»» Nội dung bài viết:
Hình tượng nhân vật điển hình trong văn học
I. Thế nào là nhân vật điển hình?
– Điển hình là hình tượng nghệ thuật đặc sắc, độc đáo được miêu tả sinh động, hấp dẫn, khái quát được những nét bản chất nhất, quan trọng nhất của con người và đời sống. Nhân vật điển hình là kiểu nhân vật tiêu biểu, có những nét nổi bật, mang nét chung khái quát cho một loại kiểu nhân vật. Nhân vật được coi là điển hình nếu nó tiêu biểu đại diện cho nhiều người có cùng nét tính cách, cuộc đời, số phận giống nó.
– Có thể nói, nhân vật điển hình là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa nhân vật mang tính cụ thể, vừa không lặp lại nhưng vẫn mang những phẩm chất, đặc điểm chung để có thể trở thành đại diện tiêu biểu cho con người trong xã hội. Nói như nhà văn Nga Tuốc-ghê-nhi-ép: “Điển hình là con người cụ thể của một thời.”.
II. Những đặc điểm của nhân vật điển hình.
– Cơ sơ của điển hình nghệ thuật là điển hình xã hội.
+ Theo cách hiểu truyền thống, điển hình phải được cấu tạo sao cho có thể phản ánh một loại hiện tượng nào đó của đời sống. Vì thế điển hình luôn gợi ra hiện tượng của nó, làm liên tưởng tới cái tương tự ở ngoài đời. Hình tượng nhân vật điển hình thường khái quát số phận và tính cách của một loại người, một tầng lớp hay một giai cấp. Chị Dậu (Ngô Tất Tố, Tắt đèn) là điển hình về số phận và tính cách của người phụ nữ nông thôn Việt Nam trước Cách mạng. Cũng có khi nhân vật điển hình khái quát một loại hiện tượng xã hội nổi bật, phổ biến trong đời sống tinh thần của một dân tộc ở một thời điểm lịch sử cụ thể, chẳng hạn điển hình “con người thừa” trong văn học Nga thế kỉ XIX
+ Nhân vật điển hình còn có thể khái quát một loại tư tưởng, một loại ý thức tồn tại phổ biến trong xã hội. Các nhân vật “quỷ sứ” như Man-phơ-rết, Ca-in, Lu-xi-phe của Bai-rơn, Giăng Van-giăng, Gia-ve của Huy-gô, Pi-e, An-đơ-rây của L. Tôn-xtôi; Ra-xcôn-ni-cốp của Đốt-xtôi-ép-xki, nhân vật người điên trong Nhật kí người điên của Lỗ Tấn, Hoàng trong Đôi mắt của Nam Cao là những nhân vật điển hình.Nhưng điển hình nghệ thuật không đồng nhất với điển hình xã hội. Điển hình xã hội không thể là cái cá biệt, Về bản chất, điển hình nghệ thuật cũng không phải là cái cá biệt, nhưng bên cạnh nội dung của loại, nó lại đồng then là cái cá biệt, là “một cá tính xác định”.
+ Nói một cách khái quát, điển hình nghệ thuật là sự thống nhất cao độ, hoàn mĩ giữa tính khái quát tập trung và tính cá thể sinh động. Chính vì thế, khi xây dựng nhân vật điển hình, nhà văn phải phát hiện những chi tiết cá biệt, độc đáo, không lặp lại để làm nổi bật những nét, những tính cách quan trọng, những quan hệ tiêu biểu trong đời sống.
Ví dụ : Cái mặt đầy sẹo, những cơn say triền miên, những cuộc rạch mặt ăn vạ, “mối tình” với Thị Nở, nỗi buồn khi tỉnh rượu và cuộc trả thù đẫm máu của Chí Phèo là những gì rất cá biệt. Tính cách của Chí Phèo cũng rất độc đáo, có một không hai. Chí Phèo vừa là con quỷ dữ của làng Vũ Đại, lại vừa là con người khao khát yêu thương, vừa là công cụ nguy hiểm trong tay giai cấp thống trị, lại vừa là người nô lệ thức tỉnh, vừa là thằng cuồng, là gã mất trí, lại vừa là kẻ có khối óc sáng sủa nhất làng Vũ Đại khi Chí biết đặt ra những câu hỏi sắc sảo vượt ra ngoài tầm khôn ngoan, lọc lõi của Bá Kiến. Nhưng nhờ có những nét cá biệt, độc đáo nói trên mà hình tượng Chí Phèo làm nổi bật tất cả những gì gọi là tủi nhục nhất của người nông dân ở xứ thuộc địa.
+ Nhân vật điển hình là hiện tượng nghệ thuật phổ biến, có thể tìm thấy trong những sáng tác ưu tứ thuộc mọi thời đại. Tuy nhiên, mức độ, ý nghĩa phổ biến và sức mạnh nghệ thuật của các điển hình không phải bao giờ cũng như nhau. Trong văn học cổ đại và trung đại, trong sáng tác của chủ nghĩa cổ điển hình tượng điển hình chủ yếu khái quát những thuộc tính của loại. Phải đến thế kỷ XIX, chủ nghĩa hiện thực mới sáng tạo được những điển hình đầy đặn, hoàn chỉnh và mang nội dung cụ thể – lịch sử sâu sắc.
+ Trong các thể loại văn học, nhân vật điển hình có hình thức thể hiện cụ thể khác nhau, ở thơ trữ tình điển hình thể hiện ở cảm xúc và tâm trạng. Trong trường hợp này, ta có thể nói tới tâm trạng điển hình, tình cảm điển hình,… Ở các thể loại tự sự, điển hình lại biểu hiện tập trung ở nhân vật và hoàn cảnh. Trong trường hợp này lại có thể nói tới nhân vật điển hình, tính cách điển hình, hoàn cảnh điển hình,…
+ Tính cách điển hình là những đặc điểm tâm lý tương đối ổn định nói lên cốt cách và phẩm chất của nhân vật. Vì tính cách là cốt cách, phẩm chất của nhân vật cho nên tính cách còn dùng để chỉ nhân vật. Tính cách điển hình là tính cách có sự thống nhất sâu sắc giữa tính chung và tính riêng (tức là giữa cái khái quát và cái cụ thể). Về mặt tính riêng (yêu cầu của tính riêng điển hình).
– Sự phong phú đa dạng của tính cách.
+ Tính cách mà con người điển hình phải phong phú, đa dạng như chính những quan hệ đa dạng của nó trong cuộc sống. Kiều được Nguyễn Du mô tả trong rất nhiều mối quan hệ với gia đình và ngoài xã hội, với rất nhiều kiểu người khác nhau.
+ Tính xác định của tính cách tức là tính cá biệt, tính có một không hai, tính duy nhất của điển hình. Cuộc sống của con người là đa tạp nhưng hoàn toàn cụ thể, xác định. Do đó nghệ thuật cũng phản ánh cho được tính xác định đó. Tính xác định của điển hình được biểu hiện tập trung ở cá tính. Cá tính của nhân vật là những đặc trưng tương đối ổn định, nổi bật nhất, dễ thấy nhất, lắp đi lắp lại nhiều lần nhất như một cái khuôn, khuôn mọi biểu hiện của tính cách vào một số hình thái nhất định. Aêngghen viết: “Tính cách nhân vật không những biểu hiện ở chỗ nó làm gì mà còn ở chỗ nó làm như thế nào.” Chính làm như thế nào của tính cách là cá tính của nó.
Ví dụ: cùng là ghen cả nhưng cái ghen của hoạn thư hoàn toàn khác cái ghen của phụ nữ bình thường. Đó là cái ghen biểu thị tính giảo quyệt của mụ. Muốn thể hiện nhân vật trong tính cá thể, xác định thì phải cá thể hóa – biện pháp cơ bản, tất yếu của việc xây dựng hình tượng nghệ thuật, nhằm làm cho hình tượng nghệ thuật trở nên cụ thể, cá biệt, cảm tính và đầy sức sống.
+ Tính chung của tính cách là những đặc trưng có ý nghĩa khái quát, phổ biến của tính cách. Đó là những đặc trưng quyết định phương hướng hành động hay bản chất xã hội của hành động nhân vật. Chị Dậu trong Tắt đèn là một phụ nữ rất mực yêu chồng, thương con, phẩm chất này (tính chung) đã quyết định những hành động hy sinh của chị. Yêu cầu của tính chung là tỉnh khái quát rộng rãi. Mỗi tính cách điển hình phải tiêu biểu cho một tầng lớp người, một giai cấp nhất định, và là sự biểu hiện cho quy luật, cho mặt bản chất của đời sống xã hội.
+ Tính giai cấp là mặt chủ yếu, là đặc điểm quan trọng nhất của tính chung. Trong xã hội có giai cấp, con người là thành viên của một giai cấp. Cuộc đấu tranh giai cấp có tác dụng và ý nghĩa quyết định đến toàn bộ đời sống từng cá nhân. Mỗi con người xã hội từng đặc điểm riêng, nó còn mang những đặc điểm chung của giai cấp nhất định. Chị Dậu điển hình cho giai cấp nông dân lao động. Paven vlaxốp, Pavencortsaghin điển hình cho giai cấp công nhân.
+ Đặc điểm của tính cách giai cấp của điển hình được thể hiện cụ thể hơn các đặc điểm của tầng lớp, bộ phận cấu tạo nên giai cấp. Vì trong quá trình đấu tranh giai cấp, mỗi giai cấp được hình thành và cấu tạo nên từ những tầng lớp người khác nhau. Chí Phèo điển hình cho bộ phận nông dân – cố nông bị lưu manh hóa. Tính giai cấp của con người trong xã hội là không đơn thuần mà phức tạp vì bản chất của con người là tổng hòa những mối quan hệ xã hội. Mỗi con người mang bản sắc giai cấp xuất thân đã đành, nó còn mang bản chất của các giai cấp khác. Do đó, trong văn chương, mỗi nhân vật thường có tình trạng mang theo bản sắc nhiều giai cấp.
+ Hoàn cảnh là môi trường hoạt động của nhân vật, là phạm vi hiện thực khách quan tác động đến quá trình hoạt động của nhân vật. Con người tồn tại và phát triển trong những điều kiện tự nhiên và xã hội nhất định. Môi trường này chính là hoàn cảnh của con người. Môi trường hoạt động chủ yếu của con người là môi trường xã hội. Cho nên, nội dung cơ bản của hoàn cảnh : quan hệ xã hội. Trong xã hội có giai cấp, quan hệ xã hội là quan hệ giai cấp. Hoàn cảnh điển hình là hoàn cảnh của các nhân vật được miêu tả trong tác phẩm, vừa có tính chất tiêu biểu và độc đáo, thể hiện được những tương quan bản chất của đời sống trong những mối liên hệ phát triển biện chứng của chúng với nhau.
+ Không có người nào là không tồn tại trong một hoàn cảnh. Hoàn cảnh, vì vậy, là việc làm tất yếu để từ đó nhà văn tạo nên tính cách trong quá trình phản ánh. Nhưng phản ánh nghệ thuật không phải là sự sao chép những cảnh ngộ tầm thường mà sự phân tích, phát hiện, thể hiện nội dung chủ yếu, mâu thuẫn cơ bản của những tương quan xã hội. Trước hết, hoàn cảnh điển hình là hoàn cảnh thể hiện được những mâu thuẫn cơ bản của xã hội, những tương quan bản chất của đời sống xã hội, những vấn đề cơ bản bức thiết của thời đại. Engels nhấn mạnh đặc trưng này qua việc nhận xét vở kịch “Franz von sickingen” của Lassalle: “Các nhân vật thì thực sự đại biểu cho những giai cấp và những trào lưu nhất định, do đó tiêu biểu cho những tư tưởng nhất định của thời đại họ, và động cơ hành động của họ không phải là những ham thích vụn vặt cá nhân, mà là cái trào lưu lịch sử lôi cuốn họ”.
+ Hoàn cảnh điển hình không phải là môi trường, bối cảnh đơn thuần, mà là “trào lưu lịch sử” – hoàn cảnh thể hiện được tương quan bản chất của xã hội.Nhân vật điển hình là kết quả sáng tạo, là kết tinh của tài năng, kinh nghiệm nghệ thuật phong phú, vốn sống dồi dào, nhận thức sâu sắc của nghệ sĩ, bắt nguồn sâu xa từ hiện thực khách quan, từ niềm tin vào cuộc sống và khát vọng hướng tới cái đẹp, cái thiện của quần chúng trong lịch sử. Do đó, điển hình luôn luôn là hình tượng nghệ thuât bất tử.
III. Những nhận định về hình tượng nhân vật điển hình.
1. “Tính điển hình là một trong những dấu hiệu của tính mới mẻ trong sáng tạo, hay nói đúng hơn là bản thân sức sáng tạo. Nếu có thể thì cũng nói rằng tính điển hình là huy chương của nhà văn. Điển hình là người lạ đã quen biết “. (Bêlinxki)
2. “Hình tượng nhân vật được sinh ra từ tâm trí của nhà văn nhưng chỉ thực sự sống trong tâm trí của người đọc”.
3. “Văn học và đời sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm của nó chính là con người” (Nguyễn Minh Châu).
4. “Nhà thơ tư duy bằng hình tượng” (Biêlinxki).
5. “Nhà triết học nói bằng phép tam đoạn luận, nhà văn nói bằng các hình tượng và bức tranh.” (Bêlinxki:)
6. Kinh Thư xưa có câu: “Thẩm sở mộng chi nhân, khắc kì hình tượng, dĩ tứ phương băng cửu chi ư dân gian” (Xem xét người thấy trong mộng, khắc lấy hình tượng của người ấy để đi tìm khắp bốn phương trong dân gian).
7. “Mỗi hình tượng nhân vật phụ nữ thực sự thành công bao giờ cũng là kết quả của sự phát hiện sâu sắc về nữ tính”.