vớt con người” (Đôxtôiepxki). Cái đẹp đăng quang, cái xấu xa đã phải chìm xuống nhường chỗ cho cái đẹp. Cái đẹp đã tồn tại, sẵn sàng và rất cần sự đánh thức cái thiên lương ở mỗi con người. Huấn Cao cho chữ như chuyển giao một nhân cách tự do, chuyển giao cái đẹp để cái đẹp mãi sinh sôi nảy nở, đi vào cõi vĩnh hằng. Hình tượng nhân vật Huấn Cao được khắc hoạ bằng ngòi bút lãng mạn cứ sừng sững hiên ngang hiện lên như muốn cất bổng lên, phá vỡ chốn lao tù, phá vỡ cái cuộc sống đang tràn ngập màn đêm, ngột ngạt, trì trệ.

Phải chăng đó là quan niệm thẩm mỹ của Huấn Cao hay của là của chính Nguyễn Tuân: cái đẹp phải gắn với cái thiện, không thể ở chung với cái xấu, cái ác; Một nhân cách chân chính phải là sự thống nhất giữa cái tâm và cái tài. Sự chân thành, bộc bạch giản dị đó của Huấn Cao đã khiến cho ngục quan cảm động vái người tù một cái và rưng rưng: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”.

Nói tóm lại, Huấn Cao là một con người tích tụ những phẩm chất tốt đẹp nhất. Tuy bị cầm tù về thể xác nhưng lại tự do về tâm hồn. Hay nói khác đi, Huấn Cao dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân là biểu tượng cho cái đẹp trong hoàn cảnh lịch sử đang đầy rẫy những cái xấu xa, tội lỗi, biểu tượng cho Thiên lương cao quý. Con người sống vượt lên những hiện thực tầm thường, tăm tối để toả sáng, để vĩnh cửu, để bất diệt, truyền cho người đời phẩm giá làm người, những phẩm giá tiêu biểu cho đạo lý dân tộc.

Dựng lên hình tượng với vẻ đẹp rực rỡ tráng lệ giữa chốn lao tù ẩm thấp chật chội, Nguyễn Tuân đã thể hiện niềm cảm phục sâu sắc đối với những người anh hùng xả thân vì nghĩa lớn. Huấn Cao là nghệ sĩ tài hoa về nghệ thuật thư pháp, nghĩa là người lưu giữ giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Như vậy việc nhà văn bộc lộ sự ngợi ca, đề cao, đồng thời thông qua ngục quan và thầy thơ lại bộc lộ sự nuối tiếc đối với những người như Huấn Cao đồng thời với việc nhà thơ đang đề cao, tiếc nuối những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Đó chính là biểu hiện của tinh thần dân tộc, của lòng yêu nước kín đáo mà không kém phần sâu sắc ở nhà văn Nguyễn Tuân.

Nhà văn đã sử dụng ngòi bút tả thực đầy kịch tính kết hợp với việc khắc hoạ tính cách nhân vật và ngòi bút miêu tả phong cảnh hiện thực lẫn lãng mạn. Có thể nói “Chữ người tử tù” với bút pháp sắc sảo khi dựng người, dựng cảnh, với ngôn ngữ văn xuôi giàu có và góc cạnh, với vẻ đẹp tuyệt vời của Huấn Cao, tác phẩm xứng đáng là một áng văn chương một thời vang bóng và nó mãi mãi vang bóng trong bạn đọc nhiều thời.

  • Kết bài:
“Chữ người tử tù” làm sáng tỏ một tinh thần dân tộc sâu sắc: Yêu mến và trân trọng nét đẹp của truyền thống văn hoá dân tộc. Tác phẩm thể hiện lòng say mê cái đẹp và đi tìm cái đẹp ở tài năng, đạo đức và nhân cách con người, khẳng định sự chiến thắng của cái đẹp, thiên lương và nhân cách ngay trong hoàn cảnh ngặt nghèo, ngay ở môi trường của cái ác và bóng tối. Có thể khẳng định ở nhận vật Huấn Cao là tập hợp của tất cả những gì tinh khiết nhất, cao đẹp nhất.

Phân tích hình tượng nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm “Chữ người tử tù” của nhà văn Nguyễn Tuân


Tham khảo:

Vẻ đẹp hình tượng nhân vật Huấn Cao.

Nguyễn Tuân là nhà văn lớn, một trí thức giàu lòng yêu nước và tinh thần dân tộc, suốt đời ông tôn thờ và “đi tìm cái đẹp, cái thật”, tha thiết vun đắp “thiên lương” cho mỗi “cái tôi” cá nhân nảy nở và phát triển tốt đẹp. Lòng yêu nước của ông có màu sắc riêng: gắn liền với những giá trị đạo đức và văn hóa cổ truyền của dân tộc. Trong sự bất hòa sâu sắc với xã hội đương thời, Nguyễn Tuân quay về với quá khứ tìm những vẻ đẹp giờ chỉ còn vang bóng; ông đã ngưỡng mộ và tìm đến Cao Bá Quát. Và đây là cơ sở, là nguyên mẫu để Nguyễn Tuân sáng tạo nên hình tượng nhân vật Huấn Cao trong truyện ngắn “Chữ người tử tù”.

Nhân vật Huấn Cao kết tinh tài hoa của ngòi bút Nguyễn Tuân, hấp dẫn người đọc từ đầu đến cuối tác phẩm. Về cảnh ngộ, Huấn Cao vốn là thủ lĩnh của những kẻ ngang tàng đã dám đứng lên chống lại triều đình, bị kết án, giam cầm, đợi ngày ra pháp trường. Như vậy, ông là kẻ tử tù, là người sắp đi vào cõi chết. Nguyễn Tuân tập trung bút lực và cảm hứng để khắc họa thành nhân vật lí tưởng với những nét nổi bật: một nho sĩ tài hoa, một trang anh hùng dũng liệt và một con người có thiên lương trong sáng.

Huấn Cao là một nho sĩ tài hoa. Trong cái tài văn của Huấn Cao, tác giả tô đậm tài viết chữ đẹp. Chữ Hán là loại chữ tượng hình và viết chữ Hán trở thành một nghệ thuật được gọi là thư pháp, gồm hai phương diện mỹ thuật của nét chữ và ý nghĩa của câu chữ. Lối viết ấy gần như vẽ tranh với ngọn bút lông mềm mại và người xưa treo chữ trong nhà như treo bức họa quý. Chữ trong tác phẩm thư pháp không phải là sản phẩm của sự khéo tay hay quen viết, mà chính là kết tụ tinh hoa, tâm huyết của người nghệ sĩ. Trong tác phẩm, sự tài hoa trong nghệ thuật thư pháp của Huấn Cao được nhắc đến vừa trực tiếp vừa gián tiếp.

Thứ nhất, qua lời đồn mang tính chất tụng ca, mang tính chất huyền thoại của nhân dân vùng tỉnh Sơn vẫn khen tài viết chữ rất nhanh, rất đẹp. Cái tài viết chữ ấy được truyền tụng đến nỗi dầu chưa gặp người, chưa thấy chữ nhưng viên quản ngục và thầy thơ lại ở cái huyện nhỏ hẻo lánh đã đem lòng ngưỡng mộ. Sở nguyện cháy bỏng của quản ngục là có được chữ của Huấn Cao để treo trong nhà. Ông nói với thơ lại rằng: “Chữ của Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm … có chữ Huấn Cao treo trong nhà như có báu vật, không có ân hận suốt đời”. Nguyễn Tuân rất tinh tế, khéo léo sử dụng thêm các thủ pháp nghệ thuật khác để ca ngợi cái tài hiếm quý ấy của Huấn Cao. Đó là những tính toán, trăn trở, những biệt đãi, những đau khổ, nỗi hốt hoảng, hi vọng và tuyệt vọng, hồi hộp thành kính của viên quản ngục. Quản ngục đã bất chấp nguy hiểm vì không những quyết tâm, kiên trì và công phu, việc đối xử với một tử tù như thế đòi hỏi sự cam tâm lớn, quên đi cái tôi kiêu hãnh của bản thân. Quản ngục đã vượt qua tất cả. Bằng cách miêu tả đối thoại giữa quản ngục với thầy thơ lại, lối thể hiện nội tâm của quản ngục…Nguyễn Tuân đã tạo ra một Huấn Cao tài hoa hiếm có.

Thứ hai, sự tài hoa của Huấn Cao còn được thể hiện rất rõ và trực tiếp qua cảnh cho chữ xưa nay chưa từng có. Một cảnh tượng được Nguyễn Tuân trân trọng dụng công miêu tả tỉ mỉ để xứng tầm với sự tài hoa của Huấn Cao và cái tâm của quản ngục.

Cái tài của Huấn Cao là cái tài mang tính văn hóa, nghệ sĩ, chỉ những người trí thức có chí lớn mới tu dưỡng rèn luyện mà gìn giữ được. Những con chữ ấy đâu chỉ là vật vô tri. Nó “nói lên hoài bão tung hoành của một đời con người”. Cũng chính cái tài đó của Huấn Cao đã có sức cảm hóa, giúp cho viên quản ngục thay đổi cả hành động, tâm hồn và quan niệm sống; làm bừng sáng cái quan hệ vốn đối nghịch thành hòa hợp tri kỉ, tri âm giữa Huấn Cao và thầy trò quản ngục.

Huấn Cao là một anh hùng có dũng khí, hiên ngang, ý chí kiên cường, bất khuất. Đối với những con người có chí khí, nét chữ không đơn thuần là những kí hiệu ngôn ngữ mà còn là sự thể hiện toàn bộ nhân cách con người. Chính Huấn Cao đã nói “những nét chữ vuông tươi tắn nó nói lên những cái hoài bão tung hoành của một đời con người”. Ở đây phong cách nét bút – con người – được thể hiện một cách trọn vẹn.

Những nét chữ như được đúc bằng khối vuông vắn được viết ra từ bàn tay, tâm hồn con người có khí phách cứng cỏi, lẫm liệt, hào hùng. Lẽ ra, với tài văn chương ấy, nếu chịu quy thuận triều đình, Huấn Cao có thể trở thành vị quan quyền cao chức trọng, bổng lộc đủ đầy; với nhân cách cao đẹp có thể là bậc thầy của bao kẻ khác trong thiên hạ. Cái tài, cái tâm của Huấn Cao rực rỡ, chiếu sáng lên toàn bộ cuộc đời ông, chi phối hành động lớn nhỏ của ông. Không chịu quỵ lụy vào luồn ra cúi, không chịu cảnh “cá chậu chim lồng”, ông nổi dậy chống lại triều đình bất công. Sự nghiệp anh hùng không thành, ông bị bắt, bị khép vào tội đại nghịch và phải lãnh án chém. “Hùm thiêng thất thế sa cơ cũng hèn”, người đời thường nói thế, song Huấn Cao, tuy sa cơ, thất thế, ông vẫn sống những ngày ung dung, đàng hoàng.

Huấn Cao ngoài cái tài viết chữ đẹp còn có “tài bẻ khóa, vượt ngục”. Điều này ai cũng biết. Như vậy, cái dũng khí phá bỏ gông xiềng của ông Huấn cũng vang dội, loan truyền trong vùng như một huyền thoại khiến những con người nắm giữ gông xiềng phải nể sợ. Hành động rỗ chiếc gông nặng đánh thuỳnh một cái của Huấn Cao và các bạn thể hiện khí phách bất khuất của kẻ sĩ vượt lên trên cái tầm thường, vươn tới cái lí tưởng đầy sắc thái tự do, ngang dọc. Sau đó ông đi vào tù một cách thản nhiên, lạnh lùng. Đó là phong thái của đấng trượng phu dám làm dám chịu, không hề sợ hãi.

Trong những ngày bị giam, ông không thèm đếm xỉa đến bọn lính, xem những kẻ đại diện quyền lực thống trị là “tiểu nhân thị oai”. Nhận được rượu thịt của quản ngục, ông bình thản ăn “coi như đó là việc vẫn làm trong cái hứng sinh bình lúc chưa bị giam cầm”. Lúc viên quản ngục tỏ ý nương nhẹ ông cũng chẳng một chút nao lòng. Ông tỏ ra khinh bạc, nói những lời ngạo nghễ “ta chỉ muốn một điều, ngươi đừng đặt chân đến đây” đầy dụng ý. Ở câu nói khinh bạc đến điều ấy thể hiện cái tâm trong sáng của Huấn Cao. Hành động ấy, câu nói ấy là một phép thử. Nếu quản ngục là một người hướng thiện, quyết định cho chữ của ông sau này là một sự gửi trao. Đồng thời bảo vệ viên quản ngục trước cái nhìn ranh mãnh của bọn lính gác tránh được những nguy hiểm về mặt tính mạng. Nếu câu nói xúc phạm ấy khiến quản ngục phải dùng đến bạo lực trị ông thì đó là bản chất của bọn thống trị không có gì đáng để quan tâm.

Có thể nói, Huấn Cao dù thất thế nhưng vẫn hiên ngang, thân xác bị xiềng xích nhưng tinh thần hoàn toàn tự do. Đó là phong thái của người anh hùng xem cái chết nhẹ như lông hồng, chẳng vì biệt đãi mà bị lung lạc hay vì quyền thế mà run sợ. Đúng là nhân cách lí tưởng mà người đời hàng ngàn năm vẫn ước.

Huấn Cao là một người có “thiên lương trong sáng”. Huấn Cao không phải là kẻ tự kiêu đầy ngạo mạn, không phải sống với cái cao ngạo của kẻ có tài mà sống với thiên lương trong sáng. Đó chính là nhân vật có cái tâm bên cạnh cái tài, có tâm hồn đầy xúc động đằng sau vẻ khinh bạc lạnh lùng. Huấn Cao chỉ ngạo mạn trước bạo lực, chỉ khinh thị những kẻ có nhân cách tầm thường. Con người tưởng như đúc bằng thép ấy lại tinh tế trong đối xử với con người.

Ban đầu, ông tỏ vẻ xem thường quản ngục chỉ là một tên tiểu nhân thị oai và tỏ ra khinh bạc. Nhưng sau hiểu ra ngọn ngành, ông đã quyết định cho chữ. Ông cho chữ viên quản ngục không phải để trả ơn người đã biệt đãi mình, đã dâng rượu thịt cho mình trong những ngày cuối cuộc đời. Bởi ông có tài viết chữ đẹp, nhưng chỉ tặng những bạn bè, tri âm tri kỉ, chứ “không vì vàng bạc hay quyền thế mà ép mình cho chữ bao giờ”. Ông cho chữ viên quản ngục vì cảm động và trân trọng một nhân cách cao quý. “Tính ông vốn khoảnh, trừ chỗ tri kỉ ông ít cho chữ”. Cho chữ, ông đã liệt quản ngục vào hàng tri kỉ của mình. Bởi vì ông đã nhận ra ở viên quản ngục như một đóa sen trong bùn, ông nói thành thật “Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các ngươi. Nào ta có biết một người như thầy quản đây mà lại có cái sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Ông đã đem tấm lòng tri âm để đáp lại một bậc tri kỉ. Phát hiện thấy một nhân cách cao quý giữa chốn tối tăm, ông không nỡ để cho nhân cách ấy hoen ố đi. Ông chân thành, ân cần dặn dò viên quản ngục những lời tâm huyết sau khi cho chữ “Ở đây lẫn lộn. Ta khuyên thầy quản nên thay chỗ ở đi…Ở đây…khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhốc cả một đời lương thiện đi”.

Vẻ đẹp của hình tượng Huấn Cao thực sự tỏa sáng một cách toàn diện, hài hòa trong cảnh ông viết chữ. Đây là một cảnh tượng “xưa nay chưa từng có”, nó diễn ra dưới ngòi bút lãng mạn như một câu chuyện huyền thoại, đầy kịch tính. Giữa gian nhà ngục đầy bóng tối, phân chuột, phân gián, rệp…lại cháy lên một ngọn đuốc lửa rừng rực và sáng lên tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ. Vì nhà ngục là nơi giam cầm, đầy đọa con người, biểu tượng cho gông xiềng dã man lại diễn ra việc trái khoáy: người ta viết chữ tặng nhau, đàng hoàng bình thản như ngoài đời. Vì ông Huấn Cao là tử tù, cổ đeo gông, chân vướng xiềng lại ung dung viết chữ, đàng hoàng khuyên nhủ viên quản ngục. Còn thầy quản và viên thơ lại vốn là cai tù lại khúm núm, run run… như chấp nhận một sự thay bậc đổi ngôi. Hơn nữa, những con người này lại đang chạy đua với thời gian, với cái chết để tạo ra cái đẹp vĩnh cửu.

Đó là những điều nghịch lí tạo ra một bức tranh tuyệt tác vừa hiện thực vừa siêu thực. Bức tranh ấy hiện thực vì có đủ màu sắc, hình khối, đường nét, có mùi thơm của thứ mực nho hảo hạng. Siêu thực vì nó kì diệu, huyền ảo, giàu ý nghĩa biểu tượng. Trong bức tranh ấy, hình tượng nhân vật Huấn Cao hiện lên lồng lộng, kì vĩ. Ông ung dung viết như dồn cả tâm lực vào từng nét chữ. Ông giải thích ý nghĩa của những dòng chữ, rồi thưởng thức mùi mực thơm, nâng quản ngục đứng dậy và cuối cùng cất lời khuyên quản ngục. Những con chữ “với những nét vuông vắn, tươi tắn” và lời nói chân thành ấy phải chăng là di huấn thiêng liêng mà người anh hùng đã thức tỉnh viên quản ngục và thầy thơ lại.

Lời khuyên của Huấn Cao mang ý nghĩa cái đẹp nảy sinh nơi đất chết nhưng không thể chung sống với sự tàn bạo. Nó có tác dụng cùng với cái đẹp tạo nên sức mạnh cảm hóa con người. Sự chiến thắng của cái tài, cái đẹp, nhân cách cao thượng đối với cái xấu, cái ác, cái thấp hèn. Nguyễn Tuân muốn thể hiện niềm tin vào con người và đưa ra tuyên ngôn: cái đẹp phải gắn với cái thiện, người nghệ sĩ trước hết phải có thiên lương. Ở đây, cái đẹp chiến thắng tất cả, cái đẹp lên ngôi và “cứu vớt con người”. Thủ pháp đối lập được khai thác triệt để tạo nên cảnh tượng xưa nay chưa từng có. Cái đẹp được tạo ra trên mảnh đất chết, bởi một người sắp chết chính vì vậy mà giá trị của lòng yêu cái đẹp và cái đẹp được tôn vinh.

Khi cho chữ viên quản ngục, Huấn Cao nở nụ cười như mãn nguyện vì có người yêu và trân trọng cái đẹp. Rõ ràng, ông không chỉ có tài viết chữ, có khả năng sáng tạo cái đẹp mà còn hết mực trân trọng người biết thưởng thức cái đẹp. Với ông, thiên lương là nét quý giá nhất của con người.

Huấn Cao là hình tượng mang vẻ đẹp lãng mạn, kết tinh của những phẩm chất phi thường, cao đẹp, vẻ đẹp hài hòa của nhân – trí – dũng. Khác với các nhân vật trong “Vang bóng một thời, Huấn Cao có trách nhiệm với thời cuộc. Qua đó tác giả bộc lộ quan niệm về cái đẹp: cái tài phải đi với cái tâm, cái đẹp và cái thiện không thể tách rời nhau.

Cách xây dựng nhân vật của tác giả thật độc đáo. Huấn Cao là nhân vật trung tâm nhưng số trang tác giả trực tiếp miêu tả nhân vật này không nhiều (so với các nhân vật Chí Phèo, Tràng, Mị). Tác giả không chú ý xây dựng nhân vật theo kiểu miêu tả chi tiết ngoại hình hay xuất thân. Chỉ một vài nét đủ gợi lên chân dung một con người. Nhà văn chủ yếu tập trung khắc họa những phẩm chất của một con người lí tưởng. Mở đầu tác phẩm Huấn Cao tuy không được miêu tả trực tiếp nhưng vẫn cứ hiện ra đầy ấn tượng qua đối thoại giữa quản ngục và thầy thơ lại, qua sự trằn trọc trong đêm của viên quan coi ngục. Đó là bút pháp “vẽ mây nẩy trăng”. Đến lúc xuất hiện, Huấn Cao in đậm nét phong cách của một đấng tài hoa, một hào kiệt, một tráng sĩ. Chân dung Huấn Cao được khắc họa theo lối lí tưởng hóa của ngòi bút lãng mạn ngợi ca, trở thành hình tượng đẹp đẽ trong thế giới nghệ thuật của Nguyễn Tuân và trong lòng đọc giả. “Ở Huấn Cao là tập hợp của tất cả những gì tinh khiết nhất, cao đẹp nhất”.

Phân tích truyện ngắn Chữ Người Tử tù của Nguyễn Tuân

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang