cac-phuong-tien-to-chuc-nen-loi-van-nghe-thuat

Các phương tiện tổ chức nên lời văn nghệ thuật

Các phương tiện tổ chức nên lời văn nghệ thuật

1. Xét từ góc độ ngữ âm.

Phương tiện ngữ âm của ngôn từ văn học bao gồm âm, thanh, nhịp và điệu. Vì ngôn từ văn học là một sáng tạo thẩm mĩ, nó đòi hỏi sự hòa điệu và nhạc tính. Ngữ âm có vị trí đặc biệt trong việc tạo nên vẻ đẹp của câu thơ. Vần không chỉ có thể là yếu tố đánh dấu câu thơ hoặc các từ trong câu, mà còn có tác dụng gợi tả, biểu cảm. Ví dụ, trong mấy câu thơ của Tố Hữu, từ láy luyến láy có sức gợi tả niềm hân hoan, nao nức, rộn rã trong lòng người đọc mà đọc thành tiếng hay đọc thầm điều thấy rõ:

“Nắng chói sông Lô, hò ô tiếng hát
Chuyến phà dào dạt bến nước Bình Ca

(Ta đi tới)

“Tôi lại về quê mẹ nuôi xưa
Một buổi trưa, nắng dài bãi cát
Gió lộng xôn xao, sóng biển đu đưa
Mát rượi lòng ta ngân nga tiếng hát.”

(Mẹ Tơm)

Khả năng biểu hiện của các đơn vị ngữ âm như âm tiết, thanh điệu, ngữ âm, nguyên âm, vần cũng được chú ý khá nhiều trong tác phẩm văn học. Sự song hành của số lượng âm tiết tạo nên các vế đối trong từng câu, làm câu văn trở nên nhịp nhàng, giàu cảm xúc: “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối; ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, …” (Hịch tướng sĩ – Trần Quốc Tuấn).

Như vậy, sự kết hợp các yếu tố thanh, vần, nhịp điệu, … có những vai trò nhất định góp phần diễn đạt những sắc thái khác nhau của lời văn trong tác phẩm nghệ thuật.

2. Xét từ góc độ từ vựng..

Các phương tiện từ vựng đủ các loại như từ đồng nghĩa, phản nghĩa, từ tục, từ cổ, từ mới, tiếng lóng, tiến nghề nghiệp, tiếng địa phương, từ tôn giáo, tiếng dân tộc ít người, tiếng nước ngoài đều là các phương tiện tạo hình và biểu hiện vô cùng quan trọng. Ví dụ, làm sao tái hiện được cuộc sống thời xưa mà không sử dụng các ngôn từ, cách xưng hô thời ấy như bệ hạ, trẫm, thiết triều, định liệu. Còn làm sống dậy cuộc sống giang hồ, lưu manh mà không biết đến các tiếng lóng như Nguyên Hồng đã viết trong tiểu thuyết Bỉ vỏ, là toàn bộ các từ trong một ngôn ngữ, đây là phương tiện tạo hình và biểu cảm vô cùng quan trọng để tạo nên lời văn nghệ thuật. Có thể kể các loại như từ đồng nghĩa, từ phản nghĩa, tiếng nghề nghiệp, tiếng địa phương, tiếng nước ngoài đã được Việt hóa, từ tôn giáo, … Để tạo nên lời văn nghệ thuật, nhà văn phải tích lũy cho mình một vốn từ phong phú để sử dụng đúng lúc, đúng chỗ.

Sự giàu có từ đồng nghĩa cho phép nhà văn có thể lựa chọn từ phù hợp nhất, đúng nhất để miêu tả. Sự khéo dùng từ đồng nghĩa để nói về “cái chết” nhưng nhà thơ dùng những chữ khác nhau với những sắc thái biểu cảm khác nhau:

“Gục trên súng mũ bỏ quên đời
Áo bào thay chiếu anh về đất”

(Tây Tiến – Quang Dũng)

3. Xét từ góc độ ngữ nghĩa (các phương tiện chuyển nghĩa).

Trong văn học, phép chuyển nghĩa là phương tiện đặc biệt quan trọng giúp người đọc hình dung được một cách sinh động, cụ thể của con người và hiện thượng mà nhà văn tả. Cở sở của chuyển nghĩa là sự tương ứng của hai hiện tượng, hiện tượng này được dùng để nhận thức và lý giải hiện tượng kia. Chuyển nghĩa có nhiều hình thức tiêu biểu và phổ biến. Có thể nói đến các phương thức chuyển nghĩa tiêu biểu:

3.1. So sánh (ví von)

So sánh là một hình thức miêu tả nghệ thuật, nó chỉ ra sự tương đồng giữa hai hiện tượng khác biệt, làm cho hiện tượng này nhờ hiện tượng kia mà được hình dung cụ thể:

“Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như như trong nguồn chảy ra”.

(Ca dao)

Trong so sánh bao giờ cũng có hai vế, vế so sánh, hiện tượng và đối tượng qua so sánh sẽ dễ hiểu hơn, cụ thể và sinh động hơn:

“Trên trời mây trắng như bông
Ở dưới cánh đồng bông trắng như mây
Mấy cô má đỏ hây hây
Đội bông như thể đội mây về làng.”

(Mây và bông – Ngô Văn Phú)

“Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi …”

(Sông Đà – Nguyễn Tuân)

So sánh có nhiều lối, nhiều hình thức thể hiện khác nhau nhưng yêu cầu của bất cứ so sánh nào cũng phải cụ thể, dễ hiểu, hợp lí và có tính nghệ thuật.

3.2. Ẩn dụ (ví ngầm)

Ẩn dụ là hình thức mềm dẻo nhất của phép chuyển nghĩa. Sự đồng nhất hai hiện tượng tương tự, thể hiện cái này qua cái kia:

“Bây giờ mận mới hỏi đào
Vườn hồng đã có ai vào hay chưa?”

(Ca dao)

Mận: người con trai. Đào: người con gái. Vườn ai vào: nghĩa là em có người yêu chưa?

Ẩn dụ là biện pháp so sánh ngầm trong đó chỉ có vế so sánh xuất hiện nhưng nhờ sự liên tưởng văn cảnh, người đọc vẫn có thể liên hệ được đến đối tượng được so sánh:

“Thuyền về có nhớ bến chăng?
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền”.

(Ca dao)

3.3. Nhân hóa

Nhân hóa là đồng nhất sự vật vô sinh với sự vật hữu sinh, cho nó sống động, có hồn, có tình:

“Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất?
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt lên vai
Khăn thương nhớ ai
Khăn chùi nước mắt”

(Ca dao)

Nhân hóa là hiện tượng nghệ thuật sử dụng từ vốn chỉ thuộc tính, khả năng của con người chuyển sang biểu thị thuộc tính, khả năng của đối tượng không phải người:

“Vì sương nên núi bạc đầu
Biển lay bởi gió, hoa sầu vì mưa”.

(Ca dao)

Hoặc trò chuyện, bày tỏ với một đối tượng không phải người:

“Núi cao chi lắm núi ơi,
Núi che mặt trời chẳng thấy người thương”

(Ca dao)

3.4. Phúng dụ

Phúng dụ là phương thức biểu hiện không đồng nhất thường xuyên và tuyệt đối hình tượng với ý nghĩa. Cái chính là dựa trên ý nghĩa ngụ ý, kí thác, được đúc kết bằng cốt truyện tựa như ngụ ngôn. Đây là sự tổ chức các hình ảnh sinh hoạt, cụ thể để biểu thị một ý niệm về triết lí, nhân sinh dựa trên cơ sở liên tưởng những nét tương đồng giữa các hình ảnh sinh động và ý niệm về triết lí nhân sinh. Vì vậy, phúng dụ bao giờ cũng có hai ý nghĩa: ý nghĩa bề mặt và ý nghĩa bề sâu:

“Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh bông trắng lại chen nhụy vàng
Nhụy vàng bông trắng lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”

(Ca dao)

3.5. Tượng trưng

Tương trưng là một ẩn dụ đặc biệt, một quy ước khiến mọi người đều hiểu rõ từ ngữ này có thể biểu thị một đối tượng khác ngoài cái nội dung ngữ nghĩa thông thường của nó:

“Búa liềm không sợ súng gươm bạo tàn”.

(Ba mươi năm đời ta có Đảng – Tố Hữu)

Tượng trưng là hình tượng bóng gió của từ ngữ biểu thị một ý nghĩa độc lập cố định đã thành ước lệ:

“Thuyền về có nhớ bến chăng
Bến thì một dạ, khăng khăng đợi thuyền.”

(Ca dao)

Thuyền tượng trưng cho người con trai, bến tượng trưng cho người con gái.

Con cò trong ca dao thường tượng trưng cho thân phận vất vả của người phụ nữ, người nông dân hiền lành, chất phác. Hình ảnh con cò được thể hiện thật cảm động trong bài Thương vợ của Trần Tế Xương:

“Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng
Lăn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”.

3.6. Nhã ngữ

Nhã ngữ (uyển ngữ, nói giảm), lối diễn đạt bằng từ hay nhóm từ cố ý giảm thiểu mức độ, kích thước, ý nghĩa của đối tượng để đạt hiểu quả biểu hiện nhất định. Đây là lối dùng từ cố ý giảm đi mức độ của khích thước, tính chất, hiệu quả của sự vật, hiện tượng nhằm thể hiện một tình cảm nào đó và thường được sử dụng để nói về cái chết:

“Bác Dương thôi đã thôi rồi
Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta”

(Khóc Dương Khuê – Nguyễn Khuyến)

3.7. Phản ngữ

Phản ngữ là lối vận dụng các từ đối lập về ý nghĩa để biểu hiện một đối tượng nhằm nêu bật ý nghĩa nhiều mặt của nó. Vận dụng các từ ngữ biểu thị những khái niệm đối lập nhau cùng xuất hiện trong một văn cảnh nhằm mục đích làm rõ hơn đặc điểm của đối tượng được miêu tả:

Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già”
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật”

(Vội vàng – Xuân Diệu)

3.8. Chơi chữ

Chơi chữ là biện pháp tu từ vận dụng linh hoạt các tiềm năng về ngữ âm, chữ viết, từ vựng, ngữ pháp của tiếng Việt, nhằm tạo nên phần tin khác loại tồn tại song song với phần tin cơ sở. Phần tin khác loại này – tức lượng ngữ nghĩa mới là bất ngờ và về bản chất là không có quan hệ phù hợp với phần tin cơ sở:

“Con công đi chùa làng kênh
Nó nghe tiếng cồng nó kềnh cổ lại”.

(Ca dao)

Chơi chữ là phương thức sử dụng từ ngữ một cách đặc biệt nhằm tạo nên một nét nghĩa bổ sung, bất ngờ, tồn tại song song với nét nghĩa chính:

“Bà già đi chợ cầu Đông
Bói xem một quẻ có chồng lợi chăng
Ông thầy xem quẻ đoán rằng
Lợi thì có lợi nhưng răng không còn”.

(Ca dao)

“Trăng bao nhiêu tuổi trăng già
Núi bao nhiêu tuổi gọi là núi non”.

(Ca dao)

4. Xét từ góc độ cú pháp.

Lời văn trong tác phẩm văn học khác với lời nói hàng ngày, khác với báo chí văn khoa học ở chỗ nó là một hiện tượng nghệ thuật do tính hình tượng và tính tổ chức cao. Để xây dựng ngôn ngữ đó, nhà văn nhà thơ khai thác các phương tiện biểu hiện vốn có của ngôn ngữ tự nhiên bằng các phương tiện cú pháp như câu, điệp từ, chấm câu, câu nghi vấn, câu cảm thán, … cũng giúp cho lời văn nghệ thuật có sức truyền cảm nhằm diễn đạt ý tình của nhà văn.

Các phương cú pháp có ý nghĩa rất quan trọng để tạo thành câu văn nghệ thuật. Chẳng hạn câu đồng nghĩa, câu cảm thán, câu nghi vấn, các loại câu phức, câu rút gọn, điệp ngữ. Tác phẩm văn học không hạn chế trong phạm vi từ ngữ mà còn ở cả trong trật tự cú pháp của câu văn. Trong văn học khi nhắc đến cú pháp thơ văn người ta thường hay nhắc đến một số kiểu câu có tính chất từ phổ biến trong văn thơ:

“Em là ai? Cô gái hay nàng tiên
Em có tuổi hay không có tuổi?
Mái tóc em đây hay là mây là suối
Đôi mắt em nhìn hay chớp lửa đêm giông
Thịt da em hay là sắt là đồng”.

(Người con gái Việt Nam – Tố Hữu)

Các phương tiện xây dựng lời văn nghệ thuật rất phong phú, đa dạng. Việc nắm bắt các phương tiện trên chỉ mới là cơ sở để hiểu lời văn nghệ thuật. Điều quan trọng là phải phát hiện những phương tiện đó được nhà văn vận dụng cụ thể như thế nào để tạo nên lời văn nghệ thuật.

5. Các thành phần của lời văn trong tác phẩm văn học

a. Lời trực tiếp:

Lời trực tiếp là lời của nhân vật trong tác phẩm văn học. Qua đó, người ta biết được môi trường, nghề nghiệp, học vấn, tâm lí, lứa tuổi, cá tính nhân vật. Ví dụ, trong Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân, ta thấy nhân vật Huấn Cao trả lời với viên quan ngục: “Người hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều: là nhà ngươi đừng đặt chân chân vào đây”. Lời nói này, phản ánh khí thế hiên ngang của ông Huấn Cao, là lời nói của một con người không chịu cúi mình cầu xin loại người xấu xa, độc ác, lời nói của con người từ lâu đã dứt khoát không chấp nhận sống chung với cái xấu, cái ác mà ông cố làm ra khinh bạc.

Nguyên tắc miêu tả lời nói đã cho phép văn học tái hiện lời nói trong tổng thể biểu hiện của con người và trong tổng thể hoạt động nội tâm. Do đó, không nhất thiết khi nào nhân vật cũng nói đủ ý tứ. Nhà văn phải ý thức được rằng lời nhân vật là một tồn tài khách quan, phải quan sát mới khắc họa được. Cho nên, lời trực tiếp còn góp phần thể hiện nội tâm của nhân vật. Lời nội tâm là một dạng đặc biệt của lời trực tiếp. Ví dụ, trong Lão Hạc của Nam Cao: “Cái vườn của con ta. Hồi còn mồ ma mẹ nó, mẹ nó cố thắt lưng buộc bụng, dè sẻn mãi, mới đề ra được năm mươi đồng bạc tậu. Hồi ấy, mọi thức còn rẻ cả, … của mẹ nó tậu, thì nó hưởng. lớp trước nó đòi bán, ta không cho bán là ta có ý giữ cho nó, chú nó phải giữ để ta ăn đâu? Nó không có tiền cưới vợ, phẫn chí bước ra đi thì đến lúc có tiền lấy vợ, mới chịu về. Ta bòn vườn của nó, cũng nên để ra cho nó; đến lúc nó về, nếu nó không đủ tiền cưới vợ thì ta thêm vào với nó, nếu nó có đủ tiền cưới vợ, thì ta cho vợ chồng nó để có chút vốn mà làm ăn, …”. Nam Cao đã để nhân vật lão Hạc thổ lộ tình cảm của lão với đứa con đang kiếm ăn ở phương trời xa.

b. Lời gián tiếp:

Lời gián tiếp là lời đảm đương chức năng trần thuật, giới thiệu, miêu tả, bình luận con người và sự kiện, phân biệt với lời trực tiếp được đặt trong ngoặc kép hoặc sau gạch đầu dòng. Lời gián tiếp là lời của người trần thuật, người kể chuyện. Đây là cách gọi ước lệ để chỉ chức năng trần thuật của lời văn, dù là lời kể theo ngôi thứ nhất. Lời gián tiếp có thể chia hai loại, lời gián tiếp một giọng và lời gián tiếp nhiều giọng.

– Lời gián tiếp một giọng: là lời kể hướng tới sự vật nhằm tái hiện, giới thiệu về nó. Lời tái hiện hay bình phẩm các hiện tượng của thế giới theo ý nghĩa khách quan vốn có của chúng theo ý đồ của tác giả, không liên quan gì đến ý thức, suy nghĩ của người khác về chúng. Trong văn học dân gian và văn học cổ, các tác giả thường sử dụng hình thức này. Ví dụ, “Thuở ấy chưa có vũ trụ, chưa có muôn vật và loài người. Trời đất chỉ là một đám hỗn độn, tối tăm và lạnh lẽo” (Thần trụ trời). Đây là loại lời kể đơn giản và cổ xưa nhất.

– Lời gián tiếp nhiều giọng: là lời kể vừa hướng vào tái hiện đối tượng lại vừa đối thoại ngầm với lời người khác ngoài đối tượng, hoặc đối thoại ngầm với chính đối tượng. Đây là loại lời phát triển nhất và phong phú nhất, ở đây chỉ lưu ý số dạng thường gặp.

+ Lời phong cách hóa: là lời trần thuật bằng giọng người khác mà khuynh hướng nghĩa cùng chiều với lời giọng ấy, để tạo sắc thái, không khí cá thể. Ví dụ, đoạn văn trong truyện Mùa lạc của Nguyễn Khải: “Đào lên nông trường Điện Biên vào dịp đầu năm, ngoài Tết âm lịch chừng nửa tháng với tâm lý con chim bay mãi cũng mỏi cánh,

con ngựa chạy mãi cũng chồn chân, muốn tìm một nơi hẻo lánh nào đó, thật xa những nơi quen thuộc để quên đi cuộc đời đã qua, còn những ngày sắp tới ra sao chị cũng không cần rõ, đại khái là cũng chẳng hơn gì trước mấy, có thể gặp nhiều đau buồn hơn. Quân tử gian nan, hồng nhan vất vả, số kiếp người đã định thế, …”. Những câu thành ngữ thể hiện ý thức của những người “ba chìm bảy nổi chín lênh đênh” với một lòng đồng cảm.

+ Lời nửa trực tiếp: là lời của người trần thuật với lời lẽ ý nghĩ, ngữ điệu của nhân vật, nhằm bộc lộ nội tâm nhân vật. Ví dụ, đoạn văn trong Vợ chồng A Phủ của Tô

Hoài: “Rồi say, Mỵ lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người nhảy đồng, người hát, nhưng lòng Mỵ thì đang sống về ngày trước. Tai Mỵ văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng. Ngày trước, Mỹ thổi sáo giỏi, … Mỵ trẻ lắm. Mỵ vẫn còn trẻ. Mỵ muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày Tết. Huống chi A Sử với Mỵ, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau! Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mỵ sẽ ăn cho chết ngay! Không buồn nhớ lại nữa…”. Vẫn là lời trần thuật của người trần thuật, đồng thời lại là tiếng lòng thổn thức của nhân vật. Nhân vật tự cảm mà không nói, người trần thuật nói lời thầm kín của nhân vật.

c. Lời kể ngôi thứ nhất, xưng “tôi”:

Đa số thuộc lời trực tiếp, vì là lời của nhân vật, nhưng xét về chức năng trần thuật thì nó có tính gián tiếp. Thực ra tính trực tiếp ở đây có tính ước lệ. Nhà văn mượn tính trực tiếp như một điểm nhìn trần thuật (truyện có tính chất tự truyện, thể nhật kí, hoặc người chứng kiến kể chuyện). Lời này mang lại một điểm nhìn mang quan niệm đặc biệt, mang lại chất trữ tình, khả năng tự bộc bạch, tự phân tích (chẳng hạn, truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao).

d. Lời trần thuật nội tâm:

Độc thoại là lời của nhân vật, lời trực tiếp, có thể nói với mình, hay với người khác, nhưng nó độc lập với các đối đáp. Độc thoại nội tâm là một biện pháp bộc lộ những cảm xúc, ý nghĩ thầm kín. Bởi vì, trong ý nghĩ con người tỏ ra tự do hơn là trong lời nói ra lời. Ví dụ, trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, Kiều có ý nghĩ:

“Biết thân đến bước lạc loài
Nhị đào thà bẻ cho người tình chung”.

Như vậy, độc thoại nội tâm có thể là lời trực tiếp vừa có thể là lời gián tiếp dùng để trần thuật. Phạm vi của nó bao gồm cả lời nửa trực tiếp.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang