phan-tich-hinh-tuong-nhan-vat-huan-cao-trong-tac-pham-chu-nguoi-tu-tu-cua-nha-van-nguyen-tuan

Phân tích hình tượng nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm “Chữ người tử tù” của nhà văn Nguyễn Tuân

Phân tích hình tượng nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm “Chữ người tử tù” của nhà văn Nguyễn Tuân.

  • Mở bài:

– Giới thiệu tác giả Nguyễn Tuân, tác phẩm “Chữ người tử tù” và nhân vật Huấn Cao.

  • Thân bài:

– Vai trò của nhân vật: Nhà văn sáng tạo ra nhân vật để gửi gắm tư tưởng, tình cảm và quan niệm của mình về cuộc đời.

1. Vẻ đẹp phi thường của nhân vật Huấn Cao.

– Nhân vật Huấn Cao: Được xây dựng từ nguyên mẫu Cao Bá Quát – một danh sĩ đời Nguyễn, một nhà thơ bản lĩnh kiên cường, tài hoa lỗi lạc, viết chữ đẹp và khí phách ngang tàng. Vẻ đẹp của Huấn Cao thể hiện rõ ở 3 phẩm chất: Tài hoa, khí phách hiên ngang bất khuất và thiên lương trong sáng.

a. Vẻ đẹp của một nghệ sĩ tài hoa:

– Tài viết chữ nhanh và rất đẹp. Nổi tiếng cả một vùng rộng lớn: “Cả vùng Tĩnh Sơn ta vẫn khen cái tài…”. Tài năng ấy đã trở thành huyền thoại, bao người bái phục, ao ước. Viết chữ đẹp biểu hiện con người có tri thức, một vẻ đẹp hoàn mĩ trong văn hóa truyền thống dân tộc, nó như một sản phẩm nghệ thuật – vật báu mà con người thèm muốn khát khao.

– Chữ Huấn Cao quý giá không chỉ vì nó đẹp, mà quan trọng hơn là những nét chữ vuông vắn, tươi tắn đó nói lên cái hoài bão tung hoành của một đời con người – nhân cách cao khiết, phi thường. Chính vì thế nó trở thành mơ ước suốt cả đời Viên quản ngục. Viên quản ngục dụng công để có được chữ của Huấn Cao: Biệt đãi, kính trọng, nhún mình ….

Nhận xét: Khi người ta viết chữ khéo sẽ tạo nên bức tranh chữ đẹp được coi là có giá trị phải đẹp của chữ và sâu của nghĩa, thấy được tài hoa và trí tuệ người viết, khí phách, khí chất, lí tưởng. Cái tài ấy khiến nhiều người khao khát. Ai cũng mong muốn chữ Huấn Cao treo trong nhà, mong muốn cháy bỏng tha thiết hơn ở nhân vật viên quản ngục “biết đọc vỡ nghĩa sĩ thánh hiền…” lo lắng sợ không xin được chữ à ân hận khi không xin được chữ. Cái tài ấy khiến nhiều người nể trọng: Quý cái đẹp, trọng cái tài, thái độ viên quản ngục đối với Huấn Cao, quan sát với cặp mắt hiền lành, ánh nhìn kiêng nể biệt nhỡn đối với Huấn Cao, hành động biết đãi, coi trọng, xuống tận phòng giam, quan tâm, chăm sóc. Đps không phải tài bình thường mà đạt đến mức độ phi thường, siêu phàm.

b. Vẻ đẹp của khí phách anh hùng:

– Huấn Cao học đạo Nho, mang tư tuởng ái quốc, trung Quân. Ông giỏi chữ nghĩa nhưng ông không đi vào lối mòn, không theo đạo chữ Hiếu, bất đồng với triều đình, sự cai trị của triều đại đương thời, dám chấp nhận hậu quả, tinh thần sẵn sàng đấu tranh vì nghĩa lớn.

– Không chịu vào luồn ra cúi, không chịu sống trong cảnh nhung hoa áo gấm, cá chậu chim lồng. Ông có lí tưởng về cuộc đời công bằng, không có áp bức bóc lột. Ông từ bỏ công danh, đứng về phía nhân dân chống lại triều đình phong kiến thối nát.

– Bị bắt, bị kết án tử hình, không hề run sợ, luôn giữ tư thế đàng hoàng, hiên ngang, bất khuất, không mảy may nuối tiếc, hối hận, bước vào nhà ngục trong tư thế hiên ngang, đầy khí phách, khinh bỉ những kẻ đại diện cho quyền lực thống trị, (Huấn Cao không để tâm, lạnh lùng trút đầu thang gông, coi chúng chỉ là bọn tiểu lại, thấp kém, coi thường, thúc mạnh đầu gông 7, 8 tạ xuống thềm đá tảng đánh thuỳnh một cái).

– Bản lĩnh cứng cỏi không sợ quyền uy, không sợ cái chết.

+ Huấn Cao tiếp nhận biệt đãi, Huấn Cao chưa hiểu lý do, Huấn Cao không quan tâm vì bọn cai tù là độc ác, âm mưu, ông không quan tâm thản nhiên thưởng thức, khinh bạc, nặng lời khi chưa rõ ý tốt của quản ngục: “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây.” Ông đứng cao hơn bạo lực tăm tối nhà tù à Không sợ hãi âm mưu thấp hèn.

+ Khi nghe tin mình sắp vào kinh chịu án, Huấn Cao mỉm cười, xác định trước kết quả tất yếu, thanh thản vì thực hiện lý tưởng cao đẹp của đời vì dân, cuộc sống, không nuối tiếc. à Đáng ngưỡng mộ, khâm phục.

c. Vẻ đẹp của một thiên lương trong sáng, cao cả.

– Ý thức rõ tài năng, không phải ai ông cũng cho chữ.

+ Tính ông vốn khoảnh. Ông tỏ ra kiêu ngạo về tài năng của mình, ý thức rõ về tài năng, món quà đặc biệt mà thượng đế chí công ban tặng cho Huấn Cao, mà người đời không phải ai cũng có dược món đồ này. “Trừ chỗ tri kỉ, ông ít chịu cho chữ”, không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ.

+ Viết chữ không khó khăn gì nhưng ông ít khi cho chữ. Cả đời mới viết có 2 bộ tứ bình và một bức trung đường cho ba người bạn thân. Điều dó chứng tỏ ông tôn trọng tài năng của mình, tôn trọng món quà mà thượng đế đã trao tặng cho mình, dành tặng cho những tấm lòng trong thiên hạ, tặng cho ba người bạn thân.

+ Huấn Cao coi trọng giá trị của tài năng, sử dụng tài năng giống như món quà chỉ để dành tặng đền đáp tấm lòng thiên hạ: “Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ”. Cả một đời, tâm nguyện lời thề mà Huấn Cao nghiêm túc thực hiện không vì vàng ngọc, không vì quyền thế à Nhân cách nhà Nho, con người cao quý.

– Sự tôn trọng đặc biệt của mình với kẻ liên tài.

– Quan điểm sống: Sống ở đời phụ lòng người là điều không thể tha thứ, còn giây phút nào cuối đời thì không cho phép phụ lòng người, biết sửa sai, bằng mọi giá đền đáp tấm lòng trong thiên hạ à Biểu hiện thiên lương cao quý.

– Có khí phách, khí chất, quan điểm cao quý, vàng ngọc không thể mua chuộc được những dòng chữ ấy, quyền thế không bao giờ khiến Huấn Cao cúi đầu cho chữ. Khi biết thiện ý của viên quản ngục, Huấn Cao đã rất cảm động, cho chữ: “Ta cảm thấy tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người… thiếu chút nữa ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”.

– Huấn Cao khuyên quản ngục thay đổi chốn ở, giữ thiên lương trong sạch. Huấn Cao là người có tấm lòng bao dung độ lượng, có ý thức lưu truyền cái đẹp cho đời sau.

Nhận xét: Nguyễn Tuân đã sử dụng bút pháp lãng mạn, lí tưởng hóa để miêu tả hình tượng nhân vật Huấn Cao. Đó là người có vẻ đẹp toàn diện: vẻ đẹp của tài năng, vẻ đẹp của tâm hồn, vẻ đẹp của khí phách. Hình ảnh Huấn Cao gắn liền với cái đẹp, với ánh sáng và cái thiện.

2. Sự tỏa sáng ba vẻ đẹp trong cảnh cho chữ.

– Vẻ đẹp của khí phách: Huấn Cao mỉm cười, lặng người khi nghe thầy thơ lại thông báo, bộ dạng của Huấn Cao khiến người khác dễ hiểu lầm, Huấn Cao không sợ hãi mà ông thương cho viên quản ngục, ái ngại cho viên quản ngục tâm tốt thẳng thắn mà phải ăn đời ở kiếp. Cảnh tượng cho chữ đã tráo đổi vị trí cho nhau, thái độ quyền uy, ung dung đỡ viên quản ngục đứng lên.

– Vẻ đẹp của tài hoa: Không còn đồn đại, đang hiện hình, nét chữ vuông tươi tắn, hoài bão tung hoành của một đời người à Minh họa cho bức tranh thư pháp hoàn hảo à Lý tưởng của nam nhi thời xưa ( Liên hệ: “ Làm trai cho đáng nên trai, Xuống đông đông tĩnh nên đoài đoài yên” à gói trọn trong nét chữ của Huấn Cao.

– Vẻ đẹp của thiên lương: Huấn Cao nhận lời cho chữ viên quản ngục, nhận ra tấm lòng trong thiên hạ, hiểu dược tấm lòng của viên quản ngục, dành nét chữ cuối cùng cho viên quản ngục. Huấn Cao đỡ viên quản ngục đứng lên đĩnh đạc đưa ra lời khuyên chí tình, xuất phát từ chỗ Huấn Cao ái ngại tình cảnh của viên quản ngục, cảm hóa thiên lương của viên quản ngục.

3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật của nhà văn.

– Hình tượng nhân vật Huấn Cao có nguyên mẫu từ Cao Bá Quát, con người lỗi lạc ở thế kỉ trung đại, tìm ra điểm tương đồng với Cao Bá Quát.

+ Huấn Cao: người họ Cao giữ chức huấn đạo coi sóc việc học ở địa phương. Cao Bá Quát cũng họ Cao, giữ nhiệm vụ coi sóc việc học ở địa phương.

+ Huấn Cao là người tử tù, dám cầm đầu một cuộc đại phản chống lại triều đình mà ông căm ghét. Cao Bá Quát là thủ lĩnh, quân sư cho cuộc khởi nghĩa nhân dân và cũng bị bắt giữ.

+ Huấn Cao là một người tài hoa, nghệ sĩ. Cao Bá Quát được coi là thần siêu thánh Quát nổi tiếng.

+ Huấn Cao đưa ra lời khuyên cho viên quản ngục, coi trọng những tấm lòng trong thiên hạ, viên quản ngục chỉ cúi đầu trước người sáng tạo ra cái đẹp. Cao Bá Quát “Nhất sinh đê thả bái hoa mai” cả đời chỉ cúi đầu trước những gì thanh cao à thuyết phục hấp dẫn hơn.

– Nghệ thuật xây dựng nhân vật:

+ Khắc họa nhân vật mang nhiều dấu ấn của chủ nghĩa lãng mạn: Nhân vật Huấn Cao giống như phần lớn các nhân vật trong truyện của Nguyễn Tuân: là một con người tài hoa tài tử >< phàm tục, xa lạ, tính cách khác thường.

+ Đặt nhân vật vào tình huống độc đáo: gặp gỡ éo le nghịch cảnh.

+ Thủ pháp cường điệu, phóng đại, đối lập.

– Ngôn ngữ giàu chất tạo hình, khắc họa nhân vật rõ nét, dùng nhiều từ Hán Việt, mang sắc thái cổ kính.

  • Kết bài:

“Chữ người tử tù” thể hiện quan điểm thẩm mỹ tiến bộ: luôn cho rằng cái đẹp gắn liền với cái thiện. Cái Đẹp phải là sự kết hợp giữa cái tâm và cái tài. Cái đẹp bao giờ cũng chiến thắng cái xấu xa, thấp hèn, thiện chiến thắng cái dơ bẩn, tội ác, ánh sáng chiến thắng bóng tối, dù trong hoàn cảnh nào, cũng sẽ luôn vươn lên và tỏa sáng. Tôn vinh người nghệ sĩ thư pháp, nét đẹp, hình ảnh người anh hùng cách mạng à biểu hiện của lòng yêu nước.


Tham khảo:

Phân tích vẻ đẹp của nhân vật Huấn Cao trong “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân?

  • Mở bài:

Nguyễn Tuân là một trong những cây bút tiêu biểu nhất của nền văn học Việt Nam thế kỷ XX. Ông có những sáng tác xoay quanh những nhân vật lí tưởng về tài năng xuất chúng, về cái đẹp tinh thần. truyện ngắn “Chữ người tử tù” in trong tập “Vang bóng một thời”, một tập truyện xuất sắc của Nguyễn Tuân trước cách ma ngj tháng Tám.

  • Thân bài:

Nhà văn Nguyễn Tuân đã lấy nguyên mẫu hình tượng Cao Bá Quát làm nguồn cảm hứng sáng tạo nhân vật Huấn Cao. Họ Cao là một lãnh tụ nông dân chống triều Nguyễn. Huấn Cao được lấy từ hình tượng này với tài năng, nhân cách sáng ngời và rất đỗi tài hoa.

Vẻ đẹp của Huấn Cao trước hết là vẻ đẹp của con người nghệ sĩ tài hoa. Huấn Cao là một con người đại diện cho cái đẹp, từ cái tài viết chữ của một nho sĩ đến cốt cách ngạo nghễ phi thường của một bậc trượng phu , tấm lòng trong sáng của một người biết quý trọng cái tài, cái đẹp. Huấn Cao trước hết là một người có tài viết thư pháp. Chữ viết không chỉ là kí hiệu ngôn ngữ mà còn thể hiện tính cách con người. Cái tài viết chữ của ông được thể hiện qua đoạn đối thoại giữa viên quản ngục và thầy thơ lại.

Tài năng của Huấn Cao còn được miêu tả qua lời người dẫn truyện và trong suy nghĩ nhân vật. Chữ của Huấn Cao “đẹp lắm, vuông lắm”, nét chữ còn thể hiện khí phách hiên ngang, tung hoành bốn bể. Chữ Huấn Cao đẹp và quý đến nỗi viên quản ngục ao ước suốt đời. Viên quản ngục đến “mất ăn mất ngủ”; không nề hà tính mạng của mình để có được chữ của Huấn Cao, “một vật báu ở trên đời”. Chữ là vật báu trên đời thì chắc chắn chủ nhân của nó phải là một người tài năng xuất chúng, phi thường có một không hai, là kết tinh mọi tinh hoa, khí thiêng của trời đất hun đúc lại mà thành. Chữ của Huấn Cao đẹp đến như vậy thì nhân cách của Huấn Cao cũng chẳng kém gì. Ông là con người tài tâm vẹn toàn.

Sự thống nhất của cái tài, cái tâm và khí phách anh hùng ở hình tượng Huấn Cao. Huấn Cao có cốt cách ngạo nghễ, phi thường của một bậc trượng phu. Ông theo học đạo nho thì đáng lẽ phải thể hiện lòng trung quân một cách mù quáng. Nhưng ông đã không trung quân mà còn chống lại triều đình để giờ đây khép vào tội “đại nghịch”, chịu án tử hình. Bởi vì Huấn Cao có tấm lòng nhân ái bao la; ông thương cho nhân dân vô tội nghèo khổ, làm than bị áp bức bóc lột bởi giai cấp thống trị tàn bạo thối nát. Huấn Cao rất căm ghét bọn thống trị và thấu hiểu nỗi thống khổ của người dân “thấp cổ bé họng”. Nếu như Huấn Cao phục tùng bọn phong kiến kia thì ông sẽ được hưởng vinh hoa phú quý. Nhưng không, ông Huấn đã lựa chọn con đường khác: con đường đấu tranh giành quyền sống cho người dân vô tội. Cuộc đấu tranh không thành công ông bị bọn chúng bắt. Giờ đây phải sống trong cảnh ngục tối chờ ngày xử chém. Trước khi bị bắt vào ngục, viên quản ngục đã nghe tiếng đồn Huấn Cao rất giỏi võ, ông có tài “bẻ khóa, vượt ngục” chứng tỏ Huấn Cao là một người văn võ toàn tài, quả là một con người hiến có trên đời.

Tác giả miêu tả sâu sắc trạng thái tâm lý của Huấn Cao trong những ngày chờ thi hành án. Trong lúc này đây, khi mà người anh hùng “sa cơ lỡ vận” nhưng Huấn Cao vẫn giữ được khí phách hiên ngang, kiên cường. Tuy bị giam cầm về thể xác nhưng ông Huấn vẫn hoàn toàn tự do bằng hành động “dỡ cái gông nặng tám tạ xuống nền đá tảng đánh thuỳnh một cái” và “lãnh đạm” không thèm chấp sự đe dọa của tên lính áp giải. Dưới mắt ông, bọn kia chỉ là “một lũ tiểu nhân thị oai”. Cho nên, mặc dù chịu sự giam giữ của bọn chúng nhưng ông vẫn tỏ ra “khinh bạc”. Ông đứng đầu gông, ông vẫn mang hình dáng của một vị chủ soái, một vị lãnh đạo. Người anh hùng ấy dù cho thất thế nhưng vẫn giữ được thế lực, uy quyền của mình. Thật đáng khâm phục! Mặc dù ở trong tù, ông vẫn thản nhiên “ăn thịt, uống rượu như một việc vẫn làm trong hứng bình sinh”. Huấn Cao hoàn toàn tự do về tinh thần. Khi viên cai ngục hỏi Huấn Cao cần gì thì ông khảng khái trả lời: “Ngươi hỏi ta cần gì à? Ta chỉ muốn một điều là ngươi đừng bước chân vào đây ”.

Cách trả lời ngang tàng, ngạo mạn đầy trịch thượng như vậy là bởi vì Huấn Cao vốn hiên ngang, kiên cường; “đến cái chết chém cũng còn chẳng sợ …”. Ông không thèm đếm xỉa đến sự trả thù của kẻ đã bị mình xúc phạm. Huấn Cao rất có ý thức được vị trí của mình trong xã hội, ông biết đặt vị trí của mình lên trên những loại dơ bẩn “cặn bã” của xã hội. “Bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất”.

Huấn Cao là người có “thiên lương” trong sáng, cao đẹp. Theo ông, chỉ có “thiên lương”, bản chất tốt đẹp của con người mới là đáng quý. Thế nhưng khi biết được nỗi lòng của viên quản ngục, Huấn những vui vẻ nhận lời cho chữ mà còn thốt rằng: “Ta cảm tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các ngươi. Ta biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có sở thích cao quý đến như vậy. Thiếu chút nữa, ta đã phụ một tấm lòng trong thiên hạ”. Huấn Cao cho chữ là một việc rất hiếm bởi vì “tính ông vốn khoảnh. Ta không vì vàng bạc hay uy quyền mà ép cho chữ bao giờ”. Hành động cho chữ viên quản ngục chứng tỏ Huấn Cao là một con người biết quý trọng cái tài, cái đẹp, biết nâng niu những kẻ tầm thường lên ngang hàng với mình.

Cảnh “cho chữ” diễn ra thật lạ, quả là cảnh tượng “xưa nay chưa từng có”, có ý nghĩa khẳng định và làm nổi bậc vẻ đẹp của các nhân vật, đồng thời thể hiện tư tưởng của tác phẩm. Kẻ tử tù “cổ đeo gông, chân vướng xiềng” đang “đậm tô từng nét chữ trên vuông lụa bạch trắng tinh” với tư thế ung dung tự tại, Huấn Cao đang dồn hết tinh hoa vào từng nét chữ. Đó là những nét chữ cuối cùng của con người tài hoa ấy. Những nét chữ chứa chan tấm lòng của Huấn Cao và thấm đẫm nước mắt thương cảm của người đọc. Con người tài hoa vô tội kia chỉ mới cho chữ ba lần trong đời đã vội vã ra đi, để lại biết bao tiếc nuối cho người đọc. Qua đó, Nguyễn Tuân cũng gián tiếp lên án xã hội đương thời đã vùi dập tài hoa con người. Và người tù kia bỗng trở nên có quyền uy trước những người đang chịu tránh nhiệm giam giữ mình. Ông Huấn đã khuyên viên quản ngục như một người cha khuyên bảo con: “Tôi bảo thực thầy quản nên về quê ở đã rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây khó giữ được thiên lương cho lành vững rồi cũng có ngày nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi”.

Theo Huấn Cao, cái đẹp không thể nào ở chung với cái xấu được. Con người chỉ thưởng thức cái đẹp khi có bản chất trong sáng, nhân cách cao thượng mà thôi. Những nét chữ cuối cùng đã cho rồi, những lời nói cuối cùng đã nói rồi. Huấn Cao, người anh hùng tài hoa kia dù đã ra đi mãi mãi nhưng để lại ấn tượng sâu sắ cho những ai đã thấy, đã nghe, đã từng được thưởng thức nét chữ của ông. Sống trên cõi đời này, Huấn Cao đã đứng lên đấu tranh vì lẽ phải; đã xóa tan bóng tối hắc ám của cuộc đời này. Chính vì vậy, hình tượng Huấn Cao đã trở nên bất tử. Huấn Cao sẽ không chết mà bước sang một cõi khác để xua tan bóng tối nơi đó, đem lại hạnh phúc cho mọi người ở mọi nơi.

  • Kết bài:

Ở Huấn Cao ánh lên vẻ đẹp của cái “tài” và cái “tâm”. Trong cái “tài” có cái “tâm” và cái “tâm” ở đây chính là nhân cách cao thượng sáng ngời của một con người tài hoa. Cái đẹp luôn song song “tâm” và “tài” thì cái đẹp đó mới trở nên có ý nghĩa thực sự. Xây dựng hình tượng Huấn Cao, nhà văn Nguyễn Tuân đã thành công trong việc xây dựng nên chân dung nghệ thuật điển hình lí tưởng trong văn học thẩm mĩ. Dù cho Huấn Cao đã đi đến cõi nào chăng nữa thì ông vẫn sẽ mãi trong lòng người đọc thế hệ hôm nay và mai sau.

Phân tích Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân


Tham khảo:

Hình tượng nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm “Chữ người tử tù” của nhà văn Nguyễn Tuân.

  • Mở bài:

Nguyễn Tuân là cây bút xuất sắc của nền văn học Việt Nam cả trước và sau Cách mạng. Trước Cách mạng, Nguyễn Tuân nổi tiếng với các tác phẩm: “Vang bóng một thời”, “Chiếc lư đồng mắt cua”, “Chùa Đàn”… Sau cách mạng nhà văn để lại dấu ấn sâu sắc qua một số tùy bút: “Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi”, “Sông Đà”… “Chữ người tử tù” là tác phẩm đặc sắc nhất của Nguyễn Tuân trích trong tập “Vang bóng một thời”. Thành công của Nguyễn Tuân trong tác phẩm này là đã khắc họa hình tượng nhân vật huấn Cao – một con người trí dũng song toàn.

  • Thân bài:

Nhân vật Huấn Cao là một nguyên mẫu lịch sử có thật của thế kỉ XIX, là hiện thân của võ tướng – người anh hùng của cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương, một nhà thơ, nhà thư pháp Cao Bá Quát lững lẫy một thời. Qua ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân, nguyên mẫu lịch sử này đã tự nhiên đi vào trang văn và hiện lên lung linh sáng tỏa trên từng con chữ.

Nhân vật Huấn Cao là người anh hùng khí phách, hiên ngang:

Ngay từ đầu tác phẩm, nhân vật Huấn Cao đã hiện lên như ánh hào quang phủ kín cả bầu trời tỉnh Sơn. Qua lời trò chuyện của quản ngục và thơ lại ta thấy tiếng tăm của Huấn Cao đã nổi như cồn. Điều làm cho bọn ngục quan phải kiêng nể không chỉ là tài viết chữ đẹp mà còn là “tài bẻ khóa, vượt ngục” của ông Huấn. Tuy nhiên, đây không phải là trò của bọn tiểu nhân vô lại đục tường khoét vách tầm thường mà là hình ảnh của một người anh hùng ngang tàng, một nam tử Hán đại trượng phu “Đỉnh thiên lập địa” không cam chịu cảnh tù đày áp bức, muốn bứt phá gông cùm xiềng xích để thoát khỏi vòng nô lệ.

Huấn Cao mang cốt cách ngạo nghễ, phi thường của một bậc trượng phu. Những kẻ theo học đạo Nho thường  thể hiện lòng trung quân một cách mù quáng. Nhưng trung quân để rồi “dân luống chịu lầm than muôn phần” thì hóa ra là tội đồ của đất nước. Ông Huấn đã lựa chọn con đường khác: con đường đấu tranh giành quyền sống cho người dân vô tội. Bị triều đình phán xét là kẻ tử tù phản nghịch, tội xử chém, là “giặc cỏ” nhưng trong lòng nhân dân lao động chân chính ông lại là một anh hùng bất khuất, một kẻ ngang tàng “chọc trời khuấy nước” sống ngoài vòng cương tỏa, lừng lẫy chẳng khác gì 108 vị anh hùng Lương Sơn Bạc ở Trung Hoa năm xưa. Tuy chí lớn của ông không thành nhưng ông vẫn hiên ngang bất khuất, lung linh sáng tỏa giữa cuộc đời.

Trước uy quyền của nhà lao, con người ấy càng sáng tỏa. Trò tiểu nhân thị oai, dọa dẫm của bọn tiểu lại giữ tù càng làm cho ông thêm phần khinh bạc. Ông vẫn giữ thái độ bình thản, xem thường, dỗ gông, phủi rệp, hóm hỉnh đùa vui. Huấn Cao “cúi đầu thúc mạnh đầu thang gông xuống đất đánh thuỳnh một cái” làm vỡ tan đi chốn sức mạnh của chốn ngục tù. Đó là thái độ ngang tàng, bất chấp luật pháp của một xã hội dơ bẩn.

Người xưa thường nói “Nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại” (Một ngày ở trong tù bằng nghìn thu ở ngoài). Thay vì buồn rầu, chán nản “gậm một mối căm hờn trong cũi sắt” thì ông lại thản nhiên nhận rượu thịt và ăn uống no say coi như một việc vẫn làm trong cái hứng sinh bình. Chứng tỏ ông nào xem nhà tù là chốn ngục tăm tối mà chỉ xem nhà tù như một chốn dừng chân để nghỉ ngơi “Chạy mỏi chân thì hẵng ở tù”.

Đối với quản ngục, Huấn Cao rất: lạnh lùng, khinh bạc xưng hô “ta –  ngươi”, miệt thị hạ nhục “Ngươi bảo ta cần gì, ta chỉ cần ngươi đừng đặt chân vào đây nữa”. Cách trả lời ngang tàng, ngạo mạn đầy trịch thượng như vậy là bởi vì Huấn Cao vốn hiên ngang, kiên cường; “đến cái chết chém cũng còn chẳng sợ nữa là…”. Ông không thèm đếm xỉa đến sự trả thù của kẻ đã bị mình xúc phạm.

Huấn Cao rất có ý thức được vị trí của mình trong xã hội, ông biết đặt vị trí của mình lên trên những loại dơ bẩn “cặn bã” của xã hội. “Bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất”. Nhân cách của Huấn Cao quả là trong sáng như pha lê, không hề có một chút trầy xước nào. Theo ông, chỉ có “thiên lương”, bản chất tốt đẹp của con người mới là đáng quý. Có lẽ chính vì vậy mà khi nghe tin xử trảm: ông vẫn thản nhiên, không sợ hãi, chỉ khẽ mỉm cười, bất chấp cái chết, coi thường cái chết.

Nhân vật Huấn Cao là con người nghệ sĩ tài hoa:

Ông có tài viết chữ đẹp. Trong thị hiếu thẩm mĩ của người xưa, ở Việt Nam cũng như ở Trung Quốc, viết chữ đẹp là cả một nghệ thuật cao quý (Thư pháp). Chơi chữ đẹp là một thú chơi thanh tao. Tài viết chữ đẹp của Huấn Cao do đó là biểu hiện của nét đẹp của văn hoá một thời. “Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm”. Đẹp đến mức người ta khát khao, ngưỡng vọng “có được chữ ông Huấn mà treo là có một báu vật trên đời”.

Huấn Cao còn là người anh hùng có thiên lương trong sáng như pha lê. Ông  là người có ý thức giữ gìn cái đẹp, có lòng tự trọng: “Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ”. Nỗi khổ của quản ngục là có Huấn Cao trong tay, dưới quyền mình nhưng lại không thể nào có được chữ ông Huấn. Quản ngục và Huấn Cao là hai con người ở hai thế giới cách biệt, đối lập nhau: Quản ngục đại diện cho thế lực nhà tù, nắm giữ pháp luật; Huấn Cao là kẻ tử tù.

Huấn Cao là người sáng tạo cái đẹp; quản ngục là người yêu quý cái đẹp lại là người bị ông trời “chơi ác, đem đày ải những cái thuần khiết vào giữa một đống cặn bã”.Trên bình diện xã hội họ là hai kẻ đối lập nhưng trên bình diện nghệ thuật họ lại là tri âm tri kỷ. Tình huống truyện là ở chỗ ấy, cả hai kẻ lại gặp nhau trong cảnh éo le này.

Lúc hiểu được tấm lòng viên quản ngục: Ông Huấn “lặng nghĩ”, “mỉm cười”, ngạc nhiên “ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài… thiếu chút nữa ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”.  Lời nói rất chân tình, xúc động. Điều này cho thấy Huấn Cao là một người hiên ngang, khí phách nhưng cũng rất có nghĩa khí. Không thể phụ một “thanh âm trong trẻo chen lẫn giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ”.

Ở Huấn Cao toát lên vẻ đẹp của một thiên lương trong sáng, cao cả.

Cảnh cho chữ là sự hợp thể giữa TÀI HOA, KHÍ PHÁCH, THIỆN LƯƠNG. Hai con người đồng nhất tỏa sáng trong đêm cho chữ “Một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”. Nguyễn Tuân đã dồn hết bút lực của mình vào cảnh này. Nhà văn đã huy động vốn ngôn ngữ, tâm huyết và tài năng của mình dồn tụ lại trong một không khí cổ xưa hoành tráng của nghệ thuật thanh cao: Viết thư pháp.

Nhà văn dựng cảnh thật tài tình và đầy dụng ý nghệ thuật. Thủ pháp tương phản làm nên cảnh cho chữ bi tráng chưa từng thấy. Đó là sự đối lập giữa bóng tối và ánh sáng; giữa sự dơ bẩn của xã hội nhà tù và thiên lương trong sáng, khí phách rạng ngời. Tương phản giữa bó đuốc sáng rực trên vách nhà với đêm đen thăm thẳm; tương phản giữa vuông lụa trắng, thoi mực thơm và tường nhà, đất đầy mạng nhện, đầy phân chuột, phân gián.

Ở đây sự đối lập giữa ánh sáng và bóng tối. Ánh sáng đó mang sắc màu ý nghĩa nhân sinh đậm nét: ánh sáng của lương tri, của nhân tâm, của thiên lương  trong sáng đã chiến thắng bóng tối của cường quyền, bạo lực. Sự chiến thắng đó là điều tất yếu  sẽ xảy ra, bởi vì mọi cái thiện, cái cao cả, chính nghĩa cuối cùng  sẽ chiến thắng. Với ánh sáng ấy đã cảm hóa con người một cách mạnh mẽ, nâng đỡ những con người có đức, mến mộ cái tài, nhưng yếu ớt trở về cuộc sống lương thiện… Sự chiến thắng đó là bản hùng ca, ca ngợi chữ tâm của con người thiên lương.

Việc viết thư pháp thường diễn ra ở nơi thư phòng thư sảnh sạch sẽ thoáng mát, có hoa có nguyệt, có men rượu cay nồng. Nhưng khung cảnh thường thấy ấy lại không hiện diện nơi đây. Ở đây, sự dơ bẩn, phàm tục được hiện hữu rất rõ: “một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián”. Sự nhem nhuốc, phàm tục lên đỉnh điểm. Nhưng sự xuất hiện của phiến lụa, của thoi mực thơm đã xua tan đi mùi ô uế. Nhưng sự ô uế dần dần biến mất, bởi “Cái đẹp là địa hạt của sự sống, cái đẹp đã lên ngôi thay thế cho cái xấu xa, thấp hèn, cái đẹp nâng đỡ con người”. Vì thế dù “Cổ đeo gông chân vướng xiềng” nhưng ông Huấn vẫn tung hoành ngang dọc cái khát khao của đời mình lên từng vuông lụa trắng.

Đó là thái độ uy nghi, đường hoàng, một thái độ của “hùm thiêng” khi đã “sa cơ” mà chẳng hèn chút nào. Thái độ ấy, đúng là “Thân thể ở trong lao – Tinh thần ở ngoài lao”. Người tù ấy đã ngự trị nơi bóng tối này với một dáng vóc uy nghi, lẫm liệt thật đường hoàng làm cho bọn quản lý nhà ngục phải khiếp sợ, kính nể: “viên quản ngục lại vội khúm núm  cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa” và “thầy thơ lại gầy gò run run bưng chậu mực”. Nét chữ của ông như rồng bay phượng múa, thiên lương của ông tỏa sáng lồng lộng chốn ngục tù. Tài hoa và thiên lương và khí phách đã hợp nhất thành Huấn Cao. Dũng và Mỹ hợp thể làm nên bức tranh cho chữ sáng ngời.

Kỳ lạ thay, trong cảnh cho chữ này, pháp luật và uy quyền của nhà tù đã bị sụp đổ. Uy quyền và bạo lực giờ đây đã tan biến, nó bị khuất phục bởi cái đẹp, cái thiên lương. Ở đó không còn tử tù và quản ngục, thơ lại. Ở đó chỉ còn những con người yêu quý và biết thưởng thức cái đẹp. Cái xấu xa, cái ác, cái chết chóc nhường chỗ cho cái đẹp, cái bất tử. “Điều đó cho thấy rằng trong nhà tù tăm tối, hiện thân cho cái ác, cái tàn bạo đó, không phải cái ác, cái xấu đang thống trị mà chính cái Đẹp, cái Dũng, cái Thiện, cái cao cả đang làm chủ.

Với cảnh cho chữ này, cái nhà ngục tăm tối đã đổ sụp, bởi vì không còn kẻ phạm tội tử tù, không có quản ngục và thư lại, chỉ có người nghệ sĩ tài hoa đang sáng tạo cái đẹp trước đôi mắt ngưỡng mộ sùng kính của những kẻ liên tài, tất cả đều thấm đẫm ánh sáng thuần khiết của cái đẹp, cái đẹp của thiên lương và khí phách. Cũng với cảnh này, người tử tù đang đi vào cõi bất tử”.

Lời khuyên của Huấn Cao đối với quản ngục lại một lần nữa khẳng định cái đẹp, cái thiên lương của con người: “Ở đây lẫn lộn ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi. Chỗ này không phải là nơi để treo một bức lụa với những nét chữ vuông vắn, tươi tắn nó nói lên cái hoài bão tung hoành của một đời con người”.

Lời khuyên của Huấn Cao đã khẳng định rằng: cái đẹp, cái thiên lương không bao giờ và không khi nào lại có thể chung sống với cái xấu, cái ác: “Ở đây khó giữ thiên lương cho lành vững được và rồi cũng nhen nhuốm mất cả cái đời lương thiện đi”. Một lời khuyên thật thiện tâm, thiện ý của Huấn Cao đã làm cho viên quản ngục cảm động: “vái người tù một vái, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào: – Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Câu nói : “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh” đã cho thấy rằng: cái đẹp, cái thiện, cái tài hoa đã chiến thắng tuyệt đối. Cái đẹp của nghệ thuật đã xóa nhòa mọi khoảng cách và ranh giới đưa con người đến với nhau trong vẻ đẹp Chân – Thiện – Mỹ.

Thành công của Chữ người tử tù là ở cách tạo tình huống truyện độc đáo. Huấn Cao và viên quản ngục, hai kẻ lúc đầu là đối lập, sau lại thống nhất hài hòa, cùng tỏa sáng hào quang. Nghệ thuật kể chuyện, cấu trúc tình tiết, lời thoại và độc thoại, khắc họa tính cách nhân vật đặc sắc. Nguyễn Tuân đã sử dụng một loạt từ Hán Việt rất đắt (pháp trường, tử tù, tử hình, nhất sinh, bộ tứ bình, bức trung đường, lạc khoản, thiên hạ, thiên lương, lương thiện, v.v…) tạo nên màu sắc lịch sử, cổ kính, bi tráng. Nguyễn Tuân đúng là bậc thầy về ngôn ngữ, rất lịch lãm uyên bác về lịch sử, về xã hội.

Là nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp, Nguyễn Tuân đã thổi hồn vào những trang viết mang đến cho người đọc bao hình tượng văn học sáng ngời. Tập truyện “Vang bóng một thời” có lẽ là nơi hội tụ những nét đẹp cao quý: thú uống trà đạo, thú chơi thư pháp, thả thơ, đánh thơ… Gắn liền với những thú chơi tao nhã ấy là những con người tài hoa bất đắc chí. “Chữ người tử tù” là tác phẩm đặc sắc của Nguyễn Tuân trích trong tập truyện ấy và nhân vật Huấn Cao đã được ông trau chuốt  đạt đến hoàn hảo. Đó là anh hùng thời loạn hội tụ những phẩm chất tài năng: khí phách hiên ngang – thiên lương trong sáng – tài hoa uyên bác.

  • Kết bài:

Có thể nói “Chữ người tử tù” là một tác phẩm hay nhất của Nguyễn Tuân trước cách mạng. Một tác phẩm chứa đựng nhiều ý vị về cái đẹp của tài hoa, thiên lương, khí phách. Nhân vật Huấn Cao là một thành công rực rỡ của Nguyễn Tuân. Càng đọc đi đọc lại ta càng ngấm tâm ý mà Nguyễn Tuân muốn gửi đến chúng ta. Đúng như lời Vũ Ngọc Phan đã nói: “… văn Nguyễn Tuân không phải thứ văn để người nông nổi thưởng thức”.


Tham khảo:

Hình tượng nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm “Chữ người tử tù” của nhà văn Nguyễn Tuân.

  • Mở bài:

Tập truyện “Vang bóng một thời” là tác phẩm xuất sắc nhất của nguyễn Tuân thời kì trước 1945. Trong đó truyện ngắn “Chữ người tử tù” là nổi bậc nhất. Nhân vật Huấn Cao trong truyện là một hình mẫu điển hình về một nhân vật tài năng, khí phách, là biểu tượng của lương tri con người.

  • Thân bài:

Bằng một thứ văn xuôi điêu luyện gợi được không khí cổ kính của một thời đã qua, Nguyễn Tuân đã khắc họa thành công những nét tính cách nhân vật Huấn Cao. Đó là một con người tự trọng, sống hiên ngang bất khuất. Ông rất tự trọng, không ham quyền và hám lợi: “Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ”. Hiên ngang bất khuất: “…những người chọc trời quấy nước, đến trên đầu người tu, người ta cũng còn chẳng biết ai nữa…”

Chí lớn không thành, Huấn Cao coi thường gian khổ, kể cả cái chết kề bên. Ông chống lại triều đình, bị bắt giam tử ngục, vẫn coi thường: “Đến cái cảnh chết chém, ông cũng chẳng sợ nữa …”. Có những suy nghĩ, hành vi thật phóng khoáng: Ông Huấn Cao vẫn thản nhiên nhận rượu thịt của viên quản ngục, coi như đó là một việc vẫn làm trong cái hứng sinh bình, dù đang bị giam cầm.

Huấn Cao khinh bỉ những kẻ đại diện cho quyền lực thống trị. Dưới mắt ông, chúng chỉ là là tiểu nhân thị oai, nên ông luôn tỏ ra khinh bỉ chúng, dù ở giữa cảnh tàn nhẫn, lừa lọc, giữa một dõng cặn bã. Thái độ và ngôn ngữ nhân vật hết sức khinh bạc. Sau khi viên quản ngục khép nép hỏi Huấn Cao có cần gì nữa không, ông đã trả lời như tát nước vào mặt đối phương: “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ cần có một điều, là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây”. Khí phách đó, tư thế đó luôn luôn hiên ngang lồng lộng giữa cái nền xám xịt của ngục tù.

Huấn Cao mang nét đẹp của con người khí phách, tư thế ngạo nghễ. Huấn Cao có một tâm hồn cao quý. Ông ca ngợi thiên lương, tức là cái bản chất tốt đẹp của con người: “Tôi bảo thực đấy, thầy Quản nên tìm về nhà quê mà ở đã (…) Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng nhem nhuốc mất cả đời lương thiện đi”. Lời khuyên bảo cuối cùng đối với viên quản ngục thể hiện cái tâm của nhân vật Huấn Cao vậy.

Huấn Cao là người biết yêu cái đẹp và cảm thông với người yêu quý cái đẹp. Kiêu bạc là thế, nhưng khi hiểu được tấm lòng chân thành của ngục quan, ông vui vẻ nhận cho chữ, mà còn tỏ ra cảm động. “Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”.

Huấn Cao là người rất mực tài hoa. Thư pháp (phép viết chữ, nghệ thuật viết chữ Hán) vốn là một thú cao nhã của người xưa, bên cạnh cầm, kì, thi, họa. Ông Huấn có tài viết chữ đẹp, “vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp”. Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm.

Cái tài hoa ấy chỉ dành riêng cho người tri kỉ: “Đời ta cũng mới viết có hai bộ tứ bình và một bức trung đường cho ba người bạn thân của ta thôi”. Và lần này như một ngoại lệ, ông cho chữ viên quản ngục, vì “Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người”.

Con người ấy đã thực hiện lời hứa với viên quản ngục, thể hiện cái tài hoa tuyệt thế của mình trong một khung cảnh đầy xúc động. Bằng hiện pháp đối lập, Nguyễn Tuân đã làm toát lên chủ đề của truyện trong đoạn cuối truyện. Cái cao đẹp (viết chữ vốn là một việc thanh cao, long trọng, với lụa tràng, mực thắm, nét chữ vuông tươi tắn) đối lập với cái dơ bẩn (cảnh buồng nhà ngục tối, chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián).

Hình ảnh kì vĩ của người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng đang đậm tô nét chữ đối lập với hình ảnh co ro của thầy thơ lại run run bưng chậu mực và của viên quan ngục khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ (…), chắp tay vái người tù một vái.

Tất cả thể hiện ý nghĩa sâu sắc: cái đẹp có thể sản sinh từ nơi tội ác ngự trị, giữa mảnh đất chết (nhà ngục), bởi một con người sắp chết (tử tội Huấn Cao). Còn lời Huấn Cao khuyên viên quản ngục lại mang ý nghĩa bổ sung: cái đẹp không thể cũng sống chung với tội ác.

Hình tượng nhân vật Huấn Cao trong Chữ người tử tù tượng trưng cho cái đẹp của khí phách, của tài hoa hòa hợp cái đẹp của thiên lương. Nhân vật Huấn Cao, cũng như nhiều nhân vật chính diện khác trong Vang bóng một thời, nhất thiết phải là một con người tài hoa. Song ở Huấn Cao, bên cạnh cái tài hoa, còn có vẻ đẹp khí phách của một con người có trách nhiệm đối với thời cuộc và cái đẹp của thiên lương. Đó cũng là nét độc đáo của hình tượng nhân vật Huấn Cao, so với các nhân vật khác trong Vang bóng một thời.

  • Kết bài:

Nghệ thuật miêu tả của Nguyễn Tuân trong “Chữ người tử tù” mang tính cổ kính qua hệ thống ngôn ngữ, lối suy nghĩ, cung cách đối xử… toát lên không khí của một thời mà nay đã thành vang bóng. Nghệ thuật ấy cũng mang tính hiện đại với nhưng đoạn phân tích ý nghĩa sâu kín, diễn biến tâm lí nhân vật một cách tinh tế.

Hình tượng viên quản ngục trong Chữ người tử tù của nhà văn Nguyễn Tuân

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang